THỦ
TƯỚNG CHÍNH PHỦ
******
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
260-TTg
|
Hà
Nội, ngày 20 tháng 06 năm 1977
|
THÔNG TƯ
VỀ VIỆC BỔ SUNG, SỬA ĐỔI MỘT SỐ QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ VÀ HẠCH
TOÁN TÀI SẢN CỐ ĐỊNH CỦA CÁC XÍ NGHIỆP QUỐC DOANH
Chế độ quản lý và hạch toán tài sản cố định của
các xí nghiệp quốc doanh đã được quy định trong nhiều văn bản của Nhà nước như quy
định tạm thời số 131-TTg ngày 04-04-1957, thể lệ tạm thời số 132-TTg ngày
04-04-1957, quyết định số 150-TTg ngày 17-05-1971 v.v…
Những chế độ này đã góp phần vào việc tăng cường
quản lý kinh tế, tài chính và bảo vệ tài sản Nhà nước.
Đến nay, công tác quản lý và hạch toán tài sản cố
định tại nhiều xí nghiệp còn thiếu chặt chẽ, dẫn đến hậu quả là nhiều máy móc,
thiết bị chưa được sử dụng hết công suất; nhiều tài sản cố định bị mất hoặc hư
hỏng trước thời hạn sử dụng đã được quy định; nhiều tài sản cố định đang dùng
trong sản xuất kinh doanh không được ghi vào sổ sách của xí nghiệp, không tính
khấu hao, v.v…
Tài sản cố định của ta hiện nay đã tăng lên gấp
bội so với trước. Để chấn chỉnh và tăng cường quản lý theo phương thức hạch
toán kinh kế, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định việc sửa đổi, bổ sung một số điểm
trong chế độ quản lý và hạch toán tài sản cố định như sau.
I. TIÊU CHUẨN VỀ TÀI SẢN CỐ ĐỊNH
1. Những công cụ lao động của xí nghiệp quốc
doanh có đủ hai điều kiện dưới đây, được coi là tài sản cố định:
a) Giá trị đơn vị từ 500 đồng trở lên;
b) Thời gian sử dụng trên một năm.
Thiếu một trong hai điều kiện nói trên, thì coi
là công cụ lao động thuộc tài sản lưu động.
2. Để đáp ứng yêu cầu quản lý công cụ lao động của
từng ngành, đối với một số trường hợp đặc biệt, sau khi được Bộ Tài chính chấp
thuận, các Bộ và Tổng cục của quản xí nghiệp có thể xếp vào tài sản cố định một
số công cụ lao động có giá trị dưới 500 đồng.
3. Riêng đối với các tỉnh phía Nam, trong khi
chưa đánh giá lại tài sản cố định, thì tạm thời vẫn theo các phân loại tài sản
cố định đã ghi sổ sách kế toán và sử dụng giá trị tài sản cố định được phép tạm
tính trong đợt kiểm kê ngày 01 tháng 01 năm 1977 cho đến khi có quyết định mới.
II. KHẤU HAO TÀI SẢN CỐ ĐỊNH VÀ SỬA CHỮA LỚN TÀI SẢN CỐ ĐỊNH.
1. Tất cả những tài sản cố định hiện có ở xí
nghiệp đều phải được huy động, sử dụng trong năm kế hoạch và phải tính khấu
hao. Trong trường hợp có những tài sản cố định thừa không cần dùng hoặc chưa cần
dùng, xí nghiệp phải lập bảng kê chi tiết, báo cáo lên Bộ, Tổng cục chủ quản (đối
với các xí nghiệp trung ương) hoặc Sở, Ty chủ quan (đối với các xí nghiệp địa
phương) để xem xét và giải quyết. Các Bộ, Tổng cục chủ quản và các Sở, Ty chủ
quản ở địa phương, sau khi kiểm tra và xác nhận những tài sản cố định đó thực sự
không cần dùng cho xí nghiệp, phải có kế hoạch điều động cho các xí nghiệp khác
trong ngành sử dụng, hoặc kiến nghị với Thủ tướng Chính phủ để huy động, sử dụng
cho các ngành khác nếu xét thấy trong ngành mình không cần dùng. Trong trường hợp
có những tài sản cố định không cần dùng hoặc chưa cần dùng, nhưng được Thủ tướng
Chính phủ cho phép tạm thời giữ lại trong ngành; Bộ và Tổng cục chủ quản (hoặc Ủy
ban nhân dân tỉnh đối với xí nghiệp địa phương) được quyền quyết định cho các
xí nghiệp không tính khấu hao đối với những tài sản cố định đó.
Tỷ lệ khấu hao tài sản cố định phải được tính
toán căn cứ vào thời gian sử dụng, điều kiện và chế độ làm việc của tài sản cố
định, bảo đảm thu hồi vốn nhanh cho Nhà nước và khuyến khích việc sử dụng có hiệu
quả tài sản cố định. Tỷ lệ khấu hao quy định riêng cho khấu hao cơ bản và khấu
hao sữa chữa lớn.
Trong khi chờ đợi Nhà nước quy định lại chế độ
khấu hao tài sản cố định cho các ngành kinh tế, các Bộ, Tổng cục, Ủy ban nhân
dân tỉnh, thành phố, chủ quản xí nghiệp vẫn thi hành những tỷ lệ khấu hao đã
có, nhưng cần bổ sung, điều chỉnh những tỷ lệ không hợp lý, bảo đảm tất cả tài
sản cố định hiện có đều có tỷ lệ khấu hao. Tất cả các xí nghiệp phải thi hành
các tỷ lệ khấu hao do Bộ, Tổng cục chủ quản, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố
quy định.
Các Bộ, Tổng cục chủ quản, Ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố căn cứ vào tỷ lệ khấu hao của các Bộ chuyên ngành để định tỷ lệ khấu
hao thống nhất cho các đơn vị cơ sở trực thuộc Bộ mình, địa phương mình
Nếu có trường hợp cần điều chỉnh tỷ lệ khấu hao
cho phù hợp với điều kiện sử dụng tài sản cố định, thì việc điều chỉnh được thực
hiện bằng cách áp dụng hệ số tăng giảm, tỷ lệ khấu hao (khấu hao cơ bản và khấu
hao sữa chữa lớn). Áp dụng hệ số tăng cho những tài sản cố định được sử dụng
trong điều kiện khắc nghiệt làm tăng nhanh sự hao mòn. Áp dụng hệ số giảm cho
những tài sản cố định được sử dụng trong những điều kiện thuận lợi (ít bị tác động
của môi trường bên ngoài) làm giảm bớt sự hao mòn.
Bộ Tài chính có trách nhiệm bàn với Ủy ban Kế hoạch
Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước và các Bộ, Tổng cục chủ quản để ban hành biểu tỷ lệ
khấu hao và bảng hệ số tăng giảm tỷ lệ khấu hao, áp dụng thống nhất cho tất cả
các ngành trong phạm vi cả nước.
Sau khi có biểu tỷ lệ khấu hao và bảng hệ số
tăng giảm tỷ lệ khấu hao thống nhất, các Bộ, Tổng cục chủ quản quy định tỷ lệ
khấu hao và hệ số tăng giảm tỷ lệ khấu hao (khấu hao cơ bản và khấu hao sửa chữa
lớn) cho ngành mình trong phạm vi tỷ lệ khấu hao và hệ số tăng giảm tỷ lệ khấu
hao thống nhất của Nhà nước sau khi bàn với Bộ Tài chính.
2. Số tiền khấu hao cơ bản của tài sản cố định
xây dựng, mua sắm bằng vốn do ngân sách cấp hoặc bằng vốn tự có của xí nghiệp vẫn
được phân phối theo chế độ hiện hành; số tiền khấu hao cơ bản của tài sản cố định
xây dựng, mua sắm bằng vốn vay Ngân hàng Nhà nước phải được dùng để trả vốn
theo đúng thời hạn quy định.
Số tiền khấu hao sửa chữa lớn tài sản cố định do
xí nghiệp quản lý và phải gửi vào tài khoảng riêng ở ngân hàng.
Dưới đây là hai trường hợp được giải quyết đặc
biệt :
a) Đối với tài sản cố định đã được thu hồi hoặc
hoàn trả đủ vốn (khấu hao cơ bản hết) nhưng vẫn còn sử dụng được, xí nghiệp tiếp
tục trích khấu hao cơ bản và khấu hao sửa chữa lớn theo tỷ lệ và nguyên giá cũ,
hạch toán vào giá thành (hay phí lưu thông), nhưng không hạch toán giảm vốn cố
định. Số tiền khấu hao cơ bản này sẽ bổ sung vào quỹ khuyến khích phát triển sản
xuất (hoặc quỹ chuyên dùng); số tiền khấu hao aư3a chữa lớn vẫn do xí nghiệp quản
lý.
b) Đối với tài sản cố định chưa khấu hao cơ bản
hết mà đã hư hỏng (do khuyết điểm chủ quan của xí nghiệp), xí nghiệp phải tiếp
tục nộp vào ngân sách Nhà nước số tiền chưa khấu hao cơ bản hết (nguyên giá trừ
số khấu hao cơ bản đã trích) và phân bổ dần vào khoản lỗ cho tới khi nộp đủ vốn.
Mức nộp ngân sách hàng tháng tương ứng với mức trích khấu hao của tài sản cố định
đó khi còn sử dụng được.
Nếu tài sản cố định xây dựng, mua sắm hoặc tự chế
tạo bằng vốn vay của Ngân hàng Nhà nước, thì xí nghiệp phải tiếp tục hoàn trả vốn
vay, nếu chưa hoàn trả đủ vốn. Số tiền trả ngân hàng (hàng tháng) cũng được hạch
toán vào khoản lỗ như trường hợp nói trên.
3. Các Bộ, Tổng cục và Ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố chủ quản căn cứ vào những quy định hiện hành về nội dung công tác sửa
chữa lớn, sửa chữa thường xuyên tài sản cố định mà quy định tiêu chuẩn phân loại
nội dung công tác sửa chữa lớn, sửa chữa thường xuyên một cách cụ thể và thích
hợp với từng loại tài sản cố định. Các xí nghiệp phải căn cứ vào quy định này để
lập kế hoạch và hạch toán sửa chữa tài sản cố định.
III. NHƯỢNG BÁN TÀI SẢN CỐ ĐỊNH
GIỮA CÁC XÍ NGHIỆP VÀ TỔ CHỨC KINH TẾ
1. Việc nhượng bán tài sản cố định giữa các xí
nghiệp hạch toán kinh tế độc lập trực thuộc Bộ và Tổng cục (đối với các xí nghiệp
trung ương), hoặc Sở, Ty (đối với các xí nghiệp địa phương) do cơ quan cấp trên
trực tiếp của xí nghiệp quyết định và phải thông báo cho cơ quan tài chính cùng
cấp biết. Việc nhượng bán tài sản cố định của xí nghiệp trung ương cho xí nghiệp
địa phương hoặc cho xí nghiệp trung ương thuộc Bộ, Tổng cục khác, do Bộ, Tổng cục
quyết định, sau khi bàn với Bộ Tài chính và Ủy ban Kế hoạch Nhà nước.
Xí nghiệp nhận tài sản phải thanh toán tiền cho
xí nghiệp giao tài sản cố định theo giá mà hai bên đã thỏa thuận. Giá thỏa thuận
là giá được xác định căn cứ vào nguyên giá của tài sản cố định, xét mức hao mòn
thực tế và giá trị sử dụng hiện có của tài sản cố định, và tham khảo giá hiện
hành của tài sản cố định cùng loại.
Xí nghiệp nhận tài sản phải hạch toán tài tản cố
định vào sổ sách theo giá quy định như sau :
1. Giá thỏa thuận của tài sản cố định;
2. Chi phí vận chuyển tài sản cố định;
3. Chi phí lắp đặt, chạy thử (nếu có);
Xí nghiệp nhận tài sản phải khấu hao cơ bản cho
đủ giá trị mới của tài sản cố định bao gồm 3 khoản 1, 2, 3 kể trên.
Số chênh lệch giữa nguyên giá tài sản cố định của
bên giao (trừ chi phí vận chuyển, lắp đặt, chạy thử (nếu có) và giá thỏa thuận
của tài sản cố định ở khoản 1) phải được hạch toán riêng và bổ sung vào nguyên
giá tài sản cố định để giúp Nhà nước nắm được giá trị nguyên thủy của tổng số
tài sản cố định.
Xí nghiệp giao tài sản phải nộp ngân sách Nhà nước
hoặc trả vốn vay ngân hàng số tiền thu về nhượng bán tài sản cố định bằng đúng
giá trị còn lại (nguyên giá trừ số khấu hao cơ bản đã trích) của tài sản cố định
chuyển giao. Nếu số tiền thu về chuyển giao tài sản cố định có chênh lệch với
giá trị còn lại, thì giải quyết như sau :
- Trong trường hợp số tiền thu về lớn hơn giá trị
còn lại, xí nghiệp được hưởng số tiền chênh lệch này và cho vào quỹ khuyến
khích phát triển sản xuất.
- Trong trường hợp số tiền thu về ít hơn giá trị
còn lại, xí nghiệp phải nộp số tiền chênh lệch vào ngân sách Nhà nước hoặc hoàn
trả vốn vay ngân hàng và phân bố dần vào khoản lỗ cho đến khi hết số tiền chênh
lệch đó.
2. Việc nhượng bán tài sản cố định giữa các xí
nghiệp hạch toán kinh tế độc lập sang đơn vị dự toán, do cơ quan cấp trên trực
tiếp độc lập trong một liên hiệp xí nghiệp do Tổng giám đốc liên hiệp quyết định,
sau khi có sự bàn bạc với xí nghiệp giao và xí nghiệp nhận tài sản cố định.
Xí nghiệp giao và xí nghiệp nhận tài sản phải
cùng thực hiện phương thức thanh toán như đã quy định ở điểm 1 mục III.
3. Việc nhượng bán tài sản cố định giữa các xí
nghiệp hạch toán kinh tế độc lập sang đơn vị dự toán, do cơ quan cấp trên trực
tiếp của đơn vị quyết định và thanh toán qua ngân sách Nhà nước theo phương thức
đã được quy định ở điểm 1 mục III.
4. Việc nhượng bán tài sản cố định của xí nghiệp
quốc doanh cho hợp tác xã phải do Bộ, Tổng cục (đối với xí nghiệp trung ương), hoặc
Sở, Ty (đối với xí nghiệp địa phương) quyết định, sau khi bàn với cơ quan kế hoạch
và cơ quan tài chính cùng cấp. Việc nhượng bán tài sản cố định cho các hợp tác
xã là nhằm tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật cho hợp tác xã để phát triển sản
xuất; nghiêm cấm hợp tác xã mua đi, bán lại để kiếm lời.
Tài sản cố định được bán theo giá thỏa thuận
(quy định ở điểm 1, mục III).
5. Đối với những tài sản cố định thừa không cần
dùng, xí nghiệp phải báo cáo cơ quan cấp trên trực tiếp để có kế hoạch điều đi
nơi khác. Nếu quá thời hạn 60 ngày, kể từ ngày xí nghiệp gửi báo cáo mà không
nhận được ý kiến giải quyết của cấp trên thì coi như cơ quan cấp trên đồng ý
cho phép xí nghiệp nhượng bán cho cơ quan Nhà nước và đơn vị quốc doanh khác.
Giá cả nhượng bán tài sản cố định và số tiền thu về nhượng bán được tiến hành
như đã quy định ở điểm 1, 2, 3 của mục III.
6. Đối với những tài sản cố định xây dựng hoặc
mua sắm hoặc tự chế tạo bằng vốn vay của Ngân hàng Nhà nước, xí nghiệp phải
hoàn trả đủ vốn, và lãi cho ngân hàng đúng thời hạn.
Nếu cơ quan cấp trên trực tiếp xét thấy cần phải
chuyển nhượng lại tài sản cố định đó trong xí nghiệp chưa hoàn trả đủ vốn vay
cho ngân hàng, thì phải báo cho Ngân hàng Nhà nước để xác định lại đơn vị vay mới
mà trả nợ.
7. Bộ Tài chính cùng với Ngân hàng Nhà nước, Ủy
ban Kế hoạch Nhà nước và các Bộ có liên quan nghiên cứu và đề nghị Chính phủ
ban hành sớm chế độ thu trên vốn sản xuất.
Bộ Tài chính, Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, Ngân
hàng Nhà nước và Tổng cục Thống kê căn cứ vào thông tư này, sửa đổi các chế độ
có liên qua và hướng dẫn việc thi hành; đồng thời phối hợp với các ngành để xúc
tiến những công việc chuẩn bị cần thiết cho việc đánh giá lại tài sản cố định
trong phạm vi cả nước trong thời gian tới.
|
K.T. THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ.
PHÓ THỦ TƯỚNG
Lê Thanh Nghị
|