BỘ TÀI CHÍNH
********
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh
phúc
********
|
Số: 30-TC/NSNN
|
Hà Nội, ngày 05
tháng 4 năm 1994
|
THÔNG
TƯ
CỦA BỘ TÀI CHÍNH SỐ 30-TC/NSNN NGÀY 5-4-1994 HƯỚNG DẪN MỘT
SỐ ĐIỀU VỀ TÀI CHÍNH VÀ NGÂN SÁCH TRONG QUYẾT ĐỊNH SỐ 60-TTG NGÀY 8-2-1994 CỦA
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Căn cứ Quyết định số 60-TTg
ngày 8-2-1994 của Thủ tướng Chính phủ về một số chủ trương và biện pháp điều
hành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 1994; Bộ Tài chính hướng dẫn cụ
thể một số điểm như sau.
I. VỀ NHIỆM VỤ
CHI CỦA NGÂN SÁCH ĐỊA PHƯƠNG
Trong nhiệm vụ chi của ngân sách
địa phương có một số thay đổi so với những quy định tại Quyết định số 168-HĐBT
ngày 16-5-1992 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về việc sửa đổi, bổ
sung Nghị quyết số 186-HĐBT ngày 27-11-1989 và Thông tư hướng dẫn số
15a-TC/NSNN ngày 28-5-1992 của Bộ Tài chính, cụ thể:
1. Chi đầu tư xây dựng cơ bản:
Đây là khoản chi đầu tư xây dựng
các công trình hạ tầng kinh tế xã hội, được ghi trong kế hoạch hàng năm cho
ngân sách địa phương. Trong chỉ tiêu tổng số vốn đầu tư, ngoài vốn đầu tư xây dựng
cơ bản tập trung bằng vốn trong nước, còn ghi cả phần vốn thiết bị bằng nguồn bằng
vốn ngoài nước của các công trình (chủ yếu là công trình nước) có vốn đầu tư nước
ngoài. Phần này khi phát sinh Ngân sách Trung ương "ghi thu, ghi chi"
cho ngân sách địa phương. Riêng vốn đầu tư bằng nguồn khấu hao cơ bản nộp ngân
sách, chỉ đầu tư cho các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, có nhu cầu đổi mới
công nghệ, mở rộng sản xuất, đã có luận chứng kinh tế kỹ thuật được cấp có thẩm
quyền phê duyệt. Đối tượng được tái đầu tư thuộc các Sở, ngành, địa phương do
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố, trực thuộc Trung ương quyết định.
2. Trong chi sự nghiệp kinh tế từ
năm 1994 chi sự nghiệp lâm nghiệp (bao gồm cả chi cho bộ máy kiểm lâm nhân dân)
được tính vào nhiệm vụ chi của địa phương. Riêng kinh phí đo đạc địa giới hành
chính tỉnh, huyện, xã theo Chỉ thị số 364-CT ngày 6-11-1991 của Chủ tịch Hội đồng
Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ), theo đề nghị của Ban Tổ chức - Cán bộ
Chính phủ, chuyển về Ngân sách Trung ương chi, sẽ được cấp thông qua kinh phí uỷ
quyền (cấp qua Sở Tài chính vật giá)
3. Chi về văn hoá, y tế, xã hội:
Trong các nhiệm vụ chi về văn
hoá, y tế, xã hội của ngân sách địa phương cơ bản vẫn giữ như quy định hiện
hành. Đối với chi chống sốt rét, bướu cổ chủ yếu là Ngân sách Trung ương chi,
nên chỉ cân đối có tính chất hỗ trợ thêm cho tỉnh theo Thông tư liên Bộ số
5-TT/LB ngày 11-4-1992.
4. Chi cho bộ máy quản lý Nhà nước
ở địa phương: cơ bản giữ như y quy định hiện hành, chỉ chuyển về Ngân sách
Trung ương chi cho bộ máy của Uỷ ban Dân số và Kế hoạch hoá gia đình ở địa
phương và được thực hiện chi theo chương trình của Nhà nước.
5. Chi xây dựng kết cấu hạ tầng
từ nguồn thu cấp quyền sử dụng đất:
Năm 1994, để khuyến khích các địa
phương có thêm nguồn đầu tư cơ sở hạ tầng, Chính phủ đã cho phép các địa phương
được sử dụng số thu cấp quyền sử dụng đất để đầu tư cơ sở hạ tầng. Các tỉnh,
thành phố cần có kế hoạch quy hoạch và các đề án cụ thể xây dựng kết cấu hạ tầng
để thực hiện bảo đảm có hiệu quả và chống thất thoát nguồn thu này. Do vậy, năm
1994 ngân sách đã được bố trí khoản chi xây dựng kết cấu hạ tầng của địa phương
tương ứng với kế hoạch thu về nguồn thu cấp quyền sử dụng đất. Khoản chi này chỉ
được thực hiện khi có nguồn thu phát sinh, nên để không ảnh hưởng đến cân đối
ngân sách địa phương nguồn thu này có thể được theo dõi riêng vào tài khoản ở
Kho bạc khi thực hiện chi sẽ phản ánh vào ngân sách (ghi thu, ghi chi)
6. Dự bị phí:
Năm 1994 ngân sách các địa
phương được bố trí khoản dự bị phí để chủ động giải quyết các nhu cầu chi phát
sinh đột suất trong quá trình thực hiện như khắc phục thiên tai, mất mùa, cứu
đói và các khoản đột suất khác... Chỉ khi nào đói kém, thiên tai... xảy ra ở diện
lớn, Ngân sách Trung ương mới xem xét, hỗ trợ. Như vậy không được sử dụng quỹ dự
phòng để bổ sung vào những công việc đã được ghi vào kế hoạch và việc sử dung
quỹ dự phòng phải do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh quyết định.
7. Đối với các chương trình mục
tiêu do Trung ương quản lý nhưng ghi trên địa bàn sẽ được thông báo cụ thể cho
từng địa phương và được cấp phát kinh phí uỷ quyền qua Sở Tài chính. Đề nghị
các đồng chí Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố chỉ đạo các ngành liên
quan triển khai phân bổ và thông báo cho các quận, huyện, đơn vị trực thuộc và
thường xuyên giám sát kiểm tra chặt chẽ đảm bảo tiền chi đúng mục đích và có hiệu
quả, thực hiện đúng các yêu cầu quy định tại Công văn số 80-TC/NSNN ngày
24-9-1993 của Bộ Tài chính.
II. CƠ CHẾ
HÌNH THÀNH NGUỒN THU CỦA NGÂN SÁCH ĐỊA PHƯƠNG.
Theo Quyết định số 60-TTg ngày
8-2-1994 của Thủ tướng Chính phủ, thu của ngân sách địa phương đã được bổ sung ở
những điểm chính sau đây:
1. Những khoản thu được để lại
cho các địa phương 100%, năm 1994 được xác định thêm.
- Toàn bộ các khoản thuế tài
nguyên (trừ tài nguyên về dầu thô). Như vậy kể cả tài nguyên về thuỷ điện lớn từ
nguồn thuỷ điện Hoà Bình, Trị An, Đa Nhim, Thác Bà cũng được để lại cho địa
phương có nguồn nước (Trị An cho Đồng Nai, Đa Nhim cho Lâm Đồng, Hoà Bình được
phân cho tỉnh Hoà Bình 60% và tỉnh Sơn La 40% số thu, Thác Bà cho Yên Bái).
- Thu cấp quyền sử dụng đất.
- Thuế sử dụng đất nông nghiệp.
- Thuế thu nhập của những người
có thu nhập cao (trừ thuế thu nhập ở Bà Rịa - Vũng Tàu).
Ngoài ra đối với thuế lợi tức
(trừ lợi tức của các đơn vị hạch toán toàn ngành) chỉ điều chỉnh tỷ lệ để lại
là 50% cho ngân sách thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu, Long An, Kiên Giang, Đồng Nai, Sông Bé và Quảng Ninh, còn 50% điều về
Trung ương để hỗ trợ thêm cho miền núi. Riêng thuế chuyển lợi nhuận ra nước
ngoài tỷ lệ để lại cho ngân sách địa phương được áp dụng như thuế lợi tức (trừ
phần của liên doanh dầu khí).
Đối với thuế xuất nhập khẩu tiểu
ngạch, năm 1994 thống nhất do Hải quan thu và hạch toán chung vào mục thu thuế
xuất nhập khẩu nên không để lại cho ngân sách địa phương (nộp 100% vào Ngân
sách Trung ương).
Trong các khoản thu sự nghiệp do
địa phương quản lý, từ năm 1994 khoản thu tiền nuôi rừng đối với sản phẩm rừng
trồng được thực hiện thu vào thuế sử dụng đất nông nghiệp và để lại theo cơ chế
chung.
2. Khoản thu được quy định để lại
ngân sách địa phương theo tỷ lệ % (thu điều tiết) tuỳ thuộc vào nhiệm vụ chi của
ngân sách địa phương hàng năm: năm 1994 chỉ có thuế doanh thu và thực hiện theo
quyết định của Bộ trưởng Bộ Tài chính.
3. Việc thực hiện nguồn bổ sung
của Ngân sách Trung ương:
Đối với những tỉnh, thành phố
sau khi đã xác định được để lại 100% thuế doanh thu, nhưng chưa đủ cân đối nhu
cầu chi theo kế hoạch Trung ương giao thì Ngân sách Trung ương sẽ cấp bổ sung
cho ngân sách địa phương. Từ năm 1994 nhằm tạo điều kiện chủ động cho địa
phương tận dụng nguồn thu tại chỗ, việc giải quyết cấp bổ sung sẽ được thực hiện
như sau:
- Trước hết được gán trừ bằng số
tuyệt đối các khoản thu của Ngân sách Trung ương trên địa bàn (kể cả thuế xuất
nhập khẩu). Việc gán trừ cho từng tỉnh sẽ có hướng dẫn riêng.
- Nếu việc gán trừ trên chưa đủ
thì Ngân sách Trung ương sẽ cấp bổ sung trực tiếp như hiện nay.
Căn cứ vào kế hoạch ngân sách
Chính phủ giao về chỉ tiêu Ngân sách Trung ương bổ sung cho ngân sách địa
phương và kế hoạch chi tiết các khoản thu của Ngân sách Trung ương trên địa
bàn, Bộ Tài chính xác định và thông báo cho địa phương số gán trừ của Ngân sách
Trung ương trên địa bàn và số bổ sung trực tiếp cho ngân sách địa phương trong
năm 1994. Trong quá trình điều hành số thông báo trên được chia theo quý gửi về
Sở Tài chính và Chi cục Kho bạc địa phương để có căn cứ thực hiện.
Các Chi cục Kho bạc thực hiện
gán trừ từng tháng đảm bảo cho chi ngân sách địa phương hoạt động được bình thường.
Trường hợp thu Ngân sách Trung ương trong quý không đủ số gán trừ, Sở Tài chính
được tạm ứng tiền nhàn rỗi Kho bạc để đáp ứng nhu cầu chi. Nếu cuối năm số thu
Ngân sách Trung ương thực hiện không đủ số gán trừ đã thông báo do kế hoạch
không sát thì Ngân sách Trung ương sẽ cấp bổ sung trực tiếp cho đủ. Cục Kho bạc
Nhà nước có trách nhiệm hướng dẫn chế độ hạch toán kế toán và chế độ báo cáo để
thực hiện được phương thức gán trừ trên.
III. VỀ CÁC
KHOẢN VƯỢT THU SO VỚI KẾ HOẠCH CHÍNH PHỦ GIAO
Năm 1994 Quốc hội và Chính phủ
đã có quyết định về cơ chế thưởng cho các tỉnh, thành phố đối với các khoản thu
vượt. Để thực hiện, Bộ Tài chính hướng dẫn cụ thể như sau:
- Để lại cho ngân sách địa
phương 100% số vượt thu của các khoản thu đã quy định để lại 100% cho địa
phương, riêng đối với khoản vượt kế hoạch thu về thuế lợi tức của thành phố Hà
Nội, thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Long An, Kiên Giang, Đồng
Nai, Sông Bé và Quảng Ninh vẫn thực hiện tỷ lệ cho ngân sách địa phương 50% và
ngân sách Trung ương 50% phần vượt theo Quyết định số 60-TTg ngày 8-2-1994 của
Thủ tướng Chính phủ.
- Đối với thuế doanh thu, nếu thực
hiện vượt kế hoạch giao được xử lý như sau:
+ Các địa phương có tỷ lệ thuế
doanh thu được hưởng 100% , khi thực hiện vượt kế hoạch thuế doanh thu, phần vượt
được nộp ngân sách Trung ương: 40%, ngân sách địa phương: 60%.
+ Các địa phương có tỷ lệ thuế
doanh thu được hưởng dưới 100%, khi thực hiện vượt kế hoạch thuế doanh thu, phần
vượt được nộp ngân sách Trung ương: 40%, ngân sách địa phương: 60%.
Các Chi cục Kho bạc cần căn cứ
vào kế hoạch về thuế doanh thu đã giao cho từng tỉnh để điều chỉnh tỷ lệ điều
tiết phần thu vượt theo đúng quy định trên.
Cục Kho bạc Nhà nước có trách
nhiệm hướng dẫn hạch toán kế toán và phân chia cụ thể nguồn thu giữa Ngân sách
Trung ương và ngân sách địa phương đối với các khoản thực hiện vượt kế hoạch
thu khi số thu vượt nộp Ngân sách Nhà nước.
Các khoản vượt thu để lại nói
trên chỉ được dùng để xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, bổ sung vốn lưu
động còn thiếu theo quy định hiện hành đối với các doanh nghiệp Nhà nước và trả
nợ nước ngoài (nếu có). Các địa phương không được sử dụng các khoản vượt thu để
chi tiêu mua sắm lãng phí không cần thiết hoặc thưởng cho các ngành, các đơn vị
trái với quy định của Nhà nước.
IV. TỔ CHỨC
THỰC HIỆN
Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương căn cứ vào Quyết định số 168-HĐBT ngày 16-5-1992 của
Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ), Quyết định số 60-TTg ngày 8-2-1994 của
Thủ tướng Chính phủ và Thông tư hướng dẫn này của Bộ Tài chính để tổ chức, hướng
dẫn cho các cơ quan, đơn vị và các cấp chính quyền thuộc địa phương quản lý thực
hiện.
Thông tư này có hiệu lực thi
hành kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1994. Trong quá trình thực hiện, nếu có vướng mắc
đề nghị phản ánh cho Bộ Tài chính biết để có hướng dẫn thêm.