TÒA
ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
03-TATC
|
Hà
Nội, ngày 05 tháng 4 năm 1983
|
THÔNG TƯ
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 03-TATC NGÀY 5/4/1983 HƯỚNG DẪN
GIẢI QUYẾT MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG TAI NẠI Ô TÔ
Cho đến nay, các Toà án nhân dân
địa phương đã xét xử về bồi thường thiệt hại trong tai nạn ô tô theo dự thảo
Thông tư số 173-UBTH ngày 23/3/1972 của Toà án nhân dân tối cao. Qua thực tiễn
xét xử có thể thấy rằng, nói chung, phương hướng xét xử đã được Toà án nhân dân
Tối cao hưỡng dẫn là đúng đắn nhưng cũng có một số vấn đề cần được hướng dẫn
thêm.
Vì vậy, sau khi rút kinh nghiệm
và trao đổi thống nhất với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Giao thông vận
tải. Toà án nhân dân tối cao ra Thông tư này hướng dẫn giải quyết một số vấn đề
về bồi thường thiệt hại trong tai nạn ô tô như sau:
I. CƠ SỞ CỦA
VIỆC BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG TAI NẠN Ô TÔ
Nói chung, việc bồi thường thiệt
hại trong tai nạn ô tô cũng căn cứ vào 4 điều kiện của trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng là: Có thiệt hại xảy ra, có việc làm trái pháp luật,
cơ quan hệ nhân quả giữa việc làm trái pháp luật với thiệt hại, có lỗi của người
gây thiệt hại. Tuy nhiên hoạt động của ô tô là một nguồn nguy hiểm cao độ cho
nên phía ô tô có trách nhiệm bồi thường cho người thiệt hại, kể cả trường hợp
tai nạn xảy ra vì cấu tạo của máy móc, vật liệu (tai nạn rủi ro).
Tai nạn ô tô có thể có nhiều
nguyên nhân cho nên cần phải điều tra thật đầy đủ và tuỳ trường hợp, hướng xử
lý như sau:
Lỗi của phía ô tô:
Phía ô tô phải bồi thường trong
những trường hợp người chiếm hữu phương tiện hoặc người lái xe có lỗi như: Xe
chạy không an toàn mà không được sửa chữa, chở qua trọng tải, phóng nhanh, vượt
ẩu, lái xe trong lúc say rượu v.v...
2. Lỗi của nạn nhân:
- Nếu nạn nhân cố ý gây tai nạn
(thí dụ: cố ý lao vào xe ô tô đang chạy để tự tử) hoặc nạn nhân là người cố
tình xông bừa lên xe mặc dầu người lái xe không đồng ý, thì phía ô tô không phải
bồi thường.
- Nếu nạn nhân vô ý (thí dụ: người
đi đường chạy qua đường, khi ô tô đã đến gần hành khách tự ý nhảy xuống khi xe
đang chạy: nạn nhân là người bám xe mặc dầu người lái xe không đồng ý...) mà
phía ô tô không có lỗi thì phía ô tô không phải bồi thường. Nhưng nếu phía ô tô
cũng có lỗi, (thí dụ: người lái xe xử lý không hợp lý khi có người đi đường chạy
qua...) thì có trách nhiệm hỗn hợp của cả hai bên, do đó, phía ô tô vẫn phải bồi
thường phù hợp với mức độ lỗi của họ.
3. Lỗi của người thứ ba:
- Nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn
do lỗi của người thứ ba thì người thứ ba phải bồi thường (Thí dụ: cầu hỏng mà
không có biển báo làm cho ô tô đi qua bị tai nạn thì cơ quan quản lý cầu đường
phải bồi thường những thiệt hại do tai nạn gây ra...)
- Nếu lỗi của người thứ ba và lỗi
của phía ô tô đều là nguyên nhân gây ra tai nạn thì người thứ ba và phía ô tô
phải liên đới bồi thường (Thí dụ: người đi xe đạp không có phanh đâm vào một
người đi đường, làm cho người này bị ngã và bị ô tô chạy quá tốc độ cán bị
thương, thì người đi xe đạp và phía ô tô phải liên đới bồi thường cho người bị
thương).
- Nếu lỗi của người thứ ba chỉ
là điều kiện làm phát sinh tai nạn còn phía ô tô mới là nguyên nhân gây tai nạn
thì phía ô tô phải hoàn toàn chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại (Thí dụ: vì
phải tránh chỗ phơi thóc trên đường mà ô tô đâm vào người khác hoặc bị đổ, gây
thiệt hại cho người đi đường hoặc hành khách thì phía ô tô phải bồi thường).
4. Ô tô va chạm nhau:
- Nếu chỉ có một bên có lỗi thì
bên có lỗi phải bồi thường những thiệt hại mà tai nạn gây ra.
- Nếu hai bên đều có lỗi thì phải
liên đới bồi thường cho người đi đường, hành khách hàng hoá... nhưng Toà án có
thể quyết định mức độ bồi thường của mỗi bên phù hợp với mức độ lỗi của họ. Đối
với thiệt hại gây ra cho xe thì bên có lỗi nặng hơn phải bồi thường cho bên kia
với mức chênh lệch giữa thiệt hại của hai bên.
5. Tai nạn xảy ra vì rủi ro thì
phía ô tô bị rủi ro phải bồi thường những thiệt hại.
6. Nếu tai nạn xảy ra vì không
thể khắc phục được, không thể nhận thức và ngăn ngừa trước (sét, nước lũ, cây đổ,
đá lở...) thì phía ô tô không phải bồi thường. Trái lại, nếu có thể nhận thức
và ngăn ngừa trước được thì phía ô tô vẫn phải bồi thường.
II. NHỮNG THIỆT
HẠI PHẢI BỒI THƯỜNG VÀ MỨC ĐỘ BỒI THƯỜNG
1. Tai nạn ô tô có thể gây thiệt
hại cho người đi đường, người hoặc hàng hoá được chuyên chở, nhà cửa hoặc vườn
tược bên đường, cầu cống, phương tiện giao thông khác hoặc bản thân phương tiện
đã gây ra tai nạn.
2. Nếu tai nạn xảy ra thiệt hại
cho sức khoẻ của nạn nhân thì thiệt hại phải bồi thường là: Tiền thuốc men, tiền
bồi thường, tiền chi phí về chân tay giả, mắt giả, tiền tàu xe đưa nạn nhân đi
bệnh viện, tiền chi phí về tàu xe và thu nhập bị giảm sút của một thân nhân phải
đi lại chăm sóc nạn nhân khi đang điều trị; thu nhập của nạn nhân bị giảm sút
hay bị mất sau khi bị tai nạn v.v... Nếu nạn nhân bị chết thì còn phải bồi thường
cả tiền chôn cất và mức giảm sút về thu nhập của những người không có sức lao động
mà nạn nhân khi còn sống có nhiệm vụ nuôi dưỡng.
3. Người bị thiệt hại về hàng
hoá chỉ được bồi thường nếu hàng hoá đó thuộc diện được lưu thông, phân phối hợp
pháp... Do đó, người chủ hàng sẽ không được bồi thường nếu hàng hoá của họ thuộc
diện những hàng hoá mà họ không được phép tàng trữ, buôn bán (Thí dụ: tư nhân
buôn bán thuốc phiện lậu) hoặc hàng được cơ quan có thẩm quyền xác nhận là mua
vét với số lượng lớn để đầu cơ.
4. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại
nói chung là bồi thường toàn bộ thiệt hại. Nguyên tắc này cần được áp dụng đối
với những người phải bồi thường thiệt hại là cơ quan, xí nghiệp, hợp tác xã và
tổ chức xã hội. Tuy nhiên, nếu người phải bồi thường là tư nhân mà khả năng
kinh tế trước mắt và lâu dài của họ không thể bảo đảm được việc bồi thường toàn
bộ thì có thể xử bồi thường thấp hơn thiệt hại. Nếu người bị thiệt hại không
đòi bồi thường toàn bộ thì Toà án có thể xử chấp nhận mức bồi thường thấp hơn
thiệt hại.
III. NGƯỜI PHẢI
BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
1. Cơ sở của trách nhiệm bồi thường
trong tai nạn ô tô là: Hoạt động của ô tô là nguồn nguy hiểm cao độ, cho nên
người chiếm hữu phương tiện phải bồi thường những thiệt hại gây ra cho người
xung quanh. Do đó, không nên phân biệt trường hợp người chiếm hữu phương tiện
chỉ phải bồi thường trong trường hợp người lái xe đang làm nhiệm vụ được giao với
trường hợp người lái xe phải trực tiếp bồi thường cho những người bị thiệt hại
nếu họ không được giao nhiệm vụ mà đã sử dụng hoặc đã lợi dụng xe để làm việc
riêng hoặc chuyên chở người hoặc hàng hoá để kiếm lời. Mặt khác, thực tiễn xét
xử cho thấy rằng những người lái xe thường không có khả năng bồi thường khi thi
hành án, nhất là trong những trường hợp tai nạn đã gây ra những thiệt hại lớn về
người hoặc về của cải, cho nên quyền lợi của người bị thiệt hại không được đảm
bảo. Vì vậy việc xác định trách nhiệm bồi thường của người chiếm hữu phương tiện
bảo đảm được một yêu cầu rất quan trọng là quyền lợi của người bị thiệt hại và
có tác dụng làm cho người chiếm hữu phương tiện phải giáo dục và quản lý chặt
chẽ những người lái xe.
2. Nói chung, người chủ xe là
người chiếm hữu xe nhưng cũng từng trường hợp quyền chiếm hữu được chuyển cho
người khác. Đó là những trường hợp sau đây:
- Chủ xe cho thuê hoặc cho mượn
xe không kèm theo người lái - Xe bị trưng dụng theo mệnh lệnh của cơ quan có thẩm
quyền.
Trong những trường hợp nói trên,
người thuê xe, mượn xe hoặc cơ quan đã trưng dụng xe phải bồi thường thiệt hại
do xe gây tai nạn và nếu xe có bị hư hỏng thì cũng phải bồi thường cho chủ xe.
Nếu xe vận tải bị huy động phục
vụ những yêu cầu đột xuất của Nhà nước như: chống bão lụt, dịch bệnh, tập trung
vận tải những hàng hoá hoặc vận tải cho quốc phòng... thì chủ phương tiện vẫn
được coi là thực hiện kế hoạch Nhà nước, được Nhà nước cung cấp cho kinh phí,
nhiên liệu v.v... cho nên họ vẫn là người chiếm hữu phương tiện và phải bồi thường
thiệt hại nếu xe gây ra tai nạn.
3. Chủ xe đã bán xe nhưng chưa
sang tên, mà người mua xe sử dụng gây tai nạn thì người mua xe phải chịu trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do tai nạn gây ra.
4. Nếu xe mất trộm gây tai nạn
thì kẻ chiếm hữu phi pháp phải bồi thường thiệt hại, nhưng nếu chưa tìm ra kẻ
phạm tội thì người chiếm hữu xe vẫn phải bồi thường sau đó khi tìm ra kẻ phạm tội,
người chiếm hữu xe có quyền đòi y phải hoàn lại tiền bồi thường. Tuy nhiên, nếu
người chiếm hữu xe có lỗi trong việc để mất xe (Thí dụ: không khoá xe, không tắt
máy trước khi rời xe hoặc không có biện pháp bảo vệ cần thiết) thì họ và người
chiếm hữu phi pháp phải liên đới bồi thường cho những người đã bị thiệt hại do
tai nạn gây ra.
5. Trong những trường hợp hành
khách đã được bảo hiểm, ngoài tiền bảo hiểm do cơ quan bảo hiểm trả, người bị
thiệt hại vẫn có quyền yêu cầu Toà án xử người chiếm hữu xe phải bồi thường
theo trách nhiệm dân sự.
Trong trường hợp chủ xe đã được
bảo hiểm trách nhiệm dân sự, nếu số tiền Toà án xử chủ xe bồi thường bằng hoặc
dưới mức tiền Công ty bảo hiểm nhận bồi thường thì Công ty bảo hiểm trực tiếp
trả tiền bồi thường cho người bị thiệt hại. Nếu số tiền bồi thường vượt quá mức
Công ty bảo hiểm nhận bồi thường thì Công ty bảo hiểm chỉ bồi thường theo mức
đã ký kết với chủ xe, còn chủ xe phải bồi thường phần còn thiếu. Trong trường hợp
chủ xe đã được bảo hiểm trách nhiệm dân sự thì đại diện Công ty bảo hiểm tham
gia tố tụng với tư cách là người dự sự.
6. Nếu người lái xe có lỗi thì
sau khi đã bồi thường cho những người bị thiệt hại, người chiếm hữu xe có quyền
đòi người lái xe hoàn lại số tiền bồi thường theo trách nhiệm vật chất hoặc
trách nhiệm dân sự để thu hồi lại tiền bồi thường mà người chiếm hữu xe đã phải
trả và đó cũng là một biện pháp để đấu tranh chống những biện pháp tiêu cực
trong những người lái xe. Toà án cần ghi rõ trong bản án về quyền đó của những
người chiếm hữu xe. Viện kiểm sát nhân dân cũng có thể khởi tố để buộc người
lái xe phải hoàn lại tiền bồi thường cho cơ quan, xí nghiệp, đoàn thể xã hội...
là người chiếm hữu xe.
Nếu người lái xe móc ngoặc với
những người đầu cơ buôn lậu... mà chuyên chở trái phép, gây nên thiệt hại thì
người chiếm hữu xe có quyền đòi người lái xe và những người đầu cơ buôn lậu...
liên đới bồi thường lại cho mình số tiền mà người chiếm hữu xe đã phải bồi thường
cho những người bị thiệt hại.
Các Toà án nhân dân sẽ căn cứ
vào Thông tư này để xét xử về bồi thường thiệt hại trong tai nạn ô tô và cũng
có thể áp dụng đối với cả việc bồi thường thiệt hại do xe máy, xe lăn đường, cần
trục tự hành, xe ủi kéo gây ra.