BỘ
TÀI CHÍNH
*******
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do – Hạnh phúc
*******
|
Số
: 08-TC/QLNS
|
Hà
Nội, ngày 31 tháng 5 năm 1979
|
HƯỚNG DẪN THI HÀNH NGHỊ QUYẾT SỐ
108-CP VỀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH VÀ QUẢN LÝ NGÂN SÁCH ĐỐI VỚI CẤP HUYỆN(1)
Chỉ thị số 33-CT/TƯ của Bộ Chính
trị Ban chấp hành trung ương Đảng và nghị quyết số 33-CP của Hội đồng Chính phủ
đã xác định vị trí, nhiệm vụ và chức năng của chính quyền Nhà nước cấp huyện.
Nghị quyết số 108-CP của Hội đồng
Chính phủ đã quy định trách nhiệm và quyền hạn của chính quyền Nhà nước cấp tỉnh
và cấp huyện về quản lý tài chính và quản lý ngân sách.
Như báo cáo của Ban chấp hành
trung ương trước Đại hội lần thứ tư của Đảng đã nói rõ: nhiệm vụ cơ bản của tài
chính là phải làm chủ các nguồn vốn, các nguồn tài sản, bảo đảm đường lối phát
triển kinh tế và trên cơ sở phát triển kinh tế, xây dựng một cách hợp lý quỹ
tiêu dùng và quỹ tích lũy nhằm thỏa mãn nhu cầu về đời sống của nhân dân, bảo đảm
các chỉ tiêu về giữ gìn an ninh và củng cố quốc phòng, bảo đảm tái sản xuất mở
rộng không ngừng…
Việc thực hiện tốt những quy định
của Chính phủ về trách nhiệm và quyền hạn của chính quyền cấp huyện về quản lý
tài chính, quản lý ngân sách sẽ có tác dụng tích cực phục vụ việc xây dựng cấp
huyện từ một cấp hành chính trung gian thành một cấp quản lý toàn diện, có kế
hoạch, có ngân sách và góp phần phát huy vai trò của chính quyền cấp huyện là
người quản lý và kiểm tra của Nhà nước đối với các mặt hoạt động trên địa bàn của
huyện.
Đây là một vấn đề rất mới và
khó, liên quan đến nhiều ngành, phải có quyết tâm cao và có biện pháp và kế hoạch
tiến hành tích cực để thực hiện; sau đó sẽ rút kinh nghiệm để bổ sung và nâng
cao lên; ngập ngừng không dám phân cấp cho cấp huyện hay đòi hỏi ngay một lúc mọi
việc đều làm cho đầy đủ, chính xác đều không đúng.
Dưới đây, Bộ Tài chính hướng dẫn
những vấn đề cần thiết để thi hành nghị quyết số 108-CP của Hội đồng Chính phủ.
I. VỀ NHIỆM VỤ
VÀ NỘI DUNG CÔNG TÁC TÀI CHÍNH HUYỆN
Trong một huyện có nhiều đơn vị
kinh tế quốc doanh, tập thể, nhiều đơn vị hành chính, sự nghiệp, văn hóa xã hội…
các cơ sở này hoạt động một cách có kế hoạch, đạt năng suất lao động và hiệu quả
kinh tế cao là nhiệm vụ của các đơn vị này. Thông qua biểu hiện bằng tiền, có
thể nắm được khả năng và tiềm năng diễn biến và kết quả, thấy được mặt mạnh và
mặt yếu của các đơn vị, các vùng, từ đó mà chính quyền Nhà nước cấp huyện thực
hiện tổ chức lại sản xuất, mở rộng lưu thông hàng hóa bảo đảm những nhu cầu về
đời sống của dân, cung cấp sản phẩm cho cấp trên, bảo đảm những nhu cầu chung ở
địa phương và không ngừng mở rộng sản xuất; trên cơ sở phát triển sản xuất, mở
rộng lưu thông hàng hóa mà tăng nguồn thu để bảo đảm yêu cầu chi trong huyện.
Thông qua hoạt động về tài
chính, chính quyền cấp huyện cần phải thực hiện tốt sự quản lý và kiểm tra của
Nhà nước trên các mặt chủ yếu sau đây:
- Nắm được khả năng về lao động
ngành nghề, đất đai, tài sản và tình hình quản lý và sử dụng những khả năng ấy ở
các cơ sở sản xuất kinh doanh, phục vụ trong huyện;
- Nắm được diễn biến tình hình sản
xuất, kinh doanh, phát hiện những vấn đề cần phải giải quyết để phát huy mọi khả
năng lao động, đất đai, tài sản để phát triển sản xuất, mở rộng lưu thông hàng
hóa;
- Giúp đỡ và kiểm tra việc quản
lý lao động, vốn, tài sản và sản phẩm ở các đơn vị, các cơ sở trên địa bàn huyện,
bảo đảm những nhiệm vụ kế hoạch của huyện theo đúng những nguyên tắc và chế độ
quản lý của Nhà nước;
- Thực hiện việc giám sát, kiểm
tra đối với hoạt động và quản lý của các xí nghiệp, các hợp tác xã, các cơ quan
và các đơn vị trên địa bàn huyện.
Làm tốt những công tác nói trên,
chính quyền Nhà nước cấp huyện sẽ sử dụng công tác tài chính làm một công cụ để
làm chủ các nguồn vốn, nguồn tài sản đảm bảo thực hiện đường lối phát triển
kinh tế như nghị quyết Đại hội lần thứ tư của Đảng đã đề ra. Sau dây là
những công tác mà tài chính huyện phải làm tốt:
1. Đối với các xí nghiệp quốc
doanh:
Các xí nghiệp quốc doanh là những
cơ sở kinh tế thuộc sở hữu toàn dân, là nơi sử dụng lao động, vật tư và tiền vốn
của Nhà nước để làm ra của cải. Do đó nhiệm vụ của các xí nghiệp quốc doanh là
phải phấn đấu hoàn thành kế hoạch sản xuất, tăng năng xuất lao động, tiết kiệm
vật tư, thiết bị, phấn đấu hạ giá thành sản phẩm, tăng tích lũy cho Nhà nước và
cải thiện đời sống của cán bộ, công nhân.
Yêu cầu quản lý của cấp huyện đối
với các xí nghiệp quốc doanh là giúp cho các xí nghiệp nắm được và quản lý tốt
tài sản cố định và tài sản lưu động, quản lý lao động, thực hành chế độ hạch
toán kinh tế, thực hành tiết kiệm trong sản xuất và lưu thông, giúp cho các xí
nghiệp khai thác khả năng tiềm tàng, tận dụng năng lực hiện có để làm ra sản phẩm
ngày càng nhiều với chi phí ít nhất, trên cơ sở đó mà tăng nguồn thu cho ngân
sách, cải thiện đời sống cho công nhân và mở rộng sản xuất của xí nghiệp.
Để đạt được yêu cầu nêu trên,
tài chính huyện phải hướng dẫn và giúp đỡ xí nghiệp tổ chức tốt công tác kế
toán tài vụ của xí nghiệp, qua đó mà giúp xí nghiệp quản lý và sử dụng hợp lý mọi
khả năng để phát triển sản xuất, mở rộng kinh doanh, phát hiện và giải quyết kịp
thời những khó khăn và thiếu sót trong sản xuất kinh doanh nhằm đem lại hiệu quả
kinh tế cao.
Đối với các xí nghiệp quốc doanh
do huyện trực tiếp quản lý, ngoài nhiệm vụ nêu trên, tài chính huyện còn có nhiệm
vụ tổng hợp tình hình sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính của các xí
nghiệp, và thông qua việc tổng hợp và phân tích tình hình hoạt động tài chính của
xí nghiệp mà giúp chính quyền huyện có kế hoạch động viên và khai thác những khả
năng của mỗi loại xí nghiệp để mở mang sản xuất, giải quyết kịp thời những vướng
mắc và khó khăn mà từng xí nghiệp không giải quyết được; trên cơ sở đó mà tăng
thu nhập, cải thiện đời sống cho công nhân, viên chức và tăng tích lũy cho Nhà
nước.
Hoạt động của các xí nghiệp sản
xuất, kinh doanh do các ngành trung ương và cấp tỉnh quản lý đóng trên địa bàn
huyện, nói chung đều có quan hệ đến tình hình sản xuất và đời sống trong huyện.
Chính quyền Nhà nước thông qua hoạt động tài chính mà tham gia vào việc xây dựng
và xét duyệt kế hoạch của xí nghiệp về những mặt có quan hệ đến địa phương như
đã quy định trong nghị quyết số 33-CP của Chính phủ; kiểm tra việc chấp hành
chính sách và chế độ kỷ luật tài chính của các xí nghiệp, kịp thời phản ảnh với
cấp trên của xí nghiệp và cấp tỉnh những vấn đề cần giúp đỡ giải quyết để phát
triển sản xuất, kinh doanh và bảo đảm chấp hành những nguyên tắc và chế độ quản
lý của Nhà nước. Các xí nghiệp trung ương và xí nghiệp của tỉnh đều có các loại
quỹ của xí nghiệp, tài chính huyện phải kiểm tra các xí nghiệp trong việc sử dụng
các loại quỹ ấy.
2. Đối với các hợp tác xã
nông nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp, hợp tác xã mua bán và các tổ chức kinh tế tập
thể khác.
Các hợp tác xã là những đơn vị
kinh tế tập thể. Tài sản, vốn đều do các hợp tác xã quản lý. Song tài chính của
hợp tác xã là một khâu quan trọng trong hệ thống tài chính xã hội chủ nghĩa. Sự
phát triển một cách có kế hoạch, nhịp nhàng và mạnh mẽ về sản xuất kinh doanh của
các hợp tác xã có một vị trí rất quan trọng đối với nền kinh kế và tài chính
trong cả nước, cũng như trong từng địa phương. Yêu cầu đối với các hợp tác xã
là phải quản lý và sử dụng mọi khả năng lao động, đất đai, tài sản và tiền vốn
để phát triển sản xuất kinh doanh đúng hướng, có hiệu quả kinh tế cao, thực hiện
việc ăn chia một cách công bằng, hợp lý, làm đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước
và không ngừng mở rộng sản xuất. Tài chính huyện phải hướng dẫn, giúp đỡ và kiểm
tra các hợp tác xã trong việc quản lý tài vụ và kế toán, qua đó mà giúp các hợp
tác xã nắm được khả năng và nhu cầu, tính toán kế hoạch và hiệu quả kinh tế của
sản xuất kinh doanh, nắm được diễn biến tình hình sản xuất và kinh doanh, giải
quyết những khó khăn và sơ hở trong sản xuất kinh doanh, bảo vệ tài sản hợp tác
xã, thực hiện sự kiểm tra và giám sát hoạt động sản xuất, kinh doanh, ăn chia
phân phối và làm nhiệm vụ đối với Nhà nước trong hợp tác xã.
3. Đối với các cơ sở sản xuất
kinh doanh cá thể.
Những cơ sở sản xuất kinh doanh cá
thể có diện rộng, nhiều ngành nghề khác nhau, nhất là ở miền Nam đang trong quá
trình cải tạo xã hội chủ nghĩa, các thành phần kinh kế cá thể còn nhiều. Lợi
ích chính đáng và lâu dài của cá nhân người sản xuất kinh doanh cá thể và lợi
ích chung đòi hỏi các cơ sở sản xuất và kinh doanh cá thể phải sử dụng hợp lý
tài sản, vốn liếng để phát triển sản xuất và kinh doanh đúng hướng, có kế hoạch
và tôn trọng những nguyên tắc, chế độ quản lý và chính sách của Nhà nước.
Chính quyền cấp huyện thông qua
hướng dẫn và đăng ký kinh doanh, hướng dẫn và kiểm tra việc thi hành chính sách
và thông qua các công tác cung ứng vật tư, thu mua sản phẩm theo hợp đồng hai
chiều để thực hiện sự chỉ đạo và quản lý của Nhà nước. Công tác thuế là một
khâu công tác, qua nó, có thể nắm được tình hình hoạt động của các cơ sở kinh tế
cá thể, kinh tế gia đình trên cơ sở đó mà hướng dẫn, khuyến khích những hoạt động
có lợi cho nền kinh tế, ngăn chặn những hoạt động có hại, thực hiện chính sách
thuế của Nhà nước.
Phải kết hợp công tác thuế với
quản lý thị trường, quản lý giá cả, gia công đặt hàng, cung cấp nguyên, nhiên,
vật liệu, thu mua… mà xác định cho họ một mức thu nhập hợp lý, đồng thời hướng
họ đi vào làm ăn đúng hướng, phục vụ cho nền kinh tế quốc dân, tận dụng được sức
lao động, tay nghề và tài sản, vốn liếng để phục vụ cho nền kinh tế quốc dân,
và dần dần đưa họ vào con đường làm ăn tập thể.
4. Các đơn vị sự nghiệp, các
cơ quan Nhà nước, các đoàn thể là những đơn vị sử dụng kinh phí do ngân
sách Nhà nước cấp để hoạt động. Yêu cầu quản lý đối với loại kinh phí này là phải
đảm bảo yêu cầu cần thiết cho các hoạt động, tiết kiệm tiền vốn, sử dụng vốn
đúng mục đích, chống tham ô, lãng phí. Thông qua việc xây dựng kế hoạch chi, cấp
phát vốn và quyết toán chi tiêu, tài chính huyện phải đi sâu nắm vững yêu cầu
nghiệp vụ và nhiệm vụ chính trị của mỗi ngành mà tạo điều kiện cho từng ngành
làm chủ được nguồn vốn, bảo đảm đủ vốn cho các ngành hoạt động, đồng thời phải
thường xuyên kiểm tra bảo đảm chấp hành đúng chính sách và chế độ quản lý tài chính
của Nhà nước.
Báo cáo chính trị của Ban chấp
hành trung ương Đảng trước Đại hội 4 đã nói rõ: “ Sự tăng lên của nguồn tài
chính chỉ có thể là kết quả của việc mở rộng sản xuất, tăng năng suất lao động
xã hội, sử dụng đầy đủ và triệt để mọi nguồn lao động và tài nguyên của đất nước
trên cơ sở kỹ thuật ngày càng cao”. Phân cấp tài chính và ngân sách không phải
là để chia phần tài chính và ngân sách, mà chính là để phát huy mạnh mẽ vị trí,
vai trò của mỗi cấp để khai thác tốt mọi khả năng và tiềm năng của đất nước để
làm ra sản phẩm ngày càng nhiều cho những nhu cầu ngày càng lớn của nhân dân
ta, của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.
II. VỀ NGÂN
SÁCH NHÀ NƯỚC CẤP HUYỆN:
Nhà nước xã hội chủ nghĩa sử dụng
ngân sách để huy động và tập trung một phần thu nhập quốc dân để cung cấp cho
những nhu cầu chi của các ngành và thông qua quản lý ngân sách mà thực hiện sự
giám sát và kiểm tra hoạt động của các ngành. Nó có một vị trí rất quan trọng để
bảo đảm sự phát triển nền kinh tế quốc dân và bảo đảm những nhu cầu chung của
xã hội.
Nghị quyết số 108-CP ngày
13-5-1978 của Hội đồng Chính phủ đã nói rõ: “Ngân sách huyện là kế hoạch tài
chính cơ bản của chính quyền Nhà nước cấp huyện, là công cụ để xây dựng huyện vững
mạnh, thực sự trở thành đơn vị kinh tế nông công nghiệp, tạo điều kiện cho
chính quyền Nhà nước cấp huyện thành một cấp quản lý kế hoạch toàn diện, quản
lý sản xuất, quản lý lưu thông, phân phối và quản lý đời sống”.
Để thực hiện tốt vị trí, nhiệm vụ
và nội dung công tác ngân sách như nghị quyết số 108-CP của Hội đồng Chính phủ,
cần phải làm tốt những công tác chính sau đây:
A. VỀ NHIỆM
VỤ CHI CỦA NGÂN SÁCH HUYỆN
Chi của ngân sách huyện bao gồm
các loại chi về xây dựng cơ bản và phát triển kinh tế, chi về sự nghiệp văn hóa
xã hội, chi bộ máy hành chính và các khoản chi khác. Mỗi loại việc nêu ra
ở trên, có phần do nhân dân, các hợp tác xã, các xí nghiệp và cơ quan tự mình
huy động mọi khả năng tại chổ để làm, có phần ngân sách Nhà nước phải chi. Phần
chi của ngân sách Nhà nước phải nhằm động viên và phát huy mọi khả năng sẵn có
trong dân, của hợp tác xã, của cơ quan, xí nghiệp…, phải nhằm vào những việc mà
nhân dân, các hợp tác xã, cơ quan không làm được. Trong quản lý chi của ngân
sách phải hết sức đề phòng phát sinh ỷ lại vào Nhà nước, trông chờ vào cấp
trên.. hoặc làm ngơ trước những yêu cầu cấp thiết về sản xuất và đời sống của
dân. Sau đây là những nội dung chính.
1. Chi về xây dựng cơ bản
Chi về xây dựng cơ bản là những
khoản chi để xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật để tăng thêm năng lực sản xuất,
năng lực phục vụ của các ngành, các cơ sở như mở rộng diện tích canh tác, làm
thủy lợi, mua sắm máy móc, xây dựng xí nghiệp, cửa hàng, trường học, bệnh viện,
cơ quan…
Nguồn vốn để xây dựng cơ bản
trong một huyện bao gồm:
- Nguồn vốn tự có trong dân,
trong hợp tác xã, trong xí nghiệp, cơ quan bao gồm vốn bằng tiền và công lao động,
vật liệu xây dựng có thể huy động được. Nguồn vốn này rất lớn, cấp huyện phải
có kế hoạch kiểm tra việc sử dụng và huy động để xây dựng xóm làng, xây dựng hợp
tác xã, xây dựng nền kinh tế và cuộc sống trên địa bàn huyện.
- Với nguồn vốn nói trên, tuy đã
cố gắng huy động nhưng không đủ, có những yêu cầu về vốn không thể giải quyết bằng
lao động và vật tư tại chỗ… thì đơn vị sản xuất kinh doanh (kể cả kinh tế tập thể
và quốc doanh) vay vốn ở ngân hàng để làm. Sau đó phải làm sản xuất kinh doanh
tốt để tăng thu nhập cho đơn vị và trả nợ ngân hàng.
- Đối với những loại việc không
có chính sách và không có khả năng thu hồi vốn nhưng rất cần thiết cho sản xuất,
cho các hoạt động và đời sống của dân như làm đường, xây dựng trường học, bệnh
viện… thì ngân sách Nhà nước cấp phát.
Trong công tác quản lý vốn đầu
tư xây dựng cơ bản cần phải quản lý và kiểm tra một số khâu quan trọng như sau:
a) Chủ trương xây dựng có đúng
không? đã phải là cần thiết cấp bách và có hiệu quả kinh tế cao hay không?
Trong điều kiện yêu cầu xây dựng thì nhiều, nhưng khả năng có hạn, phải biết tập
trung sức làm những loại việc có hiệu quả cao hoặc cấp bách; làm xong sẽ chuyển
sang việc khác; dù là hợp tác xã, quốc doanh hay cơ quan… cũng không được phân
tán lực lượng trong xây dựng cơ bản;
b) Tính toán vốn đầu tư phải chặt
chẽ, xác định nguồn vốn trên tinh thần tự lực, tự cường, không ỷ lại vào cấp
trên, không ỷ lại vào Nhà nước. Có kế hoạch huy động vốn và bảo đảm vốn
(chủ yếu là lao động và vật tư) đúng lúc;
c) Quản lý chặt chẽ việc sử dụng
vốn, chú trọng quản lý lao động, quản lý vật tư… bảo đảm tiến độ của xây dựng,
bảo đảm chất lượng xây dựng và tiết kiệm chi phí;
d) Làm xong đến đâu phải quản lý
sử dụng tốt, phát huy hiệu quả của cơ sở đã xây dựng đến đó. Phải bảo vệ
và quản lý sử dụng một cách hợp lý, sử dụng hết công suất, giữ gìn phẩm chất,
kéo dài tuổi thọ của tài sản.
Để phát huy tính chủ động, sáng
tạo và đề cao trách nhiệm của cấp huyện trong quản lý xây dựng cơ bản, các tỉnh
và thành phố chỉ trực tiếp phụ trách các loại công trình quy mô vượt quá phạm
vi huyện, kỹ thuật phức tạp; các loại công trình quy mô gọn trong huyện, kỹ thuật
không phức tạp nên giao và giúp cho huyện làm. Cấp tỉnh hướng dẫn, kiểm tra và
tập trung sức vào những loại lớn phức tạp hơn.
2. Về vốn lưu động. Một
đơn vị kinh tế dù quốc doanh hay tập thể, ngoài vốn cố định là biểu hiện bằng
tiền của cơ sở vật chất và kỹ thuật, phải có vốn lưu động để bảo đảm những chi
phí cần thiết cho sản xuất kinh doanh của đơn vị… như chi về nguyên liệu, nhiên
liệu, tiền công… Yêu cầu về vốn và quản lý vốn lưu động là phải bảo đảm đủ vốn
cho sản xuất, kinh doanh của đơn vị với số vốn tiết kiệm nhất, vòng quay của đồng
vốn tăng lên… Để thiếu vốn ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh, hay để thừa vốn,
lãng phí vốn đều có hại.
Nguồn vốn lưu động của các đơn vị
kinh tế tập thể bao gồm nguồn vốn tự có của đơn vị và vốn vay của ngân hàng. Nguồn
vốn tự có của các cơ sở quốc doanh là nguồn vốn do ngân sách cấp và hàng năm được
xác định lại; vốn vay của ngân hàng được xác định từng thời kỳ theo yêu cầu sản
xuất kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm.
Để giúp các cơ sở quốc doanh và
kinh tế tập thể quản lý và sử dụng tốt vốn lưu động, tài chính huyện phải chú
trọng các khâu công tác sau đây:
a) Dựa vào những định mức về
tiêu phí vật chất, tiêu hao lao động và chính sách trả công và chu kỳ sản xuất
kinh doanh mà định mức dự trữ vật tư, nguyên liệu, phụ tùng… cần thiết, nguồn vốn
để trả lương hoặc trả công… không thiếu và không thừa, gây ứ đọng.
b) Quản lý việc cung ứng vật tư,
việc sử dụng vật tư, nguyên liệu phụ tùng trong sản xuất kinh doanh, kiểm tra
việc quản lý và sử dụng lao động, tính công lao động (trong kinh tế tập thể),
trả lương (trong quốc doanh), bảo đảm quản lý chặt chẽ.
c) Quản lý sản phẩm làm ra, tổ
chức kịp thời việc tiêu thụ sản phẩm và thanh toán, kiểm tra việc thực hiện
chính sách giá cả, giao nộp sản phẩm, kỷ luật tiền mặt… kiên quyết chống tham
ô, lãng phí, xâm phạm tài sản của tập thể, của Nhà nước.
Làm tốt những công tác trên đây,
giúp cho cơ sở phấn đấu không ngừng tiết kiệm để giảm chi phí vật chất, tăng
năng suất lao động để làm ra sản phẩm nhiều với chi phí ít nhất, không những sẽ
phát huy được hiệu quả của vốn lưu động mà làm cho hiệu quả của tài sản cố định,
của đất đai tăng lên.
Hiện nay, các tỉnh đang tiến
hành chuyển giao một số cơ sở kinh tế quốc doanh về cho huyện quản lý bao gồm
nhiều loại xí nghiệp công nghiệp, thương nghiệp, cung ứng vật tư, nông trường,
lâm trường, các trạm máy kéo, v.v… Do tình hình buông lỏng quản lý từ lâu, nhiều
xí nghiệp chưa thi hành đúng chế độ quản lý vốn của Nhà nước như chiếm dụng vốn
ngân sách để làm vốn lưu động, công nợ khê đọng, tài sản mất mát, định mức vốn
lỏng lẻo, một số xí nghiệp không vay vốn ngân hàng… Vì vậy khi bàn giao cần phải
kiểm tra lại tình hình vốn liếng, công nợ, xác định các khoản phải thu, các khoản
phải trả để tạo điều kiện cho huyện quản lý tốt ngay từ đầu. Sau khi nhận bàn
giao, huyện phải xác định lại mức vốn cho mỗi cơ sở xí nghiệp theo chế độ của
Nhà nước và phải quản lý chặt chẽ việc sử dụng vốn của từng xí nghiệp.
3. Đối với các khoản chi về sự
nghiệp kinh tế.
Các khoản chi này là một bộ phận
của chi kiến thiết kinh tế nhằm phục vụ sản xuất, xây dựng và đời sống của nhân
dân như bảo vệ đê điều, phòng chống lụt bão, chống úng, sửa chữa cầu đường, xây
dựng cống rãnh, phòng trừ sâu bệnh, phòng chống dịch bệnh, nhân giống và cải tạo
giống… Những loại chi như vậy cần thiết cho sản xuất; xây dựng và đời sống
trong một huyện, trong một tỉnh cũng như trong cả nước.
Nội dung chi về sự nghiệp kinh tế
có thể chia làm hai phần: chi về cán bộ, nhân viên trực tiếp làm những công việc
sự nghiệp và chi về những tiêu phí vật chất cho những sự nghiệp đó, bao gồm cả
mua sắm vật tư thiết bị và các chi phí khác.
Yêu cầu về quản lý tài chính đối
với chi phí sự nghiệp kinh tế là phải nắm đặc điểm của từng loại sự nghiệp; căn
cứ vào định mức lao động và chi phí vật chất được quy định và căn cứ vào nhiệm
vụ kế hoạch được giao của mỗi loại mà cấp phát vốn và tiến hành kiểm tra tình
hình sử dụng vốn. Trong nhiều loại sự nghiệp kinh tế, bên cạnh yêu cầu chi còn
có những khả năng thu. Cần phải kiểm tra chặt chẽ, phát huy mạnh mẽ khả năng
thu, tổ chức tốt công tác thu để tăng khả năng phát triển sự nghiệp kinh tế và
giảm chi cho ngân sách.
Trong bước đầu xây dựng huyện, tỉnh
cần căn cứ vào tính chất và tác dụng của từng loại sự nghiệp để giao cho huyện
hay tỉnh trực tiếp quản lý. Nói chung, đối với loại sự nghiệp chi phục vụ sản
xuất và đời sống trong huyện, kỹ thuật không phức tạp, thì giao cho huyện quản
lý theo hướng dẫn và kiểm tra của tỉnh. Đối với những sự nghiệp phục vụ lợi ích
cho nhiều huyện hoặc kỹ thuật phức tạp thì tỉnh phải lo. Nhưng vì nó ở trong địa
bàn huyện, cần phải kết hợp với tài chính huyện để thực hiện việc theo dõi, kiểm
tra tại chỗ.
4. Các khoản chi về sự nghiệp
văn hóa xã hội là những khoản chi cho những nhu cầu về đời sống văn hóa xã
hội, về phúc lợi của nhân dân, bảo vệ sức khỏe, bảo đảm đời sống của dân. Các
khoản chi về sự nghiệp văn hóa xã hội bao gồm hai loại chính:
Một là chi về phúc lợi xã hội
như chi về y tế, giáo dục, đào tạo bồi dưỡng cán bộ, thể dục thể thao, truyền
thanh…
Hai là chi về phúc lợi cá nhân
như trả tiền hưu, tiền tuất, thương binh, liệt sĩ, cứu tế…
Nói chung, những khoản chi về
văn hóa xã hội do ngân sách Nhà nước đài thọ, tuy nhiên nhiều đơn vị sự nghiệp
văn hóa xã hội có thu nhập. Vì vậy, khi xây dựng và xét duyệt kế hoạch, cũng
như trong quá trình chỉ đạo và kiểm tra việc thực hiện, phải phân biệt các đơn
vị có nhiều khả năng thu cần phải thực hiện hạch toán kinh tế, những đơn vị có
thu nhập nhưng không đủ bù chi, những đơn vị không có thu nhập và chỉ có chi… để
áp dụng những biện pháp cấp phát và quản lý thích hợp.
Yêu cầu quản lý tài chính đối với
sự nghiệp văn hóa xã hội là phải đảm bảo những yêu cầu chi cần thiết, đúng
chính sách, đúng chế độ quản lý của Nhà nước. Mặt khác, phải phát huy mạnh mẽ
các khả năng thu trong các đơn vị để tăng thêm khả năng chi cho ngân sách. Căn
cứ để quản lý chi văn hóa xã hội là những định mức về nhân viên, định mức chi
công tác nghiệp vụ. Phải phấn đấu chi ít hơn định mức nhưng đạt khối lượng và
chất lượng công tác cao là hưởng tiết tiệm chi về văn hóa xã hội. Cán bộ quản
lý phải đi sâu nắm tình hình hoạt động của các đơn vị, theo dõi việc thực hiện
các định mức về nhân viên, định mức về nghiệp vụ, phân tích, rút kinh nghiệm
làm cho các định mức ngày càng sát thực tế.
5. Chi về quản lý hành chính
Là khoản chi của ngân sách để đảm
bảo hoạt động của bộ máy Nhà nước từ trung ương đến cơ sở.
Toàn bộ chi cho bộ máy Nhà nước
đều do ngân sách cấp phát.
Chi tiêu hành chính là những khoản
chi không thể thiếu được, nhưng bộ máy hành chính và các khoản chi về hành
chính phình ra chỉ làm tăng nạn giấy tờ, hội họp, không mang lại lợi ích gì.
Yêu cầu đối với quản lý chi về hành chính là phải đảm bảo những yêu cầu chi cần
thiết, nhưng phải hết sức tiết kiệm. Cần phải hết sức chặt chẽ trong các khâu
biên chế hành chính, hội họp và lễ nghi, mua sắm cho cơ quan.
6. Các khoản chi khác được
ghi trong ngân sách huyện gồm:
- Chi về công tác dân quân,
nghĩa vụ quân sự.
- Chi trợ cấp cho ngân sách các
xã trong huyện (bao gồm trợ cấp sinh hoạt phí cho cán bộ xã, trợ cấp thường
xuyên cho các xã thu không đủ chi và trợ cấp bất thường cho các xã để xây dựng
các công trình phúc lợi như xây dựng trường học, làm trạm xá ở xã…).
Cần phân biệt chi tiêu cho các
đơn vị dân quân thường trực chiến đấu và chi tiêu cho các đơn vị quân đội địa
phương được thành lập tại các huyện do Bộ Quốc phòng quản lý. Những khoản chi
cho các đơn vị dân quân thường trực chiến đấu do ngân sách huyện chi, còn những
đơn vị quân đội địa phương do kinh phí quốc phòng đài thọ thì không tính vào
ngân sách huyện.
B. VỀ NHIỆM
VỤ THU CỦA NGÂN SÁCH.
Để bảo đảm yêu cầu chi, chính
quyền Nhà nước cấp huyện phải đề cao trách nhiệm, phát huy tính chủ động và
sáng tạo, ra sức khai thác khả năng và tiềm năng về kinh tế ở địa phương, đẩy mạnh
sản xuất phát triển, không ngừng mở rộng lưu thông hàng hóa, trên cơ sở đó mà
tăng nguồn thu, chăm lo hoàn thành nhiệm vụ thu để bảo đảm yêu cầu chi không ngừng
tăng lên của cấp huyện. Mặt khác để tăng cường mối quan hệ chặt chẽ giữa chính
quyền địa phương với các cơ quan, xí nghiệp của cấp trên hoạt động trên địa bàn
cấp huyện, kết hợp giữa quản lý theo ngành chuyên môn và quản lý theo địa
phương và vùng lãnh thổ, theo nghị quyết số 108-CP của Hội đồng Chính phủ… Nguồn
thu của ngân sách bao gồm những loại thu chính như sau:
1. Thu của ngân sách Nhà nước
được phân phối cho ngân sách huyện theo một tỷ lệ nhất định (thu điều tiết)
Những nguồn thu này gồm có:
- Thu nhập thuần túy từ các xí
nghiệp của trung ương và của tỉnh đóng trên địa bàn huyện, hoặc phân cấp cho
huyện quản lý;
- Thu thuế nông nghiệp;
- Thu thuế công thương nghiệp…
Việc phân phối cho ngân sách huyện
một tỷ lệ nhất định về các nguồn thu của ngân sách Nhà nước là sự phân phối có
kế hoạch quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước giữa các cấp ngân sách để hình
thành nguồn thu cho mỗi cấp ngân sách. Nó tạo điều kiện để mỗi cấp chính quyền
Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ được giao. Nó có tác dụng khuyến khích và đề
cao trách nhiệm của chính quyền địa phương tham gia quản lý tài chính chung của
Nhà nước.
Trong tình hình kinh tế nước ta
phát triển chưa đều, nguồn thu của Nhà nước còn hình thành ở một số khu vực
kinh tế tập trung nhất định, khi xác định tỷ lệ điều tiết cho các huyện phải
chú ý bảo đảm cho các huyện có nguồn thu để phát triển sản xuất và bảo đảm các
hoạt động văn hóa xã hội hợp lý và tương đối đều trong địa phương.
Ủy ban nhân dân các tỉnh hoặc
thành phố trực thuộc trung ương phải căn cứ vào vị trí, tính chất của từng khoản
thu ngân sách Nhà nước thực hiện trên địa bàn huyện và tỷ lệ điều tiết từng khoản
thu ngân sách Nhà nước điều tiết cho ngân sách tỉnh hoặc thành phố, căn cứ vào
khả năng thu và yêu cầu chi của ngân sách huyện để xác định mức điều tiết cho
ngân sách từng huyện. Mức điều tiết tối đa đối với từng khoản thu là 90% mức điều
tiết mà trung ương đã quy định cho ngân sách tỉnh và thành phố.
Trong tình hình nguồn thu của
các huyện phát triển không đều, để khuyến khích tính tích cực của huyện, đồng
thời để cho việc tính toán đỡ phức tạp, gây khó khăn cho việc chấp hành, tỉnh
nên xếp các huyện thành hai hoặc ba loại để xác định tỷ lệ điều tiết.
Thuế nông nghiệp và thuế công
thương nghiệp là những khoản thu gắn bó chặt chẽ với tình hình quản lý của huyện,
vì vậy nên dành phần lớn cho ngân sách huyện.
Đối với các khoản thu nhập thuần
túy từ các xí nghiệp quốc doanh do trung ương quản lý và các xí nghiệp quốc
doanh do tỉnh trực tiếp quản lý… trước mắt các huyện chưa có điều kiện đi sâu
tác động vào việc quản lý các cơ sở kinh tế quốc doanh đó, tuy vậy, nếu không
có gì trở ngại, nên điều tiết cho ngân sách huyện một tỷ lệ nhất định, để các
huyện từng bước quan tâm đến các xí nghiệp ấy. Đối với các xí nghiệp đã phân cấp
cho huyện phần có thể dành cho huyện nguồn thu lớn hơn.
Nhằm khuyến khích huyện tăng cường
trách nhiệm hoàn thành và hoàn thành vượt mức nhiệm vụ thu cho ngân sách Nhà nước,
cuối năm khi kết toán các nguồn thu điều tiết trên đây, nếu huyện thực hiện vượt
mức thu so với mức thu được giao theo kế hoạch được duyệt thì phần thu trội
thêm do cố gắng và thành tích của huyện được ghi toàn bộ vào ngân sách huyện,
huyện đuợc sử dụng để mở rộng sản xuất và xây dựng các công trình lợi ích công
cộng trong huyện.
2. Các khoản thu được dành
toàn bộ cho ngân sách huyện.
Để phát huy sáng tạo và chủ động
của cấp huyện tổ chức tốt việc phân công lao động, khai thác mọi khả năng đất
đai, mặt nước và tài nguyên phát triển sản xuất để làm ra sản phẩm với chi phí
ít nhất… đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh do huyện trực tiếp tổ chức và
quản lý, vay vốn ngân hàng để hoạt động… Tất cả những khoản thu đều dành cho
ngân sách huyện.
Theo quy định hiện nay thì những
khoản thu được dành toàn bộ cho ngân sách huyện bao gồm:
1. Thu quốc doanh và trích nộp lợi
nhuận, thu khấu hao, tiền bán tài sản thải loại, thu vốn lao động thừa…từ các
cơ sở sản xuất kinh doanh nói trên.
2. Thu về sự nghiệp kinh tế, sự
nghiệp văn hóa do các cơ sở của huyện nộp,
3. Thu về phần thưởng khuyến
khích xuất khẩu mà cấp huyện được hưởng,
4. Các khoản thu khác ở trong
huyện theo chế độ và chính sách thu của Nhà nước.
Các khoản thu này trong những
năm trước mắt còn ít, nhưng nó có một ý nghĩa và triển vọng rất lớn. Trên địa
bàn của mỗi huyện có nhiều khả năng về lao động, đất đai, nguyên liệu, đồng thời
có nhiều nhu cầu về đời sống và sản xuất của dân chưa giải quyết. Cấp tỉnh cần
gợi ý, giúp đỡ và phát huy sáng kiến của cấp huyện đứng ra tổ chức khai thác những
khả năng to lớn ấy… lúc đầu thì làm nhỏ, làm ít sau sẽ làm lớn hơn và làm nhiều.
Vừa có sản phẩm cho nhu cầu của dân và đóng góp với cấp trên hoặc xuất khẩu, vừa
tăng thu nhập cho lao động, vừa tạo nguồn thu cho ngân sách. Khâu quan trọng là
phải giúp cấp huyện trong việc tính toán và quản lý kinh doanh.
3. Thu do ngân sách tỉnh trợ
cấp
Với các loại thu đã nói ở trên
tuy đã cố gắng tăng thu và tiết kiệm chi và đã nâng tỷ lệ điều tiết lên nhiều rồi,
nhưng ngân sách huyện vẫn chưa đủ để bảo đảm các yêu cầu chi để thực hiện nhiệm
vụ của huyện, thì Ủy ban nhân dân tỉnh xét để trợ cấp cho ngân sách huyện.
Như vậy, trợ cấp của ngân sách tỉnh
cho ngân sách huyện chỉ đặt ra khi các biện pháp bảo đảm nguồn thu cho ngân
sách huyện đều đã được phát huy một cách tích cực, nhưng ngân sách huyện vẫn
không đủ bảo đảm theo yêu cầu chi.
Trợ cấp của ngân sách của tỉnh
cho ngân sách huyện có hai loại chính:
a) Trợ cấp cho ngân sách huyện để
đảm bảo những nhu cầu chi tiêu bình thường (chi sự nghiệp và chi hành chính) là
khoản trợ cấp để cân đối ngân sách cho những huyện kinh tế chưa phát triển, nguồn
thu thực hiện trên địa bàn đã được dành cho ngân sách huyện với mức tối đa,
nhưng vẫn không đủ đảm bảo những nhu cầu chi bình thường của huyện, cấp huyện
phải phấn đấu tăng thu tiết kiệm chi để bảo đảm yêu cầu chi, để tỉnh khỏi phải
trợ cấp về các khoản chi này.
b) Trợ cấp cho ngân sách huyện để
xây dựng những cơ sở vật chất và kỹ thuật cho sản xuất, kinh doanh, phục vụ được
giao cho huyện quản lý, nhưng ngân sách huyện không có khả năng chi và không
thuộc loại vay của ngân hàng. Mục đích của trợ cấp này nhằm tạo cho các huyện
có điều kiện sản xuất và hoạt động gần ngang với nhau, và phải nằm vào những
yêu cầu thiết yếu nhất. Do đó hàng năm tỉnh phải cân nhắc kỹ tập trung vào một
số công trình ở một số huyện nhất định, năm sau sẽ làm cho nơi khác. Các loại
công trình đầu tư xây dựng cơ bản do tỉnh phụ trách, làm trên địa bàn huyện
không thuộc ngân sách huyện.
c) Trợ cấp bất thường cho ngân
sách huyện vì những thiên tai hoặc thiệt hại khác ngân sách huyện không thực hiện
được kế hoạch thu và phải tăng chi, ngân sách cấp trên phải trợ cấp.
Trong điều kiện hiện nay, việc
điều hòa nguồn thu của ngân sách cấp huyện, tỉnh phải cân nhắc tính toán để vận
dụng các loại trợ cấp nói trên nhất là loại a và loại b một cách hợp lý. Có thể
có huyện phải được trợ cấp hai loại trợ cấp, có huyện chỉ được một loại và có
huyện không có trợ cấp. Trợ cấp loại gì thì chi cho loại ấy. Ủy ban nhân dân
huyện không được tự ý lấy trợ cấp loại này chi cho loại khác, lấy trợ cấp vốn đầu
tư xây dựng cơ bản để tăng chi về sự nghiệp và chi hành chính.
Sau khi mức trợ cấp đã được xét
duyệt, Ủy ban nhân dân tỉnh cần bảo đảm cấp vốn đúng lúc cho ngân sách huyện để
tạo điều kiện cho huyện chủ động.
Vì mục đích từng loại trợ cấp
khác nhau, nên cuối năm khi quyết toán ngân sách, giữa ngân sách tỉnh và ngân
sách huyện phải đối chiếu và xử lý cho rõ ràng:
- Đối với các khoản trợ cấp về vốn
đầu tư xây dựng cơ bản, nếu chi tiêu còn thừa thì phải nộp trả lại cho ngân
sách tỉnh.
- Những khoản trợ cấp để cân đối
ngân sách chi bình thường về hành chính, sự nghiệp… của huyện, nếu do quản lý
chặt chẽ và tiết kiệm mà không chi tiêu hết thì được để lại cho ngân sách huyện
làm kết dư.
C. MỘT SỐ CÔNG
VIỆC PHẢI LÀM ĐỂ XÂY DỰNG NGÂN SÁCH HUYỆN NĂM 1979.
Thực hiện chế độ quản lý tài
chính theo nghị quyết số 108-CP của Chính phủ là một vấn đề mới và phức tạp
liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp, nên cần phải làm từng bước một cách tích
cực và có kế hoạch. Trước mắt cần tập trung sức giúp cho huyện xây dựng và quản
lý ngân sách để chính quyền cấp huyện để đảm bảo những nhiệm vụ sản xuất và đời
sống ở địa phương, tập dượt cho huyện làm quen dần với công tác quản lý tài
chính và qua đó tiến lên quản lý toàn diện về kinh tế và tài chính trong huyện.
Nhiệm vụ của huyện về quản lý
tài chính rất nặng nề và phức tạp, phạm vi rất rộng, bao gồm toàn bộ hoạt động
về tài chính và thu chi Nhà nước thực hiện trên địa bàn huyện chứ không phải chỉ
thu gọn trong phạm vi thu thuế và chi tiêu hành chính như từ trước đến nay. Huyện
phải nhận thức đúng vị trí và nhiệm vụ quản lý tài chính của mình, góp phần
thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng cường quản lý của các cơ sở sản xuất kinh
doanh; trên cơ sở đó mà tăng nguồn thu, bảo đảm nguồn thu cho ngân sách, bảo đảm
vốn cho các ngành hoạt động được nhịp nhàng, tiết kiệm.
Trước mắt cần làm tốt một số
công việc sau đây:
1. Lập cho được ngân sách huyện
năm 1979.
Căn cứ nghị quyết số 108-CP và
các văn bản hướng dẫn, Ủy ban nhân dân tỉnh cần bàn bạc với huyện để quy định cụ
thể nhiệm vụ chi giao cho từng huyện để huyện làm căn cứ xây dựng ngân sách.
Dựa trên nguyên tắc huyện là một
đơn vị kinh tế nông công nghiệp, những nhiệm vụ về xây dựng kinh tế, tổ chức lại
sản xuất, tổ chức lưu thông phân phối và đời sống và những chi tiêu về an ninh,
về bộ máy hành chính của huyện cần phân định cụ thể trách nhịêm, quyền hạn để
giao cho huyện.
Đối với các khoản chi về xây dựng
cơ bản đang tiến hành ở các huyện, tỉnh cần nghiên cứu để quy định nhiệm vụ chi
của ngân sách huyện thật cụ thể, rõ ràng, theo hướng: nếu quy mô không lớn, kỹ
thuật không phức tạp lắm thì chuyển cho huyện quản lý với sự giúp đỡ và kiểm
tra của tỉnh.
Ủy ban nhân dân tỉnh cần phải chỉ
đạo các ngành chung quanh tỉnh hướng dẫn và giúp huyện soát xét lại những tiêu
chuẩn, định mức và kế hoạch, để xác định quyền hạn, trách nhiệm của huyện, tăng
cường và giúp các huyện quản lý.
Trên cơ sở nhiệm vụ chi của ngân
sách huyện đã được xác định, tỉnh cần phân chia nguồn thu cho ngân sách huyện.
Trong việc phân định nguồn thu cho ngân sách huyện, phải khuyến khích huyện
tích cực khai thác khả năng địa phương, tạo điều kiện cho huyện nắm được và
theo dõi được tình hình sản xuất và kinh doanh cũng như hoạt động của những đơn
vị thuộc các ngành trung ương, của tỉnh đóng ở huyện, cũng như những cơ sở mới
phân cấp cho huyện quản lý.
Hiện nay các ngành đang xây dựng
lại kế hoạch từ cơ sở, do đó việc xây dựng ngân sách huyện phải kết hợp đồng bộ
với việc xây dựng kế hoạch sản xuất.
2. Tích cực hướng dẫn giúp đỡ
và kiểm tra huyện quản lý ngân sách.
Tỉnh cần cử cán bộ xuống tăng cường
cho huyện, cùng với cán bộ huyện đi sát các trọng điểm kinh tế: xí nghiệp quốc
doanh, các hợp tác xã và một số cơ quan, đơn vị sự nghiệp, tìm hiểu, nắm tình
hình và số liệu, kiểm tra tình hình sản xuất, tình hình tiêu thụ sản phẩm, thu
mua, giao nộp, giá thành, giá cả, việc chấp hành chính sách và kỷ luật tài
chính, tình hình tổ chức quản lý… qua đó mà giúp một số cơ sở trọng điểm tăng
cường và cải tiến quản lý, đôn đốc thu nộp cho ngân sách và tập cho huyện quen
dần công tác quản lý kinh tế tài chính, nhất là từ cơ sở.
Phải thường xuyên rút kinh nghiệm
sau mỗi đợt công tác để nâng cao dần kiến thức và trình độ quản lý tài chính của
cán bộ huyện, giúp huyện hiểu và làm đúng nhiệm vụ của cấp chính quyền Nhà nước
về mặt tài chính và ngân sách.
3. Xây dựng ngân sách 1980, đề
cao trách nhiệm tài chính tham gia tích cực vào việc xây dựng kế hoạch Nhà nước
cấp huyện.
Kế hoạch tài chính là một mặt
không thể tách rời của kế hoạch kinh tế quốc dân, nó là biểu hiện bằng tiền của
kế hoạch kinh tế. Thông qua biểu hiện bằng tiền, cấp huyện có khả năng lao động,
trang bị kỹ thuật, đất đai, đánh giá được kết quả sản xuất kinh doanh, những
tiêu hao lao động, tiêu phí vật chất và hiệu quả hoạt động của các ngành, các
cơ sở, thấy được những khả năng và khó khăn, những mặt mạnh và mặt yếu của các
cơ sở sản xuất kinh doanh. Nhờ vậy, có thêm căn cứ khách quan để tính toán và
xây dựng kế hoạch một cách tích cực, từ đó mà tăng nguồn thu cho ngân sách.
Yêu cầu của việc xây dựng ngân
sách 1980 là phải cố gắng xây dựng từ cơ sở lên, gắn với kế hoạch sản xuất và
kinh doanh của từng đơn vị.
- Với sự hướng dẫn và chỉ đạo của
tỉnh, huyện phải đi sâu, nắm vững tình hình năng lực của từng cơ sở bao gồm cả
kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, nắm vững tình hình tài sản, lao động, vốn
liếng, tình hình sản xuất, kinh doanh,,, có biện pháp giúp cơ sở giải quyết những
khó khăn và sơ hở nhằm khai thác được khả năng sẵn có về tài nguyên và lao động
để phát triển sản xuất, mở rộng lưu thông, hạ giá thành sản phẩm, hạ phí lưu
thông, từ đó mà tăng thu nhập cho cơ sở và cho ngân sách.
- Hướng dẫn các xí nghiệp, các
đơn vị xây dựng kế hoạch tài vụ, kế hoạch vốn, kết hợp chặt với việc xây dựng kế
hoạch kinh tế ngay từ đầu. Dự án tài vụ của xí nghiệp phải được đưa ra bàn bạc
và thảo luận một cách rộng rãi và dân chủ trong công nhân, trong cán bộ. Dự án
ngân sách của xã, của huyện phải được tổng hợp và xây dựng từ cơ sở lên, phải
được đưa ra cấp ủy thảo luận tập thể, đưa ra chính quyền và Hội đồng nhân dân
huyện thảo luận cả về nội dung, biện pháp và trách nhiệm thi hành một cách
nghiêm chỉnh, xét và thông qua theo trình tự đã quy định; dự án ngân sách được
nghiên cứu xây dựng một cách chặt chẽ, dựa trên những căn cứ vững chắc thì nó mới
thực sự là công cụ để xây dựng huyện, chính quyền và cấp ủy có thể thông qua
tính toán ngân sách mà kiểm tra cân đối và tính tích cực của kế hoạch kinh tế
quốc dân, bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ của kế hoạch.
D. KIỆN
TOÀN BỘ MÁY TÀI CHÍNH TĂNG CƯỜNG BỘ MÁY CHO CẤP HUYỆN.
Bộ máy và cán bộ tài chính ở huyện
nói chung còn yếu so với yêu cầu của nhiệm vụ. Trong bước đầu xây dựng cấp huyện,
nhiệm vụ quản lý tài chính lại hết sức mới mẻ và phức tạp, từ trước đến nay nhiều
việc huyện chưa biết làm, việc thì rất mới, cán bộ cũng chưa biết làm, do đó vừa
làm vừa phải rút kinh nghiệm. Vì vậy trước mắt chưa thể xác định ngay số biên
chế cứng nhắc cho mỗi huyện được.
Để tạo điều kiện cho huyện làm
được trách nhiệm trước tình hình mới, tỉnh cần cử cán bộ về tăng cường cho huyện.
Bộ tài chính cũng sẽ cử một số cán bộ về các huyện để cùng với lực lượng của tỉnh
giúp đỡ huyện triển khai công việc. Huyện cần chọn những cán bộ có năng lực, có
phẩm chất tốt, có hiểu biết về tình hình kinh tế, chính trị trong huyện và có triển
vọng để làm công tác tài chính và ngân sách. Một mặt khác, phải có kế hoạch bồi
dưỡng và bổ sung cán bộ trẻ kết hợp với cán bộ già có kinh nghiệm tạo thành một
đội ngũ làm việc đồng bộ lâu dài.
Trong biên chế cán bộ tài chính ở
huyện cần phân biệt hai loại khác nhau như sau:
1. Bộ phận chuyên trách về công
tác theo dõi kiểm tra và tổng hợp tài chính và ngân sách ở huyện. Biên chế của
bộ phận này thuộc biên chế hành chính, chịu sự khống chế về biên chế hành chính
ở cấp huyện.
2. Những bộ phận chuyên trách quản
lý từng mặt công tác như chuyên quản về vốn xây dựng cơ bản, chuyên quản tài vụ
các xí nghiệp quốc doanh, chuyên trách về thu thuế công thương nghiệp ở các
nơi, chuyên trách về thuế nông nghiệp và tài vụ hợp tác xã nông nghiệp. Biên chế
của các bộ phận này tùy thuộc đối tượng quản lý và khối lượng việc phải làm…
nhiều hay ít. Có việc thì phải có người làm, không để bộ máy phình ra một cách
giả tạo, nhưng nhất thiết không vì thiếu người mà buông lỏng quản lý để xảy ra
những việc làm trái nguyên tắc, trái với chế độ Nhà nước ở các cơ sở, buông lỏng
hoặc không làm nhiệm vụ quản lý và kiểm soát của Nhà nước, để thất thu cho ngân
sách hoặc lãng phí của công. Biên chế của các bộ phận này không thuộc biên chế
hành chính, không chịu khống chế của biên chế hành chính, nhưng phải chịu sự khống
chế của nhiệm vụ thu hoặc khối lượng vốn phải quản lý chi. Cái khó nhất trong
công tác cán bộ tài chính là phải trong sạch, nhạy cảm với yêu cầu của sản xuất
và kinh doanh, có khả năng tiếp thu chuyên môn nghiệp vụ, có tính tổ chức và
nguyên tắc cao. Vì vậy, không nên tuyển bất kỳ ai cho đủ người, mà phải tuyển
chọn, thử thách để xây dựng từng bước.
Trên đây là một số vấn đề cần
thiết, yêu cầu Ủy ban nhân dân tỉnh và thành phố tăng cường chỉ đạo và hướng dẫn
cho các ngành, các huyện làm. Trong quá trình thực hiện, có kinh nghiệm hay khó
khăn, xin phản ảnh về Bộ Tài chính.
|
BỘ
TRƯỞNG BỘ TÀI CHÍNH
Hoàng Anh
|
(1) In trong Công báo 1978 - số 9 (934) – trang
129.