|
Bản dịch này thuộc quyền sở hữu của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Mọi hành vi sao chép, đăng tải lại mà không có sự đồng ý của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT là vi phạm pháp luật về Sở hữu trí tuệ.
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT has the copyright on this translation. Copying or reposting it without the consent of
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT is a violation against the Law on Intellectual Property.
X
CÁC NỘI DUNG ĐƯỢC SỬA ĐỔI, HƯỚNG DẪN
Các nội dung của VB này được VB khác thay đổi, hướng dẫn sẽ được làm nổi bật bằng
các màu sắc:
: Sửa đổi, thay thế,
hủy bỏ
Click vào phần bôi vàng để xem chi tiết.
|
|
|
Đang tải văn bản...
Số hiệu:
|
01/2001/TANDTC-VKSNDTC-BVHTT
|
|
Loại văn bản:
|
Thông tư liên tịch
|
Nơi ban hành:
|
Bộ Văn hoá-Thông tin, Viện kiểm sát nhân dân tối cao
|
|
Người ký:
|
Đặng Quang Phương, Khuất Văn Nga, Trần Chiến Thắng
|
Ngày ban hành:
|
05/12/2001
|
|
Ngày hiệu lực:
|
Đã biết
|
Ngày công báo:
|
Đang cập nhật
|
|
Số công báo:
|
Đang cập nhật
|
|
Tình trạng:
|
Đã biết
|
BỘ
VĂN HOÁ THÔNG TIN-VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO-TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
01/2001/TANDTC-VKSNDTC-BVHTT
|
Hà
Nội , ngày 05 tháng 12 năm 2001
|
THÔNG TƯ LIÊN TỊCH
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO - VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
- BỘ VĂN HOÁ - THÔNG TIN SỐ 01/2001/TANDTC-VKSNDTC-BVHTT NGÀY 5 THÁNG 12 NĂM
2001 HƯỚNG DẪN ÁP DỤNG MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT
CÁC TRANH CHẤP LIÊN QUAN ĐẾN QUYỀN TÁC GIẢ TẠI TOÀ ÁN NHÂN DÂN
Để áp dụng đúng và thống nhất
các quy định của Bộ luật Dân sự trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan
đến quyền tác giả tại Toà án nhân dân; Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát
nhân dân tối cao, Bộ Văn hoá- Thông tin thống nhất hướng dẫn một số điểm như
sau:
I. THẨM QUYỀN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP LIÊN QUAN ĐẾN QUYỀN
TÁC GIẢ
1. Các tranh chấp liên quan đến
quyền tác giả thuộc thẩm quyền giải quyết của toà án nhân dân.
Theo quy định tại Điều 759 Bộ luật
Dân sự (sau đây viết tắt là BLDS), Điều 33 Nghị định số 76/CP ngày 29/11/1996 của
Chính phủ "hướng dẫn thi hành một số quy định quyền tác giả trong Bộ luật
Dân sự" (sau đây viết tắt là NĐ 76/CP) và Điều 10 Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án dân sự (sau đây viết tắt là PLTTGQCVDS), Toà án nhân dân có thẩm
quyền giải quyết các tranh chấp sau đây liên quan đến quyền tác giả:
1.1. Các tranh chấp về quyền tác
giả đối với tác phẩm (tranh chấp ai là người trực tiếp sáng tạo toàn bộ hoặc một
phần tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học...) giữa:
a) Cá nhân với cá nhân; cá nhân
với tổ chức; tổ chức với tổ chức;
b) Các đồng tác giả với nhau; một
hoặc các đồng tác giả với cá nhân, tổ chức khác;
1.2. Các tranh chấp về quyền tác
giả đối với phần mềm máy tính giữa người cung cấp tài chính hoặc các điều kiện
vật chất có tính quyết định cho việc xây dựng, phát triển phần mềm máy tính với
người thiết kế, xây dựng phần mềm máy tính.
1.3. Các tranh chấp về các quyền
nhân thân hoặc các quyền tài sản liên quan đến quyền tác giả giữa:
a) Tác giả (đồng tác giả) không
đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm với chủ sở hữu tác phẩm không đồng thời là tác
giả (theo quan hệ giao nhiệm vụ hoặc theo hợp đồng sáng tạo tác phẩm);
b) Tác giả (đồng tác giả) hoặc
chủ sở hữu tác phẩm với người dịch, phóng tác, biên soạn, cải biên, chuyển thể
hoặc với người sử dụng tác phẩm dịch, phóng tác, biên soạn, cải biên, chuyển thể
để sáng tạo tác phẩm mới;
c) Tác giả (đồng tác giả) hoặc
chủ sở hữu tác phẩm đã công bố với người sưu tầm tác phẩm đó để làm tuyển tập,
hợp tuyển;
d) Tác giả (đồng tác giả) hoặc
chủ sở hữu tác phẩm với tổ chức điện ảnh, phát thanh, truyền hình sân khấu hoặc
các tổ chức biểu diễn các loại hình nghệ thuật khác;
đ) Tác giả (đồng tác giả) hoặc
chủ sở hữu tác phẩm với người sử dụng tác phẩm đó để biểu diễn;
e) Tác giả (đồng tác giả) hoặc
chủ sở hữu tác phẩm với tổ chức, cá nhân sản xuất băng âm thanh, đĩa âm thanh,
băng hình, đĩa hình;
f) Tác giả đồng thời là chủ sở hữu
tác phẩm, chủ sở hữu tác phẩm không đồng thời là tác giả với tổ chức, cá nhân sử
dụng tác phẩm của họ nhằm mục đích kinh doanh;
g) Tổ chức sản suất băng âm
thanh, đĩa âm thanh, băng hình, đĩa hình (có chương trình) với tổ chức, cá nhân
khác về việc nhân bản, phát hành sản phẩm;
h) Tổ chức phát thanh, truyền
hình với tổ chức, cá nhân khác về việc phát sóng \chương trình hoặc làm các bản
sao chương trình;
i) Người biểu diễn với cá nhân,
tổ chức;
1.4. Các tranh chấp về hợp đồng
sử dụng tác phẩm hoặc tranh chấp về hợp đồng dịch vụ bản quyền tác giả .
1.5. Các tranh chấp về thừa kế
quyền tác giả.
1.6. Các tranh chấp khác liên
quan đến quyền tác giả.
2. Về thẩm quyền của toà án nhân
dân giải quyết các tranh chấp có liên quan đến quyền tác giả theo thủ tục sơ thẩm.
Pháp lệnh Bảo hộ quyền tác giả
đã hết hiệu lực kể từ ngày 1/7/1996 (ngày BLDS có hiệu lực). BLDS không quy định
về thẩm quyền của Toà án nhân dân các cấp trong việc giải quyết các tranh chấp
liên quan đến quyền tác giả; do đó, việc xác định thẩm quyền của Toà án nhân
dân giải quyết các tranh chấp liên quan đến quyền tác giả theo thủ tục sơ thẩm
phải căn cứ vào PLTTGQCVADS. Tuy nhiên, các tranh chấp liên quan đến quyền tác
giả là những loại việc rất phức tạp. Vì vậy, ngoài các vụ án về các tranh chấp
liên quan đến quyền tác giả thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 Điều
11 PLTTGQCVADS, đối với các vụ án khác về tranh chấp liên quan đến quyền tác giả,
thì Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương căn cứ vào điểm c khoản
2 Điều 11 PLTTGQCVADS lấy lên để giải quyết theo thủ tục sơ thẩm.
II. QUYỀN KHỞI
KIỆN, KHỞI TỐ VỤ ÁN VỀ TRANH CHẤP LIÊN QUAN ĐẾN QUYỀN TÁC GIẢ
1. Quyền khởi kiện vụ án về
tranh chấp liên quan đến quyền tác giả.
Theo quy định của BLDS thì những
cá nhân, tổ chức sau đây có quyền khởi kiện vụ án tại Toà án nhân dân có thẩm
quyền để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp liên quan đến quyền tác giả:
a. Tác giả;
b. Chủ sở hữu tác phẩm;
c. Người thừa kế hợp pháp của
tác giả hoặc của chủ sở hữu tác phẩm;
d. Cá nhân, tổ chức được chuyển
giao quyền của chủ sở hữu tác phẩm;
e. Cá nhân, tổ chức sử dụng tác
phẩm theo hợp đồng;
f. Người biểu diễn;
g. Nhà xuất bản, tổ chức sản xuất
băng âm thanh, đĩa âm thanh, băng hình, đĩa hình;
h. Tổ chức phát thanh, truyền
hình;
i. Cá nhân và tổ chức khác theo
quy định của pháp luật.
2. Quyền khởi tố vụ án về tranh
chấp liên quan đến quyền tác giả.
Đối với các vi phạm quyền tác giả
đã thuộc Nhà nước thì Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương (sau đây gọi tắt là Viện kiểm sát cấp tỉnh) có quyền khởi tố vụ án.
Cục Bản quyền tác giả (Bộ Văn
hoá - Thông tin), Sở Văn hoá - Thông tin tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
khi phát hiện các vi phạm quyền tác giả đã thuộc Nhà nước thì phải đề nghị với
Viện kiểm sát cấp tỉnh xem xét việc khởi tố vụ án nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà
nước.
3. Điều kiện khởi kiện, khởi tố
vụ án về tranh chấp liên quan đến quyền tác giả.
3.1. Theo quy định tại Điều 754
BLDS quyền tác giả phát sinh kể từ thời điểm tác phẩm được sáng tạo dưới hình
thức nhất định (không phân biệt tác phẩm đã được công bố hay chưa công bố, đã
đăng ký hay chưa đăng ký, không phân biệt ngôn ngữ thể hiện, chất lượng của tác
phẩm...); do đó, khi có tranh chấp liên quan đến quyền tác giả mà đương sự khởi
kiện yêu cầu Toà án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ, thì Toà án không
phân biệt việc họ đã có giấy chứng nhận bản quyền tác giả hay chưa, họ đã nộp
đơn hay chưa nộp đơn đăng ký bảo hộ quyền tác giả, quyền sở hữu tác phẩm.
3.2. Các quyền của tác giả, các
quyền của chủ sở hữu tác phẩm không đồng thời là tác giả, quyền của tổ chức sản
xuất băng âm thanh, đĩa âm thanh, băng hình, đĩa hình, quyền của tổ chức phát
thanh, truyền hình được bảo hộ trong thời hạn theo quy định tại Điều 766 BLDS.
Quá thời hạn bảo hộ, các chủ thể nói trên không còn được Nhà nước và pháp luật
bảo hộ, trừ các quyền nhân thân của tác giả theo quy định tại các điểm a, b và
đ khoản 2 Điều 751, khoản 1 Điều 752 BLDS; do đó, Toà án chỉ thụ lý đơn khởi kiện
để giải quyết nếu các quyền đó vẫn còn trong thời hạn bảo hộ.
3.3. Theo quy định của
PLTTGQCVADS thì khi khởi kiện đến Toà án, người khởi kiện có nghĩa vụ cung cấp
chứng cứ để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Chứng cứ có thể là: giấy
chứng nhận bản quyền của tác giả do Cục Bản quyền tác giả (Bộ văn hoá - Thông
tin) cấp; văn bản xác nhận của Cục Bản quyền tác giả hoặc Sở Văn hoá - Thông
tin về việc người khởi kiện đã nộp đơn đăng ký bảo hộ quyền tác giả, quyền sở hữu
tác phẩm đối với tác phẩm chưa được công bố hoặc các văn bản xác nhận của các tổ
chức xã hội - nghề nghiệp (hoạt động trong các lĩnh vực văn học, nghệ thuật,
khoa học) đối với các tác phẩm chưa đăng ký để làm căn cứ chứng minh họ là tác
giả, đồng tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm và tác phẩm của họ thuộc loại hình
tác phẩm được Nhà nước bảo hộ...
Trong trường hợp cần thiết Toà
án có thể thu thập thêm chứng cứ, quyết định trưng cầu giám định của các cơ
quan chuyên môn theo yêu cầu của các đương sự nhằm bảo đảm cho việc giải quyết
vụ án được chính xác. Người có yêu cầu Toà án quyết định việc trưng cầu giám định
phải làm đơn, nêu rõ lý do và phải nộp tiền tạm ứng chi phí giám định.
3.4. Tác giả có quyền được hưởng
nhuận bút, thù lao và các quyền lợi vật chất khác (nếu có) khi tác phẩm được sử
dụng, quyền được nhận giải thưởng đối với tác phẩm mà mình là tác giả (trừ trường
hợp tác phẩm không được Nhà nước bảo hộ); do đó, chỉ được có tác giả (các đồng
tác giả), người thừa kế hợp pháp của tác giả hoặc người được uỷ quyền hợp pháp
mới có quyền yêu cầu Toà án bảo vệ khi các quyền này bị xâm phạm. Trong trường
hợp tác giả (đồng tác giả) chết mà các quyền này thuộc về Nhà nước theo quy định
tại khoản 1 Điều 764 và Điều 765 BLDS, thì Nhà nước là chủ sở hữu các quyền đó.
Nếu Nhà nước có văn bản uỷ quyền cho một cơ quan, tổ chức cụ thể nhân danh Nhà
nước bảo vệ lợi ích của Nhà nước khi các quyền này bị xâm phạm thì cơ quan, tổ
chức được uỷ quyền có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án bảo vệ lợi ích của Nhà nước.
Nếu Nhà nước không có văn bản nào quy định thì Viện kiểm sát cấp tỉnh có quyền
tự mình hoặc theo đề nghị của Cục Bản quyền tác giả (Bộ Văn hoá - Thông tin), Sở
Văn hoá - Thông tin, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp (hoạt động trong các lĩnh
vực văn hoá, nghệ thuật, khoa học) khởi tố vụ án để yêu cầu Toà án bảo vệ lợi
ích của Nhà nước.
III. VIỆC ÁP
DỤNG PHÁP LUẬT ĐỂ GIẢI QUYẾT MỘT SỐ TRƯỜNG HỢP CỤ THỂ
Khi giải quyết vụ án về tranh chấp
liên quan đến quyền tác giả cần chú ý một số điểm sau đây:
1. Đối với yêu cầu bảo vệ các
quyền nhân thân thì áp dụng quy định tại điều tương ứng trong Chương 1, phần thứ
6 và Điều 27 BLDS để giải quyết. Tuỳ từng trường hợp cụ thể mà quyết định buộc
người vi phạm phải chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai (kể cả
việc cải chính trên các phương tiện thông tin đại chúng); bồi thường thiệt hại
về vật chất và thiệt hại về tinh thần. Thiệt hại về vật chất cũng như thiệt hại
về tinh thần do quyền nhân thân bị xâm phạm được xác định theo quy định tại các
Điều 609, 610, 611 và 615 BLDS về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
2. Đối với tranh chấp phát sinh
giữa cá nhân với cá nhân về quyền tác giả hay về quyền đồng tác giả thì cần phải
xác định ai là tác giả (hoặc là đồng tác giả) đích thực của tác phẩm. Theo tinh
thần quy định tại khoản 2 Điều 24 NĐ.76/CP thì người có yêu cầu công nhận mình
(hoặc người để lại thừa kế cho mình) là tác giả của tác phẩm phải xuất trình
các tư liệu, giấy tờ cần thiết chứng mình (hoặc người để lại thừa kế cho mình)
là tác giả (hoặc là đồng tác giả). Các tư liệu, giấy tờ cần thiết để chứng minh
quyền tác giả có thể là bản gốc của tác phẩm hoặc là các tài liệu có liên quan
đến bản gốc của tác phẩm và tác phẩm đã được công bố. Nếu có đủ chứng cứ để xác
định người đã sáng tạo ra tác phẩm (một phần hoặc toàn bộ) thì công nhận quyền
tác giả (quyền đồng tác giả), quyền sở hữu tác phẩm cho họ (hoặc cho người để lại
thừa kế cho họ) đối với tác phẩm hoặc một phần tác phẩm đó.
3. Tác giả đồng thời là chủ sở hữu
tác phẩm có mọi quyền đối với tác phẩm theo quy định tại Điều 751 BLDS, còn tác
giả không đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm thì không có đầy đủ các quyền đó, bởi
vì một số quyền nhân thân và một số quyền tài sản như: công bố, phổ biến hoặc
cho người khác công bố, phổ biến tác phẩm, cho hoặc không cho người khác sử dụng
tác phẩm; quyền được hưởng lợi ích vật chất từ việc sử dụng tác phẩm dưới các
hình thức như: xuất bản, tái bản, trưng bày, triển lãm, biểu diễn, phát thanh,
truyền hình, ghi âm, ghi hình, chụp ảnh, dịch, phóng tác, cải biên, chuyển thể
hay cho thuê... thuộc về chủ sở hữu tác phẩm theo quy định tại Điều 753 BLDS.
Khi thụ lý để giải quyết tranh
chấp về quyền tác giả (hay các quyền đồng tác giả), Toà án cần xác định rõ mối
quan hệ có tranh chấp, trong trường hợp tranh chấp có liên quan đến quyền của
chủ sở hữu tác phẩm, thì Toà án cần phải đưa chủ sở hữu tác phẩm vào tham gia tố
tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của họ.
Mối quan hệ giữa tác giả (đồng
tác giả) không đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm với chủ sở hữu tác phẩm không đồng
thời là tác giả (đồng tác giả) sáng tạo tác phẩm theo nhiệm vụ được giao hoặc
theo hợp đồng. Quyền của tác giả (đồng tác giả) cũng như quyền của chủ sở hữu
tác phẩm được phân định theo quy định tại Điều 756 BLDS. Tuy nhiên, giữa tác giả
(đồng tác giả) và chủ sở hữu tác phẩm có thể thoả thuận với nhau một số quyền
theo quy định tại các điểm a và b khoản 1 Điều 753 BLDS; do đó, khi có tranh chấp
loại này, Toà án không những phải căn cứ vào các quy định của BLDS, NĐ.76/CP,
mà còn phải căn cứ vào nhiệm vụ mà tác giả (đồng tác giả) được giao hay thoả
thuận trong hợp đồng được ký kết giữa tác giả (đồng tác giả) với chủ sở hữu tác
phẩm để giải quyết.
4. Các quyền của đồng tác giả được
quy định tại Điều 755 BLDS. Khi có trnh chấp giữa các đồng tác giả với nhau về
các quyền tác giả và nếu hoà giải không thành, thì Toà án căn cứ vào quy định tại
khoản 1 Điều 755 BLDS để giải quyết. Đối với tác phẩm đồng tác giả quy định tại
khoản 1 Điều 755 BLDS thì việc sử dụng, định đoạt tác phẩm phải được sự thoả
thuận của các đồng tác giả; nếu có đồng tác giả đã chết thì phải được sự thoả
thuận của người thừa kế đồng tác giả đó. Trong trường hợp tác phẩm do các đồng
tác giả sáng tạo gồm các phần riêng biệt có thể tách ra để sử dụng độc lập thì
Toà án căn cứ vào quy định tại khoản 2 Điều 755 BLDS để xác định quyền tác giả
của mỗi đồng tác giả, nếu họ có yêu cầu.
5. Các quyền tác giả của người dịch,
phóng tác, biên soạn, cải biên, chuyển thể cũng được bảo hộ theo quy định tại
Điều 751 hoặc Điều 752 BLDS, nhưng cần phải chú ý là khi các tác giả thuộc diện
này thực hiện việc dịch, phóng tác, biên soạn, cải biên, chuyển thể tác phẩm gốc...
họ phải được tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm gốc (nếu các quyền tác giả đó còn
trong thời hạn bảo hộ) cho phép, nhất là trong trường hợp họ có thay đổi nội
dung tác phẩm gốc. Việc xin phép và trả thù lao cho tác giả hoặc chủ sở hữu tác
phẩm dịch phóng tác, biên soạn, cải biên, chuyển thể.... phải được thực hiện
thông qua hợp đồng. Như vậy, khi có tranh chấp giữa tác giả hoặc chủ sở hữu tác
phẩm gốc với tác giả tác phẩm dịch, phóng tác, biên soạn, cải biên, chuyển thể
thì Toà án căn cứ vào quy định tại Điều 757 BLDS cũng như các thoả thuận của
các bên trong hợp đồng để giải quyết.
6. Đối với tác phẩm điện ảnh,
vi-đi-ô, phát thanh, truyền hình, sân khấu và các loại hình biểu diễn nghệ thuật
khác thì những người đạo diễn, biên kịch, quay phim, người dựng phim, nhạc sỹ,
hoạ sỹ được hưởng các quyền quy định tại Điều 758 BLDS. Tuy nhiên, họ chỉ được
hưởng các quyền tác giả đối với tác phẩm do họ tự sáng tạo mà không dựa trên nội
dung tác phẩm của người khác hoặc trong trường hợp tuy có dựa trên nội dung tác
phẩm của người khác, nhưng đã được sự đồng ý của tác giả (đồng tác giả) hay chủ
sở hữu tác phẩm gốc (hoặc của tác giả tác phẩm dịch, phóng tác, biên soạn, cải
biên, chuyển thể... nếu họ sử dụng tác phẩm của tác giả này) và đã thực hiện
đúng các nghĩa vụ theo quy định tại Điều 778 BLDS. Khi có tranh chấp giữa một
bên là tác giả (đồng tác giả), chủ sở hữu tác phẩm gốc (hoặc tác giả tác phẩm dịch,
phóng tác, biên soạn, cải biên, chuyển thể...) với bên kia là tác giả (đồng tác
giả) tác phẩm điện ảnh, vi-đi-ô, phát thanh, truyền hình, sân khấu và các loại
hình biểu diễn nghệ thuật khác và nếu hoà giải không thành, thì Toà án căn cứ
vào quy định tại các Điều 758, 760 và 778 BLDS để giải quyết. Tương tự như vậy,
Toà án có thể thụ lý và giải quyết tranh chấp giữa tác giả, chủ sở hữu tác phẩm
với người sưu tầm những tác phẩm đã công bố để làm thành tuyển tập, hợp tuyển.
7. Theo quy định tại khoản 2 Điều758
BLDS thì cá nhân, tổ chức sản xuất tác phẩm điện ảnh, vi-đi-ô, phát thanh, truyền
hình, sân khấu và các loại hình biểu diễn nghệ thuật khác được hưởng các quyền
quy định tại khoản 1 và điểm c khoản 2 Điều 751 BLDS. Tuy nhiên, để được hưởng
các quyền này, cá nhân, tổ chức thuộc diện này phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối
với tác giả (kể cả tác giả tác phẩm gốc cũng như tác giả dịch, phóng tác, biên
soạn, cải biên, chuyển thể... hoặc tác giả là những người đạo diễn, biên kịch,
quay phim, dựng phim, nhạc sỹ, hoạ sỹ...) và đối với chủ sở hữu tác phẩm theo
quy định của pháp luật, trừ trường hợp họ đồng thời là vừa là tác giả, vừa là
chủ sở hữu tác phẩm. Như vậy, trong trường hợp cá nhân, tổ chức sản xuất tác phẩm
điện ảnh, vi-đi-ô, phát thanh, truyền hình, sân khấu và các loại hình biểu diễn
nghệ thuật khác có sử dụng tác phẩm của người khác mà không thực hiện đầy đủ
nghĩa vụ đối với tác giả và chủ sở hữu tác phẩm, thì người này có quyền yêu cầu
cá nhân, tổ chức sản xuất nói trên phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đó. Nếu có
đơn khởi kiện thì Toà án căn cứ vào quy định của BLDS và hướng dẫn lại Thông tư
này để giải quyết. Tương tự như vậy, Toà án có thể thụ lý và giải quyết tranh
chấp giữa tác giả, chủ sở hữu tác phẩm với người biểu diễn.
8. Các tranh chấp về hợp đồng sử
dụng tác phẩm có thể phát sinh giữa tác giả (đồng tác giả) hoặc người thừa kế hợp
pháp của tác giả, chủ sở hữu tác phẩm với bên sử dụng tác phẩm, nếu giữa họ đã
ký kết hợp đồng sử dụng tác phẩm theo quy định tại Điều 767 BLDS. Nội dung của
hợp đồng, quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng sử dụng được quy định tại
các điều từ Điều 768 đến Điều 722 BLDS và tại các điều từ Điều 15 đến Điều 18
NĐ.76/CP; do đó, khi có tranh chấp loại này, Toà án căn cứ vào các quy định đó
và thoả thuận của họ trong hợp đồng để giải quyết.
9. Khi giải quyết các tranh chấp
thừa kế quyền tác giả, ngoài việc phải tuân theo các quy định tại Điều 764 và
Điều 765 BLDS, Toà án cần chú ý là: người thừa kế chỉ được thừa kế các quyền của
tác giả trong thời hạn được bảo hộ. Theo quy định tại Điều 766 BLDS thì thời hạn
bảo hộ quyền tác giả sau khi tác giả chết như sau:
a. 50 tiếp theo năm tác giả chết;
b. 50 năm tiếp theo năm đồng tác
giả cuối cùng chết đối với tác phẩm đồng tác giả;
c. 50 năm tiếp theo năm tác giả
chết đối với trường hợp tác giả chết mà người thừa kế của tác giả được hưởng
các quyền nhân thân quy định tại các điểm c, d Khoản 1 và các quyền tài sản quy
định tại khoản 2 Điều 751, khoản 2 Điều 752 BLDS.
Trong trường hợp người thừa kế của
tác giả chết trước khi hết thời hạn bảo hộ nêu trên thì người thừa kế của người
đó được hưởng các quyền của tác giả quy định tại khoản1 Điều 764 BLDS cho đến hết
thời hạn bảo hộ; do đó, người này có quyền khởi kiện tại Toà án để yêu cầu bảo
vệ các quyền của tác giả và quyền thừa kế của mình cho đến hết thời hạn bảo hộ.
Thời điểm kết thúc thời hạn 50 năm bảo hộ quyền tác giả được quy định cụ thể tại
Điều 14 NĐ.76/CP.
Tác giả đồng thời là chủ sở hữu
tác phẩm hoặc tác giả không đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm có quyền nhận giải
thưởng đối với tác phẩm mà mình là tác giả. Quyền này cũng được bảo hộ 50 năm
tiếp theo năm tác giả chết; do đó, nếu sau khi kết thúc thời hạn bảo hộ 50 năm,
kể từ ngày tác giả chết hoặc đồng tác giả cuối cùng chết mà tác giả hoặc đồng
tác giả được nhận giải thưởng thì họ chỉ được hưởng các quyền nhân thân, còn
quyền về tài sản đối với giá trị vật chất kèm theo giải thưởng thuộc về nhà nước.
Trong trường hợp họ được nhận giải thưởng và thời hạn bảo hộ 50 năm chưa chấm dứt,
thì các thừa kế của họ được quyền thừa kế giá trị vật chất kèm theo giải thưởng
theo các quy định về thừa kế tài sản của BLDS. Thời hiệu khởi kiện thừa kế quy
định tại Điều 648 BLDS là 10 năm được tính từ ngày có giải thưởng.
10. Quyền của tổ chức sản xuất
băng âm thanh, đĩa âm thanh, băng hình, đĩa hình được quy định tại Điều 777
BLDS và quyền của tổ chức phát thanh, truyền hình được quy định tại Điều 779
BLDS chỉ có được khi các tổ chức này đã thực hiện đầy đủ mọi nghĩa vụ của mình
theo quy định tại các Điều 760, 776, và 778 BLDS. Các quyền này cũng là quyền của
các tổ chức đó đối với sản phẩm do họ sản xuất ra, còn tác giả, chủ sở hữu tác
phẩm vẫn có quyền đối với sản phẩm đó theo quy định của pháp luật hoặc theo hợp
đồng (được ký kết giữa tổ chức sản xuất đó với tác giả hoặc đồng tác giả, chủ sở
hữu tác phẩm). Khi có hành vi vi phạm các quyền của tổ chức sản xuất băng âm
thanh, đĩa âm thanh, băng hình, đĩa hình hoặc quyền của tổ chức phát thanh,
truyền hình như: nhân bản, phát hành sản phẩm, phát sóng chương trình, làm các
bản sao chương trình của các tổ chức này nhằm mục đích kinh doanh trái pháp luật...,
thì không chỉ các tổ chức nói trên có quyền khởi kiện, mà tác giả, chủ sở hữu
tác phẩm cũng có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của họ. Tương tự như vậy, người biểu diễn cũng có quyền khởi kiện đối với người
có hành vi vi phạm quyền của tổ chức sản xuất băng âm thanh, đĩa âm thanh, băng
hình, đĩa hình như: nhân bản, phát hành các sản phẩm đó trái pháp luật.
11. Trong trường hợp hành vi vi
phạm quyền tác giả bị xử lý theo quy định của Bộ luật Hình sự, thì khi xét xử
các vụ án hình sự loại này Toà án cần chú ý đến việc bảo vệ quyền của tác giả
đã bị các hành vi phạm tội đó xâm phạm, nếu có yêu cầu.
IV. VỀ SỰ PHỐI
HỢP TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LIÊN QUAN ĐẾN QUYỀN TÁC GIẢ
Trong quá trình giải quyết tranh
chấp, liên quan đến quyền tác giả, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Toà án, Viện
kiểm sát với Cục bản quyền tác giả (Bộ Văn hoá- Thông tin), Sở Văn hoá - Thông
tin để thực hiện các việc sau đây:
1. Khi có vấn đề về chuyên môn
trong lĩnh vực văn hoá - thông tin cần phải có ý kiến của chuyên ngành Văn hoá
- Thông tin mà Toà án đã có văn bản yêu cầu, thì Cục bản quyền tác giả, Sở Văn
hoá - Thông tin có trách nhiệm trả lời về các vấn đề mà Toà án đã yêu cầu hoặc
thành lập Hội đồng giám định để thực hiện yêu cầu của Toà án.
2. Khi tiến hành việc truy tố,
xét xử các vụ án hình sự mà thấy có hành vi xâm phạm quyền tác giả, Viện kiểm
sát, Toà án cần thông báo cho Cục Bản quyền tác giả, Sở Văn hoá - Thông tin để
các cơ quan này có thể tham gia tố tụng hoặc theo dõi kết quả bảo vệ quyền tác
giả trong phạm vi chức năng của mình.
V. HƯỚNG DẪN
VỀ HIỆU LỰC CỦA THÔNG TƯ
1. Thông tư này có hiệu lực kể từ
ngày 21 tháng 12 năm 2001.
2. Thông tư này cũng được áp dụng
để giải quyết các vụ án về tranh chấp liên quan đến quyền tác giả của cá nhân,
tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế đối với các tác phẩm văn học, nghệ thuật,
khoa học lần đầu tiên được công bố, phổ biến tại Việt Nam hoặc được sáng tạo,
thể hiện dưới hình thức nhất định tại Việt Nam theo quy định tại Điều 12 Nghị định
số 60/CP ngày 6/6/1997 của chính phủ "Hướng dẫn thi hành các quy định của
Bộ luật Dân sự về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài", trừ trường hợp tác
phẩm không được Nhà nước Việt Nam bảo hộ theo quy định tại Điều 749 BLDS.
3. Hướng dẫn tại Thông tư này được
áp dụng để giải quyết các vụ án về tranh chấp liên quan đến quyền tác giả phát
sinh từ ngày 01/7/1996. Các hướng dẫn trước đây có nội dung trái với Thông tư
này đều bãi bỏ.
4. Đối với các vụ án mà trước
đây Toà đã giải quyết xong (Bản án, Quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp
luật), thì không áp dụng hướng dẫn tại Thông tư này để kháng nghị theo trình tự
giám đốc thẩm, trừ trường hợp có những căn cứ khác.
5. Trong quá trình thực hiện nếu
có gì vướng mắc hoặc chưa chưa được hướng dẫn cần giải thích, hướng dẫn bổ
sung, thì đề nghị phản ánh cho Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao, Bộ Văn hoá - Thông tin để có sự giải thích hoặc hướng dẫn bổ sung kịp
thời.
Đặng
Quang Phương
(Đã
ký)
|
Khuất
Văn Nga
(Đã
ký)
|
Trần
Chiến Thắng
(Đã
ký)
|
Thông tư liên tịch 01/2001/TANDTC-VKSNDTC-BVHTT hướng dẫn áp dụng Bộ luật Dân sự trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến quyền tác giả tại Toà án nhân dân do Toà án nhân dân tối cao- Viện kiểm sát nhân tối cao - Bộ Văn hoá-Thông tin ban hành
THE
SUPREME PEOPLE’S COURT, THE SUPREME PEOPLE’S PROCURACY AND THE MINISTRY OF
CULTURE AND INFORMATION
-------
|
SOCIALIST
REPUBLIC OF VIET NAM
Independence - Freedom – Happiness
---------
|
No.
01/2001/TANDTC-VKSNDTC-BVHTT
|
Hanoi,
December 05, 2001
|
JOINT CIRCULAR ON GUIDANCE TO THE IMPLEMENTATION OF A NUMBER OF PROVISIONS
OF THE CIVIL CODE IN THE SETTLEMENT OF DISPUTES INVOLVING COPYRIGHT AT PEOPLE’S
COURTS For the pupose of the proper and
uniform application of the provisions of the Civil Code in the settlement of
disputes involving copyright at the People’s courts; the Supreme People’s
Court, the Supreme People’s Procuracy and the Ministry of Culture and
Information jointly provide the following guidance to a number of issues. I.
JURISDICTION OF PEOPLE’S COURTS OVER SETTLEMENT OF DISPUTES INVOLVING COPYRIGHT 1. Disputes involving
copyright whithin the jurisdiction of the People’s courts Pursuant to the provisions in
Article 759 of the Civil Code (hereinafter refered to as CC), Article 33 of the
Decree No 76/CP of 29th November 1996 of the Government on Guidance to the
Implementation of a Number of Provisions on Copyright in the Civil Code
(hereinafter refered to as Decree 76/CP) and Article 10 of the Ordinance on
Procedures for Settlement of Civil Cases (hereinafter refered to as OPSCC), the
People’s courts have the jurisdiction over the settlement of the following
copyright-related disputes: 1.1. Disputes involving
copyright in respect of works (disputes of who is the person that personally
creates the whole or a part of a literary, artistic or scientific work)
between: a. Individuals and other
individuals; individuals and organizations; organizations and other
organizations; ... ... ... Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN. Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66 1.2. Disputes involving
copyright in respect of computer software between persons responsible for
providing funds, determinant conditions for the creation, development of
computer software and persons who design and develop computer software. 1.3. Disputes involving personal
or property rights in copyright, between: a. Authors (co-authors) who
simultaneously are not owners of work and owners of work who simultaneously are
not authors (in relation to assigned duties or contracts of creation). b. Authors (co-authors), owners
of work and persons who translate, adapt, compile, modify or transform works;
authors (co-authors), owners of work and persons who use translated, adapted,
compiled, modified or transformed works, for creating new works. c. Authors (co-authors) of
published work, owners of published work and persons who collect such works to
make selections or anthologies. d. Authors (co-authors), owners
of work and cinematographic, radio broadcasting, television broadcasting,
theatrical or other performing organizations. (*)dd.
Authors (co-authors), owners of work and persons who use works in performances. e. Authors (co-authors), owners
of work and organizations producing audio tapes, audio discs, video tapes or
video discs. f. Authors who simultaneously
are owners of work, owners of work who simultaneously are not authors and
organizations, individuals using works for commercial purposes. ... ... ... Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN. Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66 h. Radio, television
broadcasting organizations and other organizations, individuals, in relation to
the broadcasting or making copies of programmes. i. Performers and individuals,
organizations. 1.4. Disputes involving
contracts for use of work or contracts for copyright services. 1.5. Disputes involving
copyright inheritance. 1.6. Other disputes involving
copyright. 2. Jurisdiction of People’s
courts over settlement of disputes involving copyright under first instance
procedures The Ordinance on Copyright
Protection ceased to be effective as from 1st July 1996 (the date on which the
CC entered into force). The CC does not provide for the jurisdiction of the
People’s courts of any levels over the settlement of disputes involving
copyright; therefore the determination of the jurisdiction of the People’s
courts of all levels over the settlement of disputes involving copyright under
first instance procedures is based on the OPSCC. Disputes involving copyright
are, however, cases of a nature of complexity. Therefore, in addition to
disputes involving copyright under the provisions in point a paragraph 2 Article
11 of the OPSCC, the People’s courts of provinces and cities subordinated to
the Central Government have the first instance jurisdiction over all other
disputes that involve copyright, as cases taken by themselves under the
provisions in point c paragraph 2 Article 11 of the OPSCC. II. RIGHT TO
INITIATE SUITS AND PROSECUTIONS RELATING TO DISPUTES INVOLVING COPYRIGHT 1. Right to initiate suits
relating to disputes involving copyright ... ... ... Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN. Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66 a. Authors; b. Owners of work; c. The lawful heirs of authors
or owners of work; d. Individuals or organizations that
are the transferees of the rights of owners of work; e. Individuals or organizations
that use works under contracts; f. Performers; g. Publishing houses and
organizations producing audio tapes, audio discs, video tapes or video discs; h. Radio, television
broadcasting organizations; i. Other individuals or
organizations, as provided by law. ... ... ... Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN. Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66 In respect of infringements of
copyright that belongs to the State, the People’s procuracies of provinces and
cities subordinated to the Central Government (hereinafter referred to as
provincial procuracy) have the right to initiate prosecutions. When discovering acts of
infringement upon copyright that belongs to the State, the Copyright Office
(Ministry of Culture and Information) and Departments of Culture and
Information of provinces and cities subordinated to the Central Government
shall make suggestions to the provincial procuracies to consider the initiation
of prosecutions in order to protect the interest of the State. 3. Conditions for initiating
suits and prosecutions relating to disputes involving copyright 3.1. Pursuant to the provisions
in Article 754 of the CC, copyright in a work arises at the moment the work is
created in a certain form (irrespective of whether the work is published or
not, whether the work is registered or not, in what language the work is
expressed, how valuable the work is...); therefore, when disputes involving
copyright arise and the interested parties initiate suits to request the courts
to protect their rights and lawful interest, the courts shall not make any
difference in the fact that the said parties have or have not been granted
Copyright Certificates, or that the said parties have or have not filed applications
for protection of copyright or ownership right over work. 3.2. The rights of authors, the
rights of owners of work who simultaneously are not authors, the rights of
organizations producing audio tapes, audio discs, video tapes or video discs, and
the rights of radio, television broadcasting organizations are protected for
the duration stipulated in Article 766 of the CC. After the expiration of the
said duration, the subjects of the above-mentioned rights are not protected by
the State and law, except for the personal rights of authors, provided for in
points a, b, and dd paragraph 2 Article 751 and paragraph 1 Article 752 of the
CC; therefore, the courts shall only accept petitions for initiating suits if
the rights in dispute are effective in regard of the duration of protection. 3.3. Pursuant to the provisions
of the OPSCC, persons who initiate suits at court have the obligation to submit
evidences to support the protection of lawful rights and interests. An evidence
may be: a Copyright Certificate issued by the Copyright office (Ministry of
Culture and Information); a document of the Copyright Office or a Department of
Culture and Information, which certifies that the person who initiates the suit
has filed an application for protection of copyright or ownership right over
work, if the work is unpublished; documents of socio-professional organizations
(operating in the fields of literature, art or science), which serve as the
basis for proving that the person who initiates the suit is the author,
co-author or owner of work and that the work falls under the genres of work
protected by the State, if the work is not registered. In case of necessity, for the
purpose of the proper trial of a suit, the court may collect additional
evidences, and, upon the request of an interested party, order expert
examinations by professional organizations. Persons who request the courts to
make the decision on the requisition of examinations shall file petitions,
clarify reasons, and deposit an amount of money to cover the expenses due to
the examinations. 3.4. Authors are entitled to
royalties, remunerations and other material benefits (if any) when their works
are used and to the prize awarded to their works (except where the works are
not protected by the State); therefore, only authors (co-authors), the lawful
heirs of authors and duly authorized persons have the right to request the
courts to protect the above-mentioned rights if infringed. Where an author
(co-author) died and the above-mentioned rights belong to the State under the
provisions in paragraph 1 Article 764 and Article 765 of the CC, the State is
the owner of such rights. In case the above-mentioned rights are infringed upon
and if the State, by written documents, empowers particular organizations or institutions
to act on its behalf to protect the interest of the State, the empowered
organizations or institutions have the right to initiate suits at court to
protect the interest of the State. If the State does not issue such documents,
the provincial procuracies have the right to initiate prosecutions, ex-officio
or upon the recommendation of the Copyright Office (Ministry of Culture and
Information) or Departments of Culture and Information or socio-professional
organizations (operating in the fields of literature, art or science), to
request the courts to protect the interest of the State. III.
APPLICATION OF LAW FOR SETTLEMENT OF A NUMBER OF PARTICULAR CASES ... ... ... Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN. Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66 1. Where requests relate to the
protection of personal rights, the related provisions in Articles of Chapter I
Part Six and Article 27 of the Civil Code are applicable to the settlement.
Subject to the specificity of cases, the decision may be an order to force the
violator to desist the act of violation, make public apology and rectification
(including rectification on mass media), and compensate material damages and
moral damages. Material and moral damages caused by the infringement of
personal rights are to be determined in accordance with the provisions on
extra-contract compensations in Articles 609, 610, 611 and 615 of the CC. 2. In respect of disputes,
arising between individuals, of the rights of authors or co-authors, it is
required that the true authors (or co-authors) of works be identified.
According to the provisions in paragraph 2 Article 24 of the Decree 76/CP,
persons who request the recognition of the fact that they (or their legatee)
are the authors of works are required to present materials and papers necessary
to prove they (or their legatee) are the authors (or co-authors). Materials and
papers necessary to prove the rights of authors may be the original of works,
documents relating to the original of works and documents relating to published
works. If there are sufficient evidences to determine who are the creators of
works (of a part or the whole of works), the rights of authors (rights of
co-authors) and the ownership rights in the whole or a part of works shall be
recognized for the benefit of the above-mentioned persons (or their legatee). 3. Authors who simultaneously
are owners of work have all the rights in their works, as provided for in
Article 751 of the CC, while authors who simultaneously are not owners of work
do not have all such rights, since some personal and property rights are vested
in the owners of work, under the provisions in Article 753 of the CC, such as
the right: to publish or disseminate works, to authorize other persons to
publish or disseminate works, to authorize or prohibit other persons to use
works, and to benefit from material interests obtained by the use of works in
the form of publication, re-publication, display, exhibition, performance,
radio broadcast, television broadcast, audio recording, video recording,
photograph, translation, adaptation, modification, transformation, or rental…. When handling cases to settle
disputes involving copyright (or rights of co-authors), the courts are required
to clearly identify the relations in disputes; where disputes relate to the
rights of owners of work, the courts shall involve the owners of work in the
proceedings, as persons having rights or interests, to protect their rights or
interests. The relationship between authors
(co-authors) who simultaneously are not owners of work and owners of work who
simultaneously are not authors arises where authors (co-authors) create works
as assigned duties or in the performance of contracts. The rights of authors
(co-authors) and the rights of owners of work are distinguished pursuant to the
provisions in Article 756 of the CC. Authors (co-authors) and owners of work
may, however, have agreements on a number of rights, as stipulated in points a
and b paragraph 1 Article 753 of the CC; therefore, in the settlement of
disputes arising from such circumstances the courts shall rely not only on the
provisions of the CC and Decree 76/CP but also on duties assigned to authors
(co-authors) and contractual agreements between authors (co-authors) and owners
of work. 4. The rights of co-authors are
provided for in Article 755 of the CC. In the settlement of disputes involving
copyright between co-authors themselves and if their reconciliation failed, the
courts shall rely on the provisions in paragraph 1 Article 755 of the CC. In
the case of works of co-authorship, as stipulated in paragraph 1 Article 755,
the use and disposal of the works are subject to the agreement of all the
co-authors, and, if a co-author died, the agreement of the heir of that
co-author. Where works of co-authorship consist of individual parts that are
separable for independent use, the courts shall determine the rights of each
co-author, if they so request, on the basis of the provisions in paragraph 2
Article 755 of the CC. 5. The rights of authors of
translations, adaptations, compilations, modifications or transformations are
also protected under the provisions in Article 751 or 752 of the CC; it is,
however, to be noted that such authors are required to obtain the permission of
the authors or owners of the original works (if the copyright is effective in
regard of the duration of protection), particularly when the content of the
original works is changed during the realization of translations, adaptations,
compilations, modifications or transformations. The permission of and payment
of remunerations to the authors or owners of translated, adapted, compiled,
modified or transformed works are made by means of contracts. Therefore, in the
settlement of disputes between the authors, owners of the original works and
the authors of the translated, adapted, compiled, modified or transformed works
the court shall apply the provisions in Article 757 of the CC and the
contractual agreements of the parties. 6. In the case of
cinematographic, video, radio, television or theatrical works or works of other
kinds of performing art, the rights provided for in Article 758 of the CC
belong to the directors, scenario writers, cameramen, stage managers,
composers, and painters. However, they are entitled only to the author’s rights
in works created by themselves, which are not based on the content of works of
other persons or based on the content of works of other persons with the
consent of the authors (co-authors) or owners of the original works (or the
authors of translated, adapted, compiled, modified or transformed works, if
they use the works of such authors), provided that they have properly performed
the obligations under Article 778 of the CC. In the settlement of disputes
between the authors (co-authors), owners of the original works (or the authors
of translated, adapted, compiled, modified or transformed works) and the
authors (co-authors) of cinematographic, video, radio, television, theatrical
works or works of other kinds of performing art, the courts shall apply the
provisions in Articles 758, 760, and 778 of the CC, if the reconciliation of
interested parties failed. In a similar manner, the courts may handle and
settle disputes between authors, owners of work and persons who collect
published works to make selections or anthologies. 7. Pursuant to the provisions in
paragraph 2 Article 758 of the CC, individuals or organizations that produce
cinematographic, video, radio, television, theatrical works or works of other
kinds of performing art are entitled to the rights provided for in paragraph 1
and point c paragraph 2 Article 751 of the CC. To be entitled to such rights,
however, such individuals or organizations are required to perform all the
obligations they have towards the authors (including the authors of the
original works; the authors of the translated, adapted, compiled, modified or
transformed works; the authors in capacity of directors, scenario writers,
cameramen, stage managers, composers, and painters...) and the owners of work,
as stipulated by law, except where the authors simultaneously is the owners of
work. Therefore, where individuals or organizations use the works of other
persons for producing cinematographic, video, radio, television, theatrical
works or works of other kinds of performing art, without performing all the
obligations they have towards the authors and owners of work, the authors and
owners of work have the right to request the said individuals or organizations
to perform such obligations. The courts shall rely on the provisions of the CC
and this Circular to settle cases when initiated. In a similar manner, the
courts may handle and settle disputes between authors, owners of work and
performers. ... ... ... Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN. Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66 9. In the settlement of disputes
involving inheritance of copyright, the courts are required to comply with the
provisions in Articles 764 and 765 of the CC and, at the same time, take into account
that the heirs are entitled only to the author’s rights that are effective in
regard of the duration of protection. Pursuant to the provisions in Article 766
of the CC, the duration of protection of copyright after the death of the
authors is as follows: a. 50 years after the death of
the author; b. 50 years after the death of
the last surviving co-author, in the case of a work of co-authorship; c. 50 years after the death of
the author, where the author died and the heir is entitled to the personal
rights provided for in points c and d paragraph 1 Article 751 and the property
rights provided for in paragraph 2 Article 751 and paragraph 2 Article 752 of
the CC. Where the heir of an author died
prior to the end of the above- mentioned duration of protection, the heir of
the deceased heir is entitled to the rights of the author, provided for in
paragraph 1 Article 764 of the CC, until the end of the duration of protection;
therefore, the last-mentioned person has the right to initiate a suit at court to
request the protection of the rights of the author and his or her right to
inheritance until the end of the duration of protection. The moment at which
the 50-year duration of copyright protection terminates is specified in Article
14 of the Decree 76/CP. Authors who simultaneously are
owners of work and authors who simultaneously are not owners of work are
entitled to receive the prize awarded to their work. This right is also
protected for a period of 50 years following the death of authors; therefore, if
after the termination of the 50-year duration of protection, counted from the
date the author or the last surviving co-author died, the said author or
co-author is awarded a prize, he or she is entitled only to the personal rights
while the property right that relates to the material value included in the
prize belongs to the State. Where the author or co-author is awarded a prize
before the end of the 50-year duration of protection, the heirs of such an
author or co-author are entitled, according to the provisions on inheritance of
the CC, to the material value included in the prize. The 10-year time limit for
initiating suits involving matters of inheritance, as provided for in Article
648 of the CC, is counted from the date the prize is awarded. 10. The rights of organizations
producing audio tapes, audio discs, video tapes or video discs, as provided for
in Article 777 of the CC, and the rights of radio or television broadcasting
organizations, as provided for in Article 779 of the CC, are subject to the
performance of all the obligations such organizations have under the provisions
in Articles 760, 776, and 778 of the CC. The said organizations have these same
rights in its productions while the authors and owners of work have their
rights in such productions pursuant to the provisions of law or under contracts
(concluded between the organizations and authors, co-authors, owners of work).
In the case of violations of the rights of organizations producing audio tapes,
audio discs, video tapes or video discs, or the rights of radio or television
broadcasting organizations, such as the duplication or distribution of their
products, the broadcast of their programmes or the making of copies of their
programmes for unlawful commercial purposes, not only such organizations but
also the authors and owners of work have the right to initiate suits to request
the courts to protect their rights and lawful interests. Similarly, performers
also have the right to initiate suits against persons who infringe upon the rights
of organizations producing audio tapes, audio discs, video tapes or video
discs, such as the unlawful duplication or distribution of the above-mentioned
products. 11. In case violations of
copyright are prosecuted under the provisions of the Criminal Code, in hearing
this kind of criminal cases the courts are required to take into account the
protection of the authors’ rights that are infringed upon by the crimes, if
there are such requests. IV.
CO-OPERATION IN SETTLEMENT OF DISPUTES INVOLVING COPYRIGHT ... ... ... Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN. Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66 1. Where professional questions
in the field of culture and information arise and the courts have requested in
written form the needed opinions of the specialized culture and information
branch, the Copyright Office or the Departments of Culture and Information
shall have the responsibility to give answers to such questions as requested by
the courts or to establish examination boards to carry out tasks the courts
requested to be done. 2. The procuracies and courts
shall notify the Copyright Office and the Departments of Culture and
Information of the acts of copyright infringement found in the course of
criminal prosecutions and trials, for enabling them to participate in the
proceedings or to follow up the outcome of copyright protection in accordance
with their functions. V. GUIDANCE
TO THE VALIDITY OF CIRCULAR 1. This Circular shall take
effect as from 21st December 2001. 2. This Circular shall also
apply to the settlement of disputes involving copyright that belongs to foreign
individuals or organizations, or international organizations, in respect of
literary, artistic or scientific works published or disseminated for the first
time in Vietnam or created and expressed in a certain material form in Vietnam,
as stipulated in Article 12 of the Decree No 60/CP of 6th June 1997 of the
Government “on guidance to the implementation of the provisions of the Civil
Code on civil relations involving foreign elements ”, except where the works
are not protected by the State under the provisions in Article 749 of the CC. 3. The guidance provided in this
Circular shall apply to the settlement of disputes involving copyright arising
on and after 1st July 1996. All previous guidances whose content is contrary to
this Circular shall be repealed. 4. In the case of suits where
the court proceedings ended with final settlement (the judgments or decisions
made by the courts took legal effect), the guidance provided in this Circular
shall not apply for the purpose of making protests under review-appellate orders,
except where other bases exist. 5. In the course of the
implementation, any encountered entanglements or unguided issues, which need
further interpretation and guidance, are to be notified to the Supreme People’s
Courts, the Supreme People’s Procuracy and the Ministry of Culture and
Information for timely issuance of interpretation and guidance. ... ... ... Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN. Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66 ON
BEHALF OF THE CHIEF OF THE SUPREME PEOPLE’S PROCURACY
Khuat Van Nga ON
BEHALF OF THE CHIEF OF THE SUPREME PEOPLE’S COURT
Dang Quang Phuong
Thông tư liên tịch 01/2001/TANDTC-VKSNDTC-BVHTT ngày 05/12/2001 hướng dẫn áp dụng Bộ luật Dân sự trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến quyền tác giả tại Toà án nhân dân do Toà án nhân dân tối cao- Viện kiểm sát nhân tối cao - Bộ Văn hoá-Thông tin ban hành
9.003
|
NỘI DUNG SỬA ĐỔI, HƯỚNG DẪN
Văn bản bị thay thế
Văn bản thay thế
Chú thích
Chú thích:
Rà chuột vào nội dụng văn bản để sử dụng.
<Nội dung> = Nội dung hai
văn bản đều có;
<Nội dung> =
Nội dung văn bản cũ có, văn bản mới không có;
<Nội dung> = Nội dung văn
bản cũ không có, văn bản mới có;
<Nội dung> = Nội dung được sửa đổi, bổ
sung.
Click trái để xem cụ thể từng nội dung cần so sánh
và cố định bảng so sánh.
Click phải để xem những nội dung sửa đổi, bổ sung.
Double click để xem tất cả nội dung không có thay
thế tương ứng.
Tắt so sánh [X] để
trở về trạng thái rà chuột ban đầu.
FILE ĐƯỢC ĐÍNH KÈM THEO VĂN BẢN
FILE ATTACHED TO DOCUMENT
|
|
|
Địa chỉ:
|
17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q.3, TP.HCM
|
Điện thoại:
|
(028) 3930 3279 (06 lines)
|
E-mail:
|
info@ThuVienPhapLuat.vn
|
Mã số thuế:
|
0315459414
|
|
|
TP. HCM, ngày 31/05/2021
Thưa Quý khách,
Đúng 14 tháng trước, ngày 31/3/2020, THƯ VIỆN PHÁP LUẬT đã bật Thông báo này, và nay 31/5/2021 xin bật lại.
Hơn 1 năm qua, dù nhiều khó khăn, chúng ta cũng đã đánh thắng Covid 19 trong 3 trận đầu. Trận 4 này, với chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, chắc chắn chúng ta lại thắng.
Là sản phẩm online, nên 250 nhân sự chúng tôi vừa làm việc tại trụ sở, vừa làm việc từ xa qua Internet ngay từ đầu tháng 5/2021.
Sứ mệnh của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT là:
sử dụng công nghệ cao để tổ chức lại hệ thống văn bản pháp luật,
và kết nối cộng đồng Dân Luật Việt Nam,
nhằm:
Giúp công chúng “…loại rủi ro pháp lý, nắm cơ hội làm giàu…”,
và cùng công chúng xây dựng, thụ hưởng một xã hội pháp quyền trong tương lai gần;
Chúng tôi cam kết dịch vụ sẽ được cung ứng bình thường trong mọi tình huống.
THÔNG BÁO
về Lưu trữ, Sử dụng Thông tin Khách hàng
Kính gửi: Quý Thành viên,
Nghị định 13/2023/NĐ-CP về Bảo vệ dữ liệu cá nhân (hiệu lực từ ngày 01/07/2023) yêu cầu xác nhận sự đồng ý của thành viên khi thu thập, lưu trữ, sử dụng thông tin mà quý khách đã cung cấp trong quá trình đăng ký, sử dụng sản phẩm, dịch vụ của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT.
Quý Thành viên xác nhận giúp THƯ VIỆN PHÁP LUẬT được tiếp tục lưu trữ, sử dụng những thông tin mà Quý Thành viên đã, đang và sẽ cung cấp khi tiếp tục sử dụng dịch vụ.
Thực hiện Nghị định 13/2023/NĐ-CP, chúng tôi cập nhật Quy chế và Thỏa thuận Bảo về Dữ liệu cá nhân bên dưới.
Trân trọng cảm ơn Quý Thành viên.
Tôi đã đọc và đồng ý Quy chế và Thỏa thuận Bảo vệ Dữ liệu cá nhân
Tiếp tục sử dụng
Cảm ơn đã dùng ThuVienPhapLuat.vn
- Bạn vừa bị Đăng xuất khỏi Tài khoản .
-
Hiện tại có đủ người dùng cùng lúc,
nên khi người thứ vào thì bạn bị Đăng xuất.
- Có phải do Tài khoản của bạn bị lộ mật khẩu
nên nhiều người khác vào dùng?
- Hỗ trợ: (028) 3930.3279 _ 0906.229966
- Xin lỗi Quý khách vì sự bất tiện này!
Tài khoản hiện đã đủ người
dùng cùng thời điểm.
Quý khách Đăng nhập vào thì sẽ
có 1 người khác bị Đăng xuất.
Tài khoản của Quý Khách đẵ đăng nhập quá nhiều lần trên nhiều thiết bị khác nhau, Quý Khách có thể vào đây để xem chi tiết lịch sử đăng nhập
Có thể tài khoản của bạn đã bị rò rỉ mật khẩu và mất bảo mật, xin vui lòng đổi mật khẩu tại đây để tiếp tục sử dụng
|
|