BỘ
TÀI CHÍNH
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
10-TC/NLTL
|
Hà
Nội, ngày 21 tháng 07 năm 1973
|
THÔNG TƯ
HƯỚNG DẪN THI HÀNH NGHỊ QUYẾT SỐ 28-CP NGÀY 16-2-1973 CỦA HỘI
ĐỒNG CHÍNH PHỦ VỀ MỘT SỐ CHÍNH SÁCH CỤ THỂ ĐỐI VỚI VIỆC DI CHUYỂN CƠ SỞ KINH TẾ,
QUỐC PHÒNG VÀ DÂN CƯ ĐỂ GIẢI PHÓNG LÒNG SÔNG
Hội đồng Chính phủ đã quyết định
một số vấn đề về việc bảo đảm khai thông dòng chảy để thoát lũ và quy định tạm
thời một số chính sách cụ thể đối với việc di chuyển cơ sở kinh tế, văn hóa, quốc
phòng và dân cư để giải phóng lòng sông.
Ngày 29 tháng 05 năm 1973, Phủ
Thủ tướng cũng đưa ra thông tư số 129-TTg tiếp tục giải quyết một số vấn đề cụ
thể về công tác giải phóng lòng sông.
Thi hành các văn bản trên của Hội
đồng Chính phủ và Phủ Thủ tướng, Bộ Tài chính hướng dẫn cụ thể như sau:
I. NGUYÊN TẮC XÉT TRỢ GIÚP VÀ CẤP PHÁT
CÁC KHOẢN TIỀN CHI PHÍ CHO VIỆC DI CHUYỂN
1. Đối với hộ nhân dân (bao gồm cán bộ,
công nhân viên chức có nhà riêng):
a) Về mức tiền trợ cấp bình
quân:
Phương hướng chính sách trợ giúp
là trên cơ sở tự lực cánh sinh, nhân dân tương trợ lẫn nhau, Nhà nước chỉ giúp
đỡ một phần cho nhân dân di chuyển nhà cửa, mau chóng ổn định đời sống và sản
xuất…
Mức tiền trợ giúp bình quân được
quy định là 400 đồng cho một hộ di chuyển. Đây là mức bình quân để làm căn cứ lập
dự toán xin kinh phí của tỉnh, thành phố; còn khi cấp phát ở từng hợp tác xã hoặc
từng xã phải căn cứ vào tình hình thực tế của từng ngôi nhà và hoàn cảnh
của từng hộ mà xét, có hộ được trợ giúp dưới 400 đồng (thí dụ 150 đồng, 200 đồng,
250 đồng, 300 đồng), có hộ được trợ giúp cao hơn 400 đồng (thí dụ 450 đồng, 500
đồng, v.v…) nhưng tính lại bình quân trong toàn tỉnh, trong thành phố thì không
được vượt qua mức 400 đồng.
Ngoài ra mỗi hộ di chuyển còn được
trợ cấp 16 đồng để mua 40 kilôgam gạo theo giá cung cấp.
Cán bộ, công nhân, viên chức có
nhà riêng phải di chuyển cũng được xét trợ cấp như nhân dân.
b) Về nguồn kinh phí
Kinh phí trợ giúp do ngân sách
trung ương trợ cấp cho ngân sách tỉnh và thành phố, căn cứ vào số hộ thực tế phải
di chuyển nhân (X) với 416 đồng.
c) Dự toán năm 1973 phải
được Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố lập và gửi về Bộ Tài chính càng sớm càng
tốt.
2. Đối với các cơ sở vật chất
kỹ thuật của hợp tác xã.
a) Về mức trợ giúp cho hợp
tác xã có cơ sở vật chất kỹ thuật phải di chuyển thì căn cứ vào giá trị tài sản
cố định thực tế còn lại của cơ sở phải di chuyển để tính dự toán xin kinh phí
trợ giúp.
Phải kê khai và tổng hợp có bao
nhiêu hợp tác xã trong diện phải di chuyển năm 1973, mỗi hợp tác xã phải di
chuyển có những cơ sở vật chất kỹ thuật gì phải di chuyển (chuồng trại, nhà
kho,sân phơi, cơ sở chế biến…); giá trị sử dụng thực tế của tài sản cố định còn
lại của mỗi cơ sở nói trên là như thế nào. Tùy theo mức hư hao vật liệu khi
tháo dỡ và di chuyển đối với mỗi cơ sở cụ thể, Nhà nước chỉ xét trợ giúp một phần
về hư hao tài liệu, nhằm giúp hợp tác xã mua vật liệu để xây dựng, khôi phục lại
giá trị sử dụng còn lại của tài sản cố định gần như trước khi di chuyển. Còn
công tháo dỡ, vận chuyển và công xây dựng lại thì hợp tác xã phải tự lo liệu. Nếu
nhân dịp này hợp tác xã muốn mở rộng quy mô xây dựng, cải tạo hoặc làm tốt hơn
trước thì hợp tác xã cũng tự lo liệu lấy.
Việc ước tính giá trị còn lại về
tài sản cố định của từng cơ sở ở mỗi hợp tác xã khá phức tạp và khó khăn, đòi hỏi
sự chỉ đạo chặt chẽ của Ủy ban hành chính tỉnh và thành phố: kiểm kê, đánh giá
đúng đắn giá trị sử dụng còn lại về tài sản cố định của từng cơ sở phải di chuyển,
tính toán chặt chẽ phần chi phí về hư hao vật liệu v. v…
b) Về nguồn kinh phí do
ngân sách trung ương trợ cấp cho ngân sách tỉnh, thành phố. Trong khi chưa có đầy
đủ căn cứ cụ thể để lập và xét duyệt dự toán; căn cứ vào đề nghị của Ủy ban
hành chính tỉnh và thành phố, ngân sách trung ương sẽ tạm ứng cho mỗi địa
phương một số kinh phí nhất định. Trong quá trình thực hiện, căn cứ vào thực tế
cấp phát và quyết toán mỗi năm, Ủy ban hành chính tỉnh và thành phố sẽ điều chỉnh
lại và báo cáo về Bộ Tài chính: nếu thiếu sẽ được ngân sách trung ương cấp phát
thêm; nếu thừa sẽ nộp trả lại cho ngân sách trung ương.
c) Đối với những cơ sở kinh tế,
văn hóa trước đây hợp tác xã vay vốn của ngân hàng Nhà nước để xây dựng mà
chưa trả hết nợ, nay phải di chuyển sẽ do Ngân hàng Nhà nước trung ương hướng dẫn
cụ thể.
3. Đối với các cơ sở kinh tế,
văn hóa của xã phải di chuyển như trường học, nhà trẻ, bệnh xá.v.v…việc
di chuyển và dựng lại các cơ sở này chủ yếu phải dựa vào công sức của nhân dân
địa phương. Về vật liệu thì trước hết phải tận dụng vật liệu cũ còn lại, nếu
thiếu thì ngân sách xã chi thêm. Ở nơi nào ngân sách xã gặp khó khăn thì ngân
sách tỉnh, thành phố xét trợ cấp.
Riêng đối với nhà thờ, đình chùa
nằm trong phạm vi dòng chảy được quy định, nói chung chưa đặt vấn đề di chuyển.
Trong trường hợp thật cần thiết phải di chuyển thì Ủy ban hành chính tỉnh hoặc
thành phố bàn với Bộ Thủy lợi quyết định, nhưng phải có kế hoạch chỉ đạo thật
chặt chẽ, không được để xảy ra sự phàn nàn của nhân dân; trường hợp dân có yêu
cầu xây dựng lại ở những nơi khác thì căn cứ vào giá trị tài sản cố định còn lại
của nhà thờ hoặc đình chùa đó mà trợ giúp một phần chi phí hư hao vật liệu. Nguồn
kinh phí do ngân sách trung ương trợ giúp.
4. Đối với các cơ sở kinh tế,
văn hóa, y tế, giáo dục, nhà ở…thuộc cơ quan Nhà nước ở trung ương và địa
phương phải di chuyển.
a) Việc di chuyển và xây dựng lại
các cơ sở trung ương do các Bộ, Tổng cục và cơ quan ngang Bộ ở trung ương giải
quyết. Các cơ sở địa phương thì do các ngành ở địa phương lo và do ngân sách địa
phương đài thọ dưới sự chỉ đạo tập trung thống nhất của Ủy ban hành chính tỉnh
hoặc thành phố.
Đối với những di tích lịch sử có
giá trị bảo tồn, bảo tàng được xếp hạng thuộc Bộ Văn hóa quản lý hoặc do địa
phương phát hiện mà cần phải di chuyển thì Bộ Văn hóa sẽ bàn bạc với Ủy ban
hành chính địa phương để có kế hoạch di chuyển và xây dựng lại những phần có
giá trị cơ sở đó.
b) Ở trung ương cũng như ở địa
phương, ngành nào đã lập dự toán năm 1973 mà chưa ghi hoặc chưa ghi đầy đủ khoản
kinh phí này thì phải lập dự toán bổ sung.
Các ngành ở trung ương cũng như ở
địa phương đều phải chỉ đạo rất chặt chẽ công việc tháo dỡ thiết bị, máy móc, nhà
cửa…di chuyển, xây dựng lại với tinh thần hết sức tiết kiệm (tận dụng lại các vật
liệu của các cơ sở cũ) theo đúng phương án, kế hoạch được các cơ quan cấp trên
có thẩm quyền xét duyệt.
II. CHẾ ĐỘ LẬP, XÉT DUYỆT DỰ TOÁN, CẤP
PHÁT, QUẢN LÝ VÀ QUYẾT TOÁN
A. Lập và xét toán dự toán
1. Phần trợ giúp cho nhân dân
và hợp tác xã
Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố
có trách nhiệm hướng dẫn giúp đỡ các Ủy ban hành chính huyện lập dự toán gồm
các phần:
a) Trợ giúp cho nhân dân di chuyển
nhà cửa;
b) Trợ giúp cho hợp tác xã nông
nghiệp và xã có những cơ sở vật chất và kỹ thuật, nhà thờ, đình chùa phải di
chuyển.
c) Trợ giúp cho ngân sách xã (nếu
có) đối với các cơ sở giáo dục, y tế, văn hóa…phải di chuyển.
Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố
xét duyệt dự toán, tổng hợp phần a và phần b trên đây gửi về Bộ Tài chính xin
ngân sách trung ương trợ cấp. Phần trợ giúp cho ngân sách (phần c) do ngân sách
của Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố trợ cấp. Các Sở - Ty tài chính giúp Ủy
ban hành chính tỉnh, thành phố quy định và hướng dẫn.
2. Việc lập và xét duyệt dự
toán đối với các cơ sở kinh tế, văn hóa, giáo dục…của các ngành trung ương và địa
phương thuộc diện phải di chuyển thực hiện theo đúng chế độ hiện hành về quản
lý vốn xây dựng cơ bản.
B. Cấp phát tiền trợ giúp
Yêu cầu của công tác cấp phát tiền
trợ giúp là phải đề cao tinh thần trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước, việc
xét và cấp phát phải thật công bằng, hợp lý đối với từng hộ nhân dân, từng hợp
tác xã, từng xã; làm cho mọi người, mọi đơn vị đoàn kết, nhất trí để việc di
chuyển tiến hành được nhanh gọn. Tìên trợ giúp phải được cấp phát kịp thời, đến
tận tay nhân dân, hợp tác xã hoặc xã được trợ giúp.
Dưới sự chỉ đạo của Ủy ban
hành chính tỉnh, thành phố, các Sở, Ty tài chính giao trách nhiệm và hướng dẫn
nghiệp vụ cụ thể cho các phòng tài chính huyện phối hợp với các ngành có liên
quan ở huyện giúp Ủy ban hành chính huyện thẩm tra đầy đủ danh sách các đơn vị
(hợp tác xã) và từng hộ nhân dân đã được Ủy ban hành chính tỉnh hoặc thành phố
duyệt, tổ chức công bố trước nhân dân và hợp tác xã về mức được trợ giúp bằng
tiền và gạo.
Việc cấp phát cần được tiến hành
chu đáo, tại trụ sở Ủy ban hành chính xã do Phòng tài chính huyện chủ trì có
các ngành liên quan trọng huyện, đại diện Ủy ban hành chính xã và Ban quản trị
hợp tác xã tham gia.
C. Công tác quyết toán
Công tác quyết toán sẽ được tiến
hành như sau: các Sở, Ty tài chính giúp Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố xét
duyệt quyết toán của các Ủy ban hành chính huyện và tổng hợp báo cáo quyết toán
với ngân sách trung ương phần vốn trung ương trợ cấp cho tỉnh, thành phố.
Nội dung báo cáo quyết toán phải
nêu được những vấn đề cơ bản như tình hình thực hiện toàn bộ phương án giải
phóng lòng sông trong năm của địa phương (số hộ và các cơ sở vật chất kỹ thuật
của hợp tác xã đã di chuyển); đánh giá kết quả việc di chuyển so với phương án
đã đề ra, số kinh phí chi tiêu cho việc trợ giúp nhân dân và hợp tác xã di chuyển;
những nhận xét việc thực hiện và vận dụng các chính sách về trợ giúp của Nhà nước
đối với nhân dân và hợp tác xã; xác định kinh phí thừa hoặc thiếu giữa số thực
thi quyết toán so với kinh phí do ngân sách trung ương trợ cấp.
Quá trình giúp Ủy ban hành chính
địa phương xét duyệt toán chung, các Sở, Ty tài chính có thể yêu cầu Ủy ban
hành chính huyện cung cấp thêm tình hình và số liệu cần thiết, hoặc kiểm tra sổ
sách kế toán, chứng từ và các tài liệu khác có liên quan…đảm bảo xét duyệt quyết
toán và lập báo cáo quyết toán (với ngân sách trung ương) được chặt chẽ,
chính xác, đúng chế độ, chính sách.
Việc thi hành chính sách cụ thể
về trợ giúp tài chính đối với việc giải phóng lòng sông là một vấn đề lớn và phức
tạp. Bộ Tài chính đề nghị Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố chỉ đạo việc dự trù
kinh phí, quản lý kinh phí đúng chế độ. Trong quá trình tiến hành nếu thấy có vấn
đề gì cần sửa đổi hoặc bổ sung yêu cầu báo cáo kịp thời về Bộ Tài chính.
|
K.T. BỘ TRƯỞNG BỘ TÀI CHÍNH
THỨ TRƯỞNG
Hoàng Văn Diệm
|