HỘI ĐỒNG NHÂN
DÂN
TỈNH NINH THUẬN
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 78/NQ-HĐND
|
Ninh Thuận, ngày
09 tháng 12 năm 2022
|
NGHỊ QUYẾT
ĐẨY MẠNH VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG
THAM NHŨNG; THỰC HÀNH TIẾT KIỆM, CHỐNG LÃNG PHÍ
HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH NINH THUẬN
KHÓA XI KỲ HỌP THỨ 10
Căn cứ Luật Tổ chức chính
quyền địa phương ngày 19 tháng 6 năm 2015;
Căn cứ Luật Sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Tổ chức chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa
phương ngày 22 tháng 11 năm 2019;
Căn cứ Luật Hoạt động giám
sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân ngày 20 tháng 11 năm 2015;
Căn cứ Nghị quyết số
594/NQ-UBTVQH15 ngày 12/9/2022 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội hướng dẫn hoạt động
giám sát của HĐND, Thường trực HĐND, Ban của HĐND, Tổ đại biểu HĐND và đại biểu
HĐND;
Trên cơ sở xem xét Báo cáo số
52/BC-ĐGS ngày 06/12/2022 của Đoàn Giám sát của HĐND tỉnh về kết quả giám sát
chuyên đề của HĐND tỉnh“Việc thực hiện chính sách, pháp luật về phòng, chống
tham nhũng; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trên địa bàn tỉnh, giai đoạn
2016-2021” và ý kiến thảo luận của đại biểu Hội đồng nhân dân tại kỳ họp.
QUYẾT NGHỊ:
Điều 1.
Đánh giá kết quả thực hiện chính sách, pháp luật về phòng, chống tham nhũng; thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí trên địa bàn tỉnh, giai đoạn 2016-2021
HĐND tỉnh cơ bản tán thành nội
dung Báo cáo số 52/BC-ĐGS ngày 06/12/2022 của Đoàn Giám sát của HĐND tỉnh về kết
quả giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về phòng, chống tham nhũng;
thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trên địa bàn tỉnh, giai đoạn 2016-2021 với
những kết quả đạt được, tồn tại, hạn chế và nguyên nhân chủ yếu sau đây:
1. Công tác phòng, chống tham
nhũng (PCTN); thực hành tiết kiệm, chống lãng phí (THTK, CLP) được sự quan tâm
chỉ đạo kịp thời, xuyên suốt của các cơ quan Trung ương, Tỉnh ủy và sự chủ động,
quyết liệt trong chỉ đạo điều hành của UBND tỉnh. Công tác PCTN luôn được xác định
là nhiệm vụ trọng tâm tập trung chỉ đạo, theo dõi, đôn đốc các đơn vị, địa
phương thực hiện nghiêm túc, hiệu quả; góp phần nâng cao ý thức, tinh thần,
trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và Nhân dân trong công
tác phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng ở các Sở, ngành, lĩnh vực,
địa phương một cách hiệu quả, nhất là công khai, minh bạch hoạt động của cơ
quan, tổ chức, đơn vị; minh bạch tài sản thu nhập của cán bộ, công chức; thực
hiện tốt các chế độ, định mức, tiêu chuẩn; đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất
là thủ tục hành chính; tạo điều kiện thuận lợi các tổ chức, cho cán bộ, Nhân
dân theo dõi giám sát và tham gia quản lý; trong đó hiệu lực, hiệu quả quản lý
Nhà nước của hệ thống cơ quan hành chính được nâng lên. Đồng thời, các cấp, các
ngành quan tâm, duy trì thường xuyên việc thực hiện các giải pháp phòng, chống
tham nhũng, nhiều giải pháp phòng ngừa được chú trọng thực hiện đã đem lại hiệu
quả nhất định như công tác kê khai tài sản thu nhập; công khai, minh bạch trong
hoạt động; ban hành mới, sửa đổi, bổ sung về quy chế hoạt động, các văn bản thực
hiện về chế độ định mức tiêu chuẩn, quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức nghề nghiệp,
chuyển đổi vị trí công tác; hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước của hệ thống cơ
quan hành chính được nâng lên, góp phần tích cực trong việc phòng ngừa và ngăn
chặn, đẩy lùi tình trạng tham nhũng, nâng cao chỉ số cạnh tranh, nâng cao uy
tín của các cơ quan Nhà nước, phục vụ cho việc thực hiện và hoàn thành các chỉ
tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Công tác thanh tra, kiểm tra,
điều tra, truy tố, xét xử vụ việc, vụ án tham nhũng được tăng cường, thực hiện
đồng bộ và có sự phối hợp tốt giữa các cơ quan chức năng liên quan. Một số vụ
việc được phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm túc, kịp thời thu hồi tài sản do có
hành vi vi phạm gây ra. Các cơ quan có chức năng PCTN đã tập trung phát hiện,
điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, hiệu quả một số vụ án tham nhũng, kinh tế,
các hành vi sai phạm.
Vai trò, trách nhiệm người đứng
đầu trong công tác PCTN được phát huy và tăng cường; tạo niềm tin trong Nhân
dân và ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật PCTN; dư luận xã hội và đại bộ
phận cán bộ, công chức và Nhân dân đồng tình ủng hộ và hưởng ứng, góp phần nâng
cao hiệu quả về công tác đấu tranh PCTN, ổn định tình hình chính trị và phát
triển kinh tế - xã hội địa phương.
Việc tuyên truyền, phổ biến các
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước liên quan đến THTK, CLP
đạt kết quả tích cực, góp phần nâng cao nhận thức và hành động của cán bộ, công
chức, viên chức, người lao động và Nhân dân trong việc chấp hành các quy định về
THTK, CLP.
Các biện pháp THTK, CLP cơ bản
đi vào trọng tâm, trọng điểm gắn với tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội. Việc THTK, CLP được lồng ghép thực hiện trong công tác lập, thẩm
định, giao và thực hiện ngân sách nhà nước, kế hoạch đầu tư công hàng năm, bám
sát các mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ trọng tâm trong Chương trình THTK, CLP, qua
đó góp phần nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng các nguồn lực cho phát triển
kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn tỉnh.
Các cơ quan, đơn vị, địa phương
cơ bản thực hiện tốt các cơ chế quản lý tài chính, đặc biệt là thực hiện quy định
về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý
hành chính trong cơ quan, đơn vị; tăng cường kiểm soát chi tiêu nội bộ; triển
khai thực hiện nhiệm vụ chính trị, chuyên môn bám sát theo kế hoạch kinh phí được
giao, đảm bảo sử dụng tiết kiệm, hiệu quả kinh phí.
2. Bên cạnh kết quả đạt được,
việc thực hiện chính sách, pháp luật về phòng, chống tham nhũng; thực hành tiết
kiệm, chống lãng phí vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế:
Công tác quán triệt, tuyên truyền,
phổ biến chủ trương, chính sách, pháp luật về PCTN, THTK, CLP vẫn còn một số
đơn vị chưa thực hiện thường xuyên, nội dung tuyên truyền chưa đi vào chiều
sâu, chưa tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và hành động của cán bộ,
công chức, người lao động và Nhân dân; một số nơi thực hiện còn mang tính hình
thức. Các biện pháp phòng ngừa tham nhũng có lúc, có nơi triển khai thực hiện còn
lúng túng, chưa đồng bộ; thực hiện chuyển đổi vị trí công tác còn gặp nhiều khó
khăn, vướng mắc; công tác tự kiểm tra trong nội bộ tại một số cơ quan, đơn vị
chưa sâu sát, chặt chẽ, còn mang tính hình thức, hiệu quả chưa cao, chưa đôn đốc
giám sát thường xuyên, chưa kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm túc các hành vi
tham nhũng trong nội bộ; hầu hết các vụ việc vi phạm đều phát hiện qua thanh
tra và qua các kênh thông tin khác; nhiều cơ quan, đơn vị chưa tổ chức các cuộc
thanh tra, kiểm tra chuyên đề riêng về THKT, CLP.
Một số cơ chế, chính sách chưa
đầy đủ, thiếu nhất quán, còn kẽ hở; công tác quản lý nhà nước trên một số lĩnh
vực vẫn còn bất cập, nhất là lĩnh vực đất đai, tài chính, tài sản công, đấu thầu,
đấu giá, quản lý đầu tư, dễ phát sinh hành vi tiêu cực, tham nhũng. Một số đơn
vị, một số khâu trong quy trình giải quyết công việc cho người dân và doanh
nghiệp vẫn còn tình trạng nhũng nhiễu, vòi vĩnh, tham nhũng vặt.
Công tác phối hợp giữa các cơ
quan chức năng với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh, các tổ chức chính trị
- xã hội, cơ quan báo chí, doanh nghiệp để phát hiện, tố giác hành vi tham
nhũng có lúc chưa chặt chẽ; vai trò giám sát của CBCCVC và Nhân dân trong thực
hiện pháp luật về PCTN, THTK, CLP còn hạn chế, phát huy hiệu quả chưa cao. Một
số cơ quan, đơn vị chưa phát huy tốt vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu
trong công tác chỉ đạo, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về PCTN, tiết kiệm,
chống lãng phí; Công tác quản lý nhà nước về PCTN, THTK, CLP còn hạn chế, chưa
có các giải pháp THTK, CLP mang lại hiệu quả thiết thực, lâu dài.
Công tác chỉ đạo thực hiện xây
dựng chương trình THTK, CLP tại một số cơ quan, đơn vị còn chậm, chưa xác định
trọng điểm, trọng tâm cần tập trung thực hiện, chưa cụ thể hóa từng chỉ tiêu,
lĩnh vực phù hợp với nhiệm vụ chuyên môn.
Công tác lập, thẩm định, phê
duyệt dự toán và chấp hành ngân sách trong thời gian qua còn nhiều khó khăn, hạn
chế như: Một số cơ quan, đơn vị, địa phương triển khai thực hiện một số nhiệm vụ
chi không đạt so với dự toán, dẫn đến việc hủy dự toán và chuyển nguồn còn nhiều;
việc quản lý, điều hành dự toán chi của một số đơn vị chưa sát thực với tình
hình thực tiễn, một số khoản chi chưa được phân bổ cụ thể ngay từ đầu năm, dẫn
đến phát sinh các khoản chi trong quá trình điều hành ngân sách; vẫn còn tình
trạng chi sai định mức, tiêu chuẩn, chế độ theo quy định. Việc công khai, minh
bạch trong một số lĩnh vực, nhất là quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước, thu
chi tài chính, đầu tư, xây dựng cơ bản chưa đảm bảo quy định. Công tác quyết
toán các dự án hoàn thành sử dụng vốn ngân sách vẫn còn dự án báo cáo quyết
toán không đúng thời gian.
Công tác lập, thẩm định, phê
duyệt triển khai thực hiện các dự án đầu tư công còn hạn chế, dẫn đến việc phải
điều chỉnh chủ trương đầu tư nhiều lần, ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện dự án.
Công tác quản lý và sử dụng đất
một số nơi chưa đúng quy định, vẫn còn tình trạng cho thuê sử dụng nhà đất chưa
đúng quy trình, bị lấn chiếm xảy ra từ lâu nhưng chưa được khắc phục, xử lý dứt
điểm; tình trạng lấn chiếm đất, xây dựng nhà trái phép trên đất nông nghiệp xảy
ra ở hầu hết các địa phương; một số tổ chức được giao đất, cho thuê đất nhưng
không đưa vào sử dụng, để lãng phí; nhiều công trình, dự án nằm trong Danh mục
thu hồi đất được HĐND tỉnh thông qua nhưng chưa được thực hiện. Tình trạng vi
phạm pháp luật, lấn chiếm, tranh chấp đất đai, sử dụng đất không đúng mục đích,
không đúng quy hoạch còn xảy ra nhiều nơi, gây lãng phí nguồn lực đất đai. Một
số dự án được UBND tỉnh ban hành quyết định giao đất, cho thuê đất nhưng chậm
xác định giá đất để tính tiền sử dụng đất, tiền thuê đất; chưa đảm bảo nguồn
thu ngân sách từ nguồn thu sử dụng đất theo kế hoạch.
Việc tổ chức mua sắm tập trung,
thực hiện quy trình mất thời gian tương đối dài; công tác tổ chức đấu thầu còn
chậm; một số trường hợp cần mua sắm phương tiện, thiết bị cấp thiết để sử dụng
gặp nhiều khó khăn cho đơn vị sử dụng.
Tài nguyên rừng vẫn còn bị khai
thác trái phép, tình trạng phá rừng làm nương rẫy, lấn chiếm đất rừng vẫn còn xảy
ra; trách nhiệm bảo vệ rừng của chủ rừng và trách nhiệm quản lý nhà nước của
chính quyền địa phương, đặc biệt ở cấp xã vẫn còn hạn chế. Công tác rà soát,
bóc tách diện tích đất nông nghiệp mà người dân đang sử dụng ổn định trong 03
loại rừng để lập hồ sơ quản lý theo quy định chưa thực hiện được.
Việc tuyển dụng, bố trí, sử dụng
sinh viên cử tuyển và bố trí, sử dụng đội ngũ công chức, viên chức sau khi được
đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, chuyên môn chưa thật sự sát với nhu cầu vị
trí việc làm. Tỷ lệ đơn vị sự nghiệp công lập tự đảm bảo chi thường xuyên hoặc
tự đảm bảo chi thường xuyên và chi đầu tư chưa đạt 10% theo mục tiêu đề ra. Hiện
nay, việc sắp xếp một số đơn vị sự nghiệp công lập chưa hoàn thành theo kế hoạch
đề ra.
3. Những tồn tại, hạn chế nêu
trên do nhiều nguyên nhân. Bên cạnh nguyên nhân khách quan do văn bản pháp luật
hướng dẫn thi hành về PCTN còn chậm ban hành và chưa sửa đổi, bổ sung hoàn thiện
kịp thời, phù hợp với tình hình thực tiễn; Các quy định pháp luật về THTK, CLP
có nội dung còn chung chung, chưa có cơ chế, biện pháp hiệu quả trong việc triển
khai THTK, CLP; Nguồn lực của tỉnh còn khó khăn, hạn chế; chủ trương dừng triển
khai xây dựng nhà máy Điện Hạt nhân; một số cơ chế, chính sách mới liên quan điện
gió, điện mặt trời chậm ban hành, đã ảnh hưởng đến việc thực hiện kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh; thì nguyên nhân chủ quan là công tác chỉ đạo,
triển khai PCTN, THTK, CLP tại một số cơ quan, đơn vị chưa quyết liệt; nhận thức,
trách nhiệm và quyết tâm của người đứng đầu trong công tác PCTN, THTK, CLP ở một
số đơn vị chưa cao; nhận thức và ý thức của một bộ phận cán bộ, công chức, viên
chức trong PCTN, THTK, CLP còn hạn chế; việc triển khai công tác PCTN có phần bị
động, chưa đôn đốc nhắc nhở thường xuyên, thiếu quyết liệt nên dẫn đến phát
sinh tham nhũng phải bị xử lý tại một số đơn vị; một số cán bộ, công chức thoái
hóa, biến chất lợi dụng sự quản lý sơ hở và thiếu sự kiểm tra của đơn vị để
tham nhũng, tiêu cực; công tác kiểm tra, đôn đốc, nhắc nhở việc thực hiện quy định
của pháp luật về PCTN, THTK, CLP một số nơi chưa thường xuyên, chưa thực sự
quan tâm; cải cách hành chính vẫn còn chậm; thiếu các công cụ phát hiện và xử
lý tham nhũng hữu hiệu.
Điều 2. Về
phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp chung công tác phòng, chống tham nhũng; thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí
1. Tiếp tục đẩy mạnh và nâng
cao chất lượng các hoạt động tuyên truyền, phổ biến nhằm nâng cao nhận thức,
trách nhiệm và ý thức chấp hành pháp luật về PCTN, THTK, CLP của CBCCVC và Nhân
dân, tạo sự đồng thuận trong xã hội về đấu tranh PCTN, lãng phí. Tổ chức các lớp
bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ về PCTN, THTK, CLP, nhất là những quy định mới.
2. Tăng cường trách nhiệm của
người đứng đầu, của cơ quan, đơn vị trong việc tuyên truyền, xây dựng và công
khai định mức, tiêu chuẩn, chế độ, quy chế chi tiêu nội bộ; thường xuyên giám
sát, đôn đốc, nhắc nhở nội bộ cơ quan, ngành, lĩnh vực để phòng ngừa, phòng, chống
tham nhũng, chống lãng phí hiệu quả. Chỉ đạo thực hiện chương trình, kế hoạch
THTK, CLP gắn với nhiệm vụ cải cách hành chính, xác định rõ mục tiêu, chỉ tiêu
tiết kiệm và yêu cầu chống lãng phí trong lĩnh vực quản lý; xây dựng các giải
pháp để thực hiện đạt mục tiêu THTK,CLP. Định kỳ đánh giá, rút kinh nghiệm việc
thực hiện chương trình, kế hoạch và giải trình về việc để xảy ra lãng phí trong
cơ quan, tổ chức mình.
3. Đẩy mạnh công tác kiểm tra,
giám sát chấp hành pháp luật về PCTN, THTK, CLP, bao gồm việc tự kiểm tra của
cơ quan, tổ chức; kiểm tra của cơ quan, tổ chức cấp trên đối với cơ quan, tổ chức
cấp dưới và cá nhân có liên quan để phát hiện, ngăn chặn và kịp thời xử lý theo
thẩm quyền hoặc kiến nghị cấp có thẩm quyền xử lý các vi phạm; xác định rõ
nguyên nhân và kiến nghị biện pháp khắc phục, đặc biệt chú trọng các giải pháp
phòng ngừa tham nhũng, lãng phí.
4. Tăng cường thường xuyên chỉ
đạo các đơn vị thực hiện tốt các quy định về công khai, minh bạch trong công
tác cán bộ; trong quy hoạch, đào tạo, quản lý, sử dụng tài sản, tài chính ngân
sách; về minh bạch tài sản, thu nhập; thực hiện định kỳ chuyển đổi vị trí công
tác theo quy định.
5. Đẩy mạnh cải cách hành chính
gắn với các hoạt động phòng ngừa tham nhũng, nâng cao chất lượng phục vụ, giải
quyết thủ tục hành chính; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản
lý, điều hành để nâng cao chất lượng, hiệu quả giải quyết công việc; thực hiện
thanh toán không dùng tiền mặt theo quy định.
6. Chỉ đạo thực hiện tốt công
tác tiếp nhận xử lý, giải quyết tố cáo về tham nhũng; kịp thời phát hiện, xử lý
hành vi tham nhũng qua thanh tra, kiểm tra; tăng cường hoạt động kiểm tra nội bộ
nhằm kịp thời phát hiện, xử lý các hành vi tham nhũng khi mới phát sinh.
7. Chỉ đạo nâng cao chất lượng,
hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực của tỉnh; các Sở, ngành, địa phương phối hợp chặt
chẽ với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh, các tổ chức chính trị - xã hội,
cơ quan báo chí, doanh nghiệp trong việc phát hiện, tố giác hành vi tham nhũng.
8. Chỉ đạo xử lý dứt điểm các vụ
việc tham nhũng; xử lý nghiêm trách nhiệm người đứng đầu, cấp phó của người đứng
đầu để xảy ra tham nhũng.
9. Tăng cường chỉ đạo hướng dẫn,
kiểm tra trong quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước, khai thác các nguồn thu, chống
thất thu thuế, quản lý chi chặt chẽ, thực hiện tốt chủ trương tiết kiệm chi
ngân sách. Tiếp tục chỉ đạo thực hiện chế độ tự chủ chi thường xuyên của các cơ
quan hành chính nhà nước; đẩy nhanh việc tự chủ đối với các đơn vị sự nghiệp
công lập trên địa bàn. Tổ chức kiểm tra việc xây dựng định mức, tiêu chuẩn, chế
độ thuộc nội dung quy chế chi tiêu nội bộ do các cơ quan, tổ chức thuộc phạm vi
quản lý ban hành.
10. Đẩy mạnh ban hành các tiêu
chuẩn kỹ thuật địa phương; các quy định về tiêu chuẩn, định mức sử dụng máy
móc, thiết bị chuyên dùng theo quy định của Trung ương đã phân cấp cho địa
phương (trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo; phòng chống thiên tai; khoa học công
nghệ, xây dựng, tài nguyên môi trường…) để làm căn cứ thực hành tiết kiệm.
11. Tăng cường quản lý đầu tư
công, nhất là ở giai đoạn chuẩn bị đầu tư; trong việc thẩm định trình cấp có thẩm
quyền quyết định chủ trương đầu tư phải thẩm định làm rõ nguồn vốn và khả năng cân
đối vốn cho từng chương trình, dự án cụ thể, bảo đảm dự án được phê duyệt có đủ
nguồn lực tài chính để thực hiện. Có kế hoạch rà soát các công trình, dự án được
đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước, có giải pháp phù hợp nhằm nâng cao hiệu
quả đầu tư, sử dụng. Đẩy nhanh tiến độ giải ngân, triển khai thực hiện các dự
án đầu tư công trên địa bàn tỉnh. Tiếp tục rà soát, thu hồi những dự án đã được
giao đất, cho thuê đất quá 03 năm nhưng chậm triển khai thực hiện.
12. Tăng cường quản lý tài sản
công, thường xuyên tổ chức kiểm tra, rà soát tài sản công, nhà, đất được giao
quản lý, sử dụng đảm bảo đúng mục đích, hiệu quả, nhất là thực hiện việc liên
doanh, liên kết, cho thuê tài sản theo quy định; rà soát duy tu, sửa chữa tài sản
đảm bảo sử dụng hiệu quả, hạn chế hư hỏng.
13. Tăng cường, đẩy mạnh công
tác quản lý nguồn lực đất đai, tài nguyên, khoáng sản; chỉ đạo công tác thanh
tra, kiểm tra, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm do nguyên nhân chủ quan
trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao về công tác quản lý đất đai, việc
thực hiện quy trình, thủ tục giao đất, cho thuê đất không đúng quy định để bị lấn
chiếm, sử dụng đất sai mục đích; việc chậm trễ trong xác định giá đất để tính
tiền sử dụng, tiền thuê đất. Thực hiện chặt chẽ công tác quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất đai, tài nguyên, khoáng sản, tránh tình trạng lãng phí, sử dụng không
hiệu quả.
Điều 3. Tổ
chức thực hiện
1. Giao Ủy ban nhân dân tỉnh
triển khai thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ quy định tại Điều 2 Nghị quyết
này.
2. Giao Thường trực Hội đồng
nhân dân, các Ban Hội đồng nhân dân, Tổ đại biểu và đại biểu Hội đồng nhân dân
tỉnh giám sát việc thực hiện Nghị quyết.
Nghị quyết này đã được Hội đồng
nhân dân tỉnh Ninh Thuận Khóa XI Kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 09 tháng 12 năm
2022./.
Nơi nhận:
- Ủy ban Thường vụ Quốc hội;
- Chính phủ;
- Ban Công tác đại biểu - UBTVQH;
- Văn phòng Quốc hội;
- Văn phòng Chính phủ;
- Thường trực tỉnh ủy;
- Thường trực HĐND tỉnh;
- UBND tỉnh;
- Ban Thường trực UBMTTQVN tỉnh;
- Đoàn ĐBQH tỉnh;
- Đại biểu HĐND tỉnh khóa XI;
- Các sở, ban, ngành, đoàn thể tỉnh;
- VP: Tỉnh ủy, Đoàn ĐBQH và HĐND; UBND tỉnh;
- TT. HĐND, UBND các huyện, TP;
- Trung tâm CNTT và truyền thông;
- Trang TTĐT HĐND tỉnh;
- Lưu: VT, Phòng Công tác HĐND.
|
CHỦ TỊCH
Phạm Văn Hậu
|