|
Bản dịch này thuộc quyền sở hữu của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Mọi hành vi sao chép, đăng tải lại mà không có sự đồng ý của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT là vi phạm pháp luật về Sở hữu trí tuệ.
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT has the copyright on this translation. Copying or reposting it without the consent of
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT is a violation against the Law on Intellectual Property.
X
CÁC NỘI DUNG ĐƯỢC SỬA ĐỔI, HƯỚNG DẪN
Các nội dung của VB này được VB khác thay đổi, hướng dẫn sẽ được làm nổi bật bằng
các màu sắc:
: Sửa đổi, thay thế,
hủy bỏ
Click vào phần bôi vàng để xem chi tiết.
|
|
|
Đang tải văn bản...
Số hiệu:
|
668-TTg
|
|
Loại văn bản:
|
Quyết định
|
Nơi ban hành:
|
Thủ tướng Chính phủ
|
|
Người ký:
|
Võ Văn Kiệt
|
Ngày ban hành:
|
22/08/1997
|
|
Ngày hiệu lực:
|
Đã biết
|
Ngày công báo:
|
Đã biết
|
|
Số công báo:
|
Đã biết
|
|
Tình trạng:
|
Đã biết
|
THỦ
TƯỚNG CHÍNH PHỦ
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
668-TTg
|
Hà
Nội, ngày 22 tháng 8 năm 1997
|
QUYẾT ĐỊNH
VỀ PHƯƠNG HƯỚNG, BIỆN PHÁP GIẢM NHẸ THIÊN TAI VÀ NHỮNG
CHƯƠNG TRÌNH CHỦ YẾU PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI CÁC TỈNH VEN BIỂN MIỀN TRUNG
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ
ngày 30 tháng 9 năm 1992;
Xét đề nghị của các Bộ: Kế hoạch và Đầu tư, Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn, Thuỷ sản, Công nghiệp, Giao thông vận tải, Ban Chỉ đạo phòng chống lụt
bão Trung ương và các kiến nghị trong Hội nghị "Phòng chống lụt bão, phát
triển kinh tế - xã hội các tỉnh ven biển miền Trung" tổ chức tại thành phố
Huế từ ngày 20-22 tháng 6 năm 1997,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1.
Các tỉnh ven biển miền Trung từ Thanh Hoá đến Bình Thuận cần đánh giá đúng tiềm
năng, lợi thế so sánh và những khó khăn của mình, từ đó có giải pháp khắc phục,
phòng tránh và thích nghi với thiên tai, tận dụng thời cơ, tổ chức chỉ đạo thực
hiện để khai thác cho được tiềm năng, lợi thế tự nhiên và con người nhằm từng
bước ổn định và phát triển cùng với các vùng trong cả nước, đi lên công nghiệp
hoá, hiện đại hoá.
Lợi thế nổi bật của các tỉnh ven
biển miền Trung trong thời kỳ công nghiệp hoá là có địa hình và hệ sinh thái đa
dạng; điều kiện địa chất, thổ nhưỡng phù hợp cho việc phát triển nhiều ngành
công nghiệp; là điểm giao lưu giữa các vùng kinh tế trong nước; là đầu mối giao
thông với các nước trong khu vực; có hệ thống cảng biển, đường bộ, đường sắt,
sân bay đã và đang tiếp tục được xây dựng; có nguồn lao động đồi dào.
Bên cạnh những lợi thế đó, nhìn
chung các tỉnh ven biển miền Trung có điểm xuất phát thấp so với một số vùng
khác trong cả nước. Điều kiện thời tiết, khí hậu khắc nghiệt, lụt, bão, hạn
hán... xẩy ra thường xuyên, diễn biến phức tạp ảnh hưởng tới đời sống của nhân
dân, tới phát triển kinh tế - xã hội trong vùng.
Mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội của các tỉnh ven biển miền Trung từ nay đến năm 2000 là đạt cho được nhịp độ
tăng trưởng kinh tế (GDP) hàng năm từ 10-12%; chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế,
đẩy mạnh phát triển công nghiệp và dịch vụ, chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông
nghiệp, đa dạng hoá các sản phẩm, bảo đảm môi trường sinh thái bền vững, xử lý
tốt các vấn đề xã hội trên cơ sở phát huy tối đa nguồn lực tại chỗ, thu hút và
sử dụng có hiệu quả nguồn lực ngoài vùng và nước ngoài.
Điều 2.
Phương hướng phòng chống lụt bão, giảm nhẹ thiên tai là "Chủ động phòng
tránh, giảm nhẹ và thích nghi", bảo đảm an toàn cho đời sống của nhân dân,
bảo vệ tài sản của Nhà nước và của nhân dân; nhanh chóng khôi phục sản xuất, ổn
định đời sống, từng bước thích nghi với tiên tai để phát triển kinh tế.
Trên cơ sở tổng kết công tác
phòng chống lụt bão ở các tỉnh miền Trung, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn, Ban chỉ đạo phòng chống lụt bão Trung ương cần hướng dẫn và phối hợp chặt
chẽ với các tỉnh để:
- Có các qui định, hướng dẫn cụ
thể về các giải pháp trong những tình huống khác nhau nhằm ngăn chặn và hạn chế
đến mức thấp nhất thiệt hại do thiên tai gây ra.
- Tiếp tục hoàn thiện các công
trình kết cấu hạ tầng hiện có và xây dựng các công trình mới sao cho các công
trình này tạo thành hệ thống góp phần ngăn chặn, giảm nhẹ thiệt hại do thiên
tai, đồng thời không bị thiên tai lặp đi lặp lại tàn phá gây lãng phí.
- Bố trí cơ cấu cây trồng, chuyển
đổi mùa vụ sản xuất để né tránh, thích nghi với bão lũ, lụt lội.
Điều 3.
Một số chương trình phát triển kinh tế chủ yếu, giảm nhẹ và hạn chế dần do
thiên tai gây ra.
1. Chương trình trồng rừng và bảo
vệ rừng:
Rừng ở các tỉnh ven biển miền
Trung nhất là rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ ven biển có vai trò quyết định ngăn
chặn và hạn chế tác hại của lụt bão, giữ nước, chống sói mòn sa mạc hoá đất
đai, bảo vệ đê biển, giảm nhẹ thiên tai và cân bằng môi trường sinh thái ổn định
để phát triển.
Mục tiêu phấn đấu đến năm 2000
phải đạt cho được độ che phủ của rừng và các cây công nghiệp là trên 40% bằng
cách phát triển 650.000 ha rừng mới gồm: khoanh nuôi phục hồi 200.000 ha rừng
hiện có, trồng mới trên đất trống đồi núi trọc 450.000 ha rừng và các cây công
nghiệp lâu năm có độ che phủ tốt. Đến năm 2010 độ che phủ của rừng và cây công
nghiệp lâu năm đạt 60-65%, nhằm nâng cao năng lực phòng hộ, cân bằng môi trường
sinh thái, góp phần hạn chế thiên tai.
Uỷ ban nhân dân các tỉnh phải tổ
chức chỉ đạo thực hiện nghiêm túc và thường xuyên kiểm điểm việc thực hiện Chỉ
thị số 286/TTg ngày 02 tháng 5 năm 1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường
các biện pháp cấp bách để bảo vệ và phát triển rừng.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn có trách nhiệm cùng các Bộ ngành có liên quan, Uỷ ban nhân dân các tỉnh
sớm hoàn thành việc giao đất, giao rừng ổn định lâu dài cho tổ chức cá nhân và
hộ gia đình theo Nghị định số 02/CP ngày 05 tháng 01 năm 1994 của Chính phủ và
theo đúng tinh thần Chỉ thị 286/TTg ngày 02 tháng 5 năm 1997 của Thủ tướng
Chính phủ. Từng tỉnh phải nắm chắc quỹ đất các loại và tình hình sử dụng đất
trên địa bàn để có quy hoạch, kế hoạch sử dụng và điều chỉnh hợp lý. Nhất thiết
phải đảm bảo các hộ nông dân có đủ đất để trồng cây ngắn ngày đáp ứng nhu cầu
lương thực, có đất để trồng cây ăn quả, làm kinh tế vườn, chăn nuôi gia súc.
Đây chính là điều kiện tiên quyết, là giải pháp cơ bản để đồng bào định cư, định
canh, không phá rừng để trồng cây lương thực mà tham gia bảo vệ, khoanh nuôi
tái sinh và trồng mới rừng trên diện tích đất và rừng được giao.
2. Chương trình chuyển đổi cơ cấu
và chuyển đổi mùa vụ sản xuất nông nghiệp.
Việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất
nông nghiệp phải theo hướng sản xuất hàng hoá có giá trị phục vụ nhu cầu trong
nước và xuất khẩu, phát huy cho được tiềm năng, lợi thế về đất đai, hệ sinh
thái, tập quán, kinh nghiệm sản xuất của từng địa phương để phát triển kinh tế
- xã hội của vùng.
Cần tập trung giải quyết thuỷ lợi
để tăng quỹ đất canh tác, chọn các giống có năng suất, chất lương; bố trí mua vụ
hợp lý, phấn đấu đến năm 2000 đạt sản lượng lương thực 4,2 - 4,5 triệu tấn,
cùng các vùng sản xuất lúa trọng điểm trong cả nước bảo đảm an toàn lương thực
quốc gia, tăng kim ngạch xuất khẩu.
Bên cạnh cây lúa, cần có quy hoạch,
kế hoạch và chính sách giải pháp cụ thể huy động cho được mọi nguồn nhân lực để
phát triển cây công nghiệp có giá trị, phù hợp với điều kiện tự nhiên của vùng;
- Cần gắn nhà máy chế biến đường
với phát triển vùng nguyên liệu, nhân nhanh các giống mía mới có năng suất và
hàm lượng đường cao, đảm bảo đến năm 2000 toàn vùng định hình trồng khoảng
100.000 ha mía và có đủ các cơ sở chế biến đường góp phần đảm bảo nhu cầu tiêu
dùng trong nước và xuất khẩu.
- Có quy hoạch, kế hoạch phát
triển các cây cao su, cà phê, bông, tiêu, ca cao... ở những nơi có điều kiện;
cây nho, thanh long ở Bình Thuận, Ninh Thuận, gắn liền với việc xây dựng các cơ
sở chế biến và mở rộng thị trường tiêu thụ, nâng cao hiệu quả, đảm bảo cho nông
dân yên tâm sản xuất lâu dài.
- Khai thác triệt để tiềm năng
và thế mạnh của vùng để phát triển chăn nuôi đàn gia súc, đặc biệt là bò, cứu,
dê. Giải quyết tốt về giống và phòng, chống các dịch bệnh gia súc, đặc biệt là
bệnh lở mồm, long móng. Sớm có quy hoạch đất đồng cỏ cho hộ gia đình hoặc cho
nông dân thuê để chăn nuôi bò theo quy mô trang trại.
Các tỉnh ven biển miền Trung có
lợi thế, tiềm năng lớn về đất đai, nước biển, thời tiết và lao động để sản xuất
muối đáp ứng đủ nhu cầu dân sinh, nhu cầu công nghiệp, tiến tới xuất khẩu. Tổng
cục Địa chính cùng Uỷ ban nhân dân các tỉnh cần đánh giá và quy hoạch vùng có
điều kiện đất đai để chuyển sang sản xuất muối công nghiệp có hiệu quả nhất.
Riêng hai tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, trong năm 1997 phải hoàn thành các thủ tục
khảo sát, xây dựng và phê duyệt dự án khả thi các đồng muối Phương Cựu, Quán Thẻ;
mở rộng đồng muối Cà Ná để khởi công xây dựng trong năm 1998. Bộ Kế hoạch và Đầu
tư, Bộ Tài chính cân đối, bảo đảm vốn cho các dự án phát triển muối công nghiệp
này.
3. Xây dựng các công trình thuỷ
lợi và đê điều.
Việc xây dựng các công trình thuỷ
lợi và đề điều ở các tỉnh ven biển miền Trung có ý nghĩa hết sức quan trọng
trong việc phòng tránh thiên tai, ngăn mặn, chống hạn, cung cấp nước cho sinh
hoạt và nước cho sản xuất nông nghiệp, nhất là đối với các vùng khó khăn, nhưng
phải phù hợp với địa hình, khí tượng thuỷ văn của vùng và phải được tổ chức làm
từng bước theo quy hoạch chung.
- Về đê điều:
+ Các đê sông ở các tỉnh ven biển
miền Trung phải bảo đảm phòng lũ chính vụ, lũ lớn và cho thu hoạch an toàn lúa
đông xuất và hè thu ở các tỉnh phía Nam ven biển miền Trung.
+ Phải quy định cao trình cần
thiết cho các tuyến đê biển để ngăn triều cường, hạn chế nước mặn vào đồng, có
kế hoạch phát triển trồng cây chắn sóng ở những vùng đê biển xung yếu.
+ Các tuyến đê ven đầm phá phải
chống đỡ được mức triều cao nhất trong vụ hè thu và có biện pháp gia cố mặt
mái, không để lũ tàn phá khi đê bị ngập.
+ Phải có chương trình nghiên cứu,
để ra biện pháp và có kế hoạch cụ thể để xử lý những đoạn sông, vùng cửa sông,
vùng bờ biển đang có diễn biến phức tạp (bồi, xói, không ổn định) gây ảnh hưởng
đến đời sống và sản xuất của nhân dân.
- Về hồ chứa nước và kênh mương:
+ Tiếp tục xây dựng mới hồ chứa
kể cả các hồ chứa ở thượng nguồn, nâng cấp và hoàn thiện các hồ chứa hiện có để
giảm lũ và giữ nước chống hạn, phục vụ sản xuất và đời sống của nhân dân và cải
thiện môi trường sinh thái cho toàn vùng.
+ Từng bước kiên cố hoá hệ thống
kênh mương dẫn nước và các công trình đầu mối thuỷ lợi nhỏ, nhằm tiết kiện đất
đai, giảm tổn thất nước, phát huy hiệu quả những công trình đã được đầu tư.
+ Cần tổ chức nghiên cứu và có kế
hoạch thực hiện chương trình chỉnh trị dòng sông, cửa sông bảo vệ bờ sông, như
cửa Tư Hiền, Thuận An, (Thừa Thiên Huế), cửa Đại, cửa An Hoà (Quảng Nam), cửa
Đà Rằng, cửa Đà Nông (Phú Yên), cửa sông Cái (Ninh Thuận), cửa Phan Rí (Bình
Thuận); xử lý một số đoạn sông, cửa sông đang bị sạt lở; ngăn chặn lấn đất bãi
sông để làm nhà, xây dựng công trình làm ảnh hưởng đến việc thoát lũ các dòng
sông.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn chủ trì phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Uỷ ban nhân dân các tỉnh
xây dựng đề án cụ thể thực hiện các nội dung nêu trên, xác định các công trình
cấp bách đang xây dựng dở dang để tập trung đầu tư hoàn chỉnh ngay trong năm
1998. Trong quý IV năm 1997 phải xác định các công trình cần xây dựng mới trong
giai đoạn từ 1998-2000 và những công trình trọng điểm cần được khởi công xây dựng
sau năm 2000 trình Thủ tướng Chính phủ. Trên cơ sở danh mục các dự án được duyệt,
các Bộ chức năng và Uỷ ban nhân dân các tỉnh lập dự án cụ thể, huy động các nguồn
vốn đầu tư từ Trung ương, địa phương và huy động nguồn tại chỗ của dân để thực
hiện.
4. Chương trình phát triển thuỷ
sản
Khai thác hải sản là nghề truyền
thống, tiền năng và thế mạnh của các tỉnh ven biển miền Trung, Bộ Thuỷ sản phối
hợp chặt chẽ với Uỷ ban nhân dân các tỉnh tổ chức chỉ đạo thực hiện chương
trình này một cách bền vững để tăng sản lượng, kim ngạch xuất khẩu.
- Phấn đấu đến năm 2000 đạt sản
lượng thuỷ sản 450.000-500.000 tấn, giá trị kim ngạch xuất khẩu khoảng 250 triệu
USD.
- Đẩy mạnh việc khai thác hải sản
gắn với đầu tư chiều sâu tăng cường năng lực đánh bắt - nhất là đánh bắt xa bờ,
nâng cấp và xây dựng mới các cơ sở chế biến, xác định và tổ chức khai thác hiệu
quả các ngư trường mới.
- Cùng với khai thác hải sản, cần
tổ chức tốt việc nuôi trồng thuỷ sản (nước ngọt, nước lợ đặc biệt là ở các đầm
phá).
- Đẩy mạnh khâu chế biến để nâng
cao chất lượng, đa dạng hoá các mặt hàng thuỷ sản phục vụ tiêu dùng trong nước,
chú trọng các mặt hàng chế niến cao cấp cho xuất khẩu và phục vụ các trung tâm
đô thị lớn và các khu công nghiệp.
- Từng địa phương cần tổ chức
các đội tàu gồm các tàu có công suất lớn, có trang thiết bị phục vụ cứu nạn làm
nòng cốt cho các tàu thuyền có công suất vừa, nhỏ cùng ra khơi đánh bắt hải sản.
Có biện pháp đảm bảo tất cả các thuyền ra khơi đều có phao và các phương tiện
phòng hộ cần thiết. Trong mùa bão lụt phải làm tốt việc dự báo, cảnh báo bão,
áp thấp nhiệt đới, trang bị phao cứu sinh, phương tiện thông tin, bến bãi neo đậu
an toàn cho tầu thuyền và ngư dân và thực hiện nghiêm chỉnh Chỉ thị số 39/TTg
ngày 18 tháng 01 năm 1997 của Thủ tướng Chính phủ để bảo đản an toàn cho người
và phương tiện nghề cá hoạt động trên biển.
- Tổ chức lại đời sống nhân dân ở
các làng chài, trên các vùng đầm phá, vùng dân cư ven biển chuyên về đánh bắt hải
sản. Cần có kế hoạch, tạo điều kiện để tất cả các hộ ngư dân định cư trên bờ,
chấm dứt tình trạng "du cư" trên đầm, phá... và có kế hoạch đầu tư cải
tạo, xây dựng nâng cấp các cảng cá, dịch vụ nghề cá nhằm tạo điều kiện cho tầu
thuyền của ngư dân hoạt động đánh bắt và tiêu thụ sản phẩm.
5- Chương trình phát triển giao
thông
- Bộ Giao thông vận tải nghiên cứu
xây dựng quy định tổng thể, chiến lược phát triển giao thông vận tải các tỉnh
ven biển miền Trung theo từng giai đoạn từ nay đến năm 2000, 2005 và những năm
tiếp theo, trong đó xác định các công trình trọng điểm chủ yếu và có các bước
đi cụ thể, cơ chế, chính sách đầu tư, huy động vốn, trách nhiệm của Trung ương,
địa phương đối với từng công trình theo từng giai đoạn trình Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt. Trên cơ sở đó lập các dự án đầu tư để triển khai dứt điểm từng công
trình, tránh tình trạng đầu tư tràn lan, không đủ vốn, công trình dở dang kéo
dài, kém hiệu quả.
- Trước mặt, Bộ Giao thông vận tải
chủ trì phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các địa phương
đánh giá hết ảnh hưởng của lụt bão đối với tuyến đường bộ, đường sắt và ngược lại
ảnh hưởng của các tuyền giao thông đến việc thoát lũ, chống úng. Cần mở thêm
các tuyền đường tránh ở các đoạn thường xuyên bị ngập làm ùn tắc giao thông,
các giải pháp gia cố mặt đường, mái đường để chống lũ tàn phá khi tràn qua, bảo
đảm an toàn cho các tuyến đường Đông Tây, đặc biệt là đường dân sinh, đường lên
miền núi, các tuyến đường dễ bị sạt trượt trong mùa mưa bão.
- Việc cải tạo, nâng cao cấp quốc
lộ 1A, đường sắt Bắc Nam phải có sự phối hợp chặt chẽ với ngành thuỷ lợi để có
giải pháp tối ưu bảo đảm tiêu thoát lũ, tiêu úng nhanh, không bị phá hoại, sạt
lở trong mùa mưa bão, bảo đảm giao thông suốt trong mọi tình huống.
- Ngoài các trục đường Bắc -
Nam, phải có quy hoạch và từng bước xây dựng các trục đường xương cá Đông Tây,
cảng hàng không và đường nối liền với các tỉnh Tây Nguyên, bảo đảm giao thông
thông suốt trong cả mùa khô và mùa mưa giữa các huyện trong vùng, miền núi và
ven biển (kể cả đường cho xe hai bánh, đường dân sinh...) để thục đẩy sản xuất,
giao lưu hàng hoá.
Điều 4.
Phát triển nông nghiệp, đô thị và du lịch
Các tỉnh ven biển miền Trung có
tiềm năng to lớn và lợi thể về hệ thống các cảng biển, đất đại, địa hình cho
phát triển công nghiệp, đô thị và du lịch.
- Về công nghiệp: Ngoài các
ngành công nghiệp hoá dầu, cơ khí sửa chữa và đóng tàu, vật liệu xây dựng, khai
thác khoảng sản, phải chú ý phát triển, đầu tư chiều sâu cho các ngành công
nghiệp chế biến nông sản, hải sản, muối công nghiệp, nước khoảng, rượu nho và
nước giải khát sử dụng nguồn nguyên liệu tại chỗ; đồng thời nghiên cứu phát triển
các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động như dệt may, da giày, sản xuất
hàng tiêu dùng; nâng tỷ trọng công nghiệp trong GDP tạo tiền đề cho sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Việc quy hoạch và xây dựng các cụm,
khu công nghiệp, vùng kinh tế phát triển phải gắn liền với việc từng bước nâng
cấp hệ thống các cảng biển, đường dây chuyền tải điện, đường vào các cảng và
các khu công nghiệp, phù hợp với quy hoạch chung toàn cùng nhằm hỗ trợ và thục
đẩy lẫn nhau. Cần sớm có quy hoạch, kế hoạch xây dựng các khu, cụm công nghiệp
như Dung Quất (Quảng Ngãi), Liên Chiểu, Hoà Khánh (Đà Nẵng), Chu Lai, Tam Kỳ,
Tràng Nhật (Quảng Nam), Suối Dầu, Suối Hiệp, Hòn Rớ (Khánh Hoà), Tháp Chàm
(Ninh Thuận), Chân Mây (Thừa Thiên - Huế), Vũng áng (Hà Tĩnh), Nghi Sơn, Lam
Sơn (Thanh Hoá), Cửa Lò, Hoàng Mai, Nghĩa Đàn (Nghệ An)... nhằm thu hút vốn đầu
tư và công nghệ nước ngoài. Khuyến khích và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các
tổ chức và cá nhân trong nước tham gia đầu tư và phát triển các khu công nghiệp
đã được xác định, từ đó hình thành các trung tâm kinh tế và các đô thị mới của
địa phương, thúc đẩy các ngành công nghiệp, thủ công nghiệp truyền thống, dịch
vụ, thương mại phát triển.
Ngoài việc quy hoạch phát triển
cụm công nghiệp, khu công nghiệp cần khuyến khích phát triển các cơ sở công
nghiệp - nhất là công nghiệp chế biến nông sản, thuỷ sản với qui mô thích hợp ở
những địa điểm gần vùng nguyên liệu, có nhiều lao động và phát triển các ngành
nghề truyền thống.
- Về phát triển đô thị: Phải sớm
quy hoạch lại các đô thị hiện có, nhất là các thành phố, thị xã tỉnh lỵ của các
tỉnh; chú ý gìn giữ, tôn tạo những khu di tích và phố cổ; xây dựng các khu dân
cư tập trung gắn với các khu công nghiệp như những đô thị vệ tinh của các thành
phố, thị xã hiện nay. Từng bước hình thành một hệ thống hoàn chỉnh bao gồm các
thành phố, thị xã, thị trấn, thị tứ, các trung tâm xã, liên xã, các cụm dân
cư... rút ngắn khoảng cách giữa thành thị và nông thôn.
Việc xây dựng đô thị mới và mở rộng
đô thị hiện có phải bảo đảm đúng quy định, quy hoạch đã được phê duyệt. Nhất
thiết phải có diện tích cây xanh, khu vui chơi giải trí, không làm phá vỡ cảnh
quan và ô nhiễm môi trường. Ưu tiên sử dụng diện tích được giải toàn trong các
thành phố, thị xã để trồng cây xanh, làm các khu vui chơi công cộng.
- Về du lịch: Cần tập trung xây
dựng quy hoạch phát triển du lịch cho cả khu vực duyên hải miền Trung và cho từng
tỉnh. Gắn liền việc khai thác các di sản văn hoá dân tộc trong vùng phục vụ du
lịch với việc duy tu, tôn tạo các di sản này. Chú ý phát triển du lịch ven biển,
du lịch sinh thái, đặc biệt là du lịch đầm phá - một thế mạnh đặc thù của miền
Trung. Ngoài việc phát triển cơ sở hạ tầng cho ngành du lịch như khách sạn, bãi
tắm, khu vui chơi... cần chú ý phát triển hệ thống dịch vụ để kéo dài ngày ở của
khách du lịch và tăng thu từ du lịch cho các ngành sản xuất khác. Có quy định cụ
thể và tổ chức kiểm tra việc thực hiện các quy định về bảo vệ môi trường và giữ
gìn bản sắc văn hoá dân tộc.
Điều 5.
Phân bố lại lao động dân cư, định canh, định cư, xoá đói giản nghèo.
Xoá đói, giảm nghèo phải gắn liền
với định canh, định cư, phân bổ lại lao động, dân cư trong phạm vi của từng tỉnh
để khai thác tốt tiềm năng tự nhiên. Đây là vấn đề quan trọng, phải được coi là
một nhiệm vụ thường xuyên của các tỉnh ven biển miền Trung. Cần bố trí đủ đất
đai để ổn định cho được sản xuất, đời sống của đồng bào, nhất là đồng bào các
dân tộc ít người ở vùng cao, vùng căn cứ kháng chiến cũ.
Riêng hai tỉnh Ninh Thuận và
Bình Thuận đất rộng, dân cư còn ít, nếu được đầu tư làm các công trình thuỷ lợi
thì có thể mở rộng diện tích canh tác, tiếp nhận thêm lao động để khai thác tiềm
năng đất đai. Vì vậy, cần có kế hoạch làm thuỷ lợi, xây dựng hạ tầng cơ sở để một
mặt bố trí hợp lý dân cư trong tỉnh (kể cả số dân đã đến từ tỉnh khác), mặt
khác chuẩn bị điều kiện để có thể tiếp nhận thêm lao động từ các tỉnh khác đến
theo kế hoạch.
Từng tỉnh cần có thời gian cụ thể
xoá hết hộ đói. Cần nắm chắc và cập nhật tình hình, nguyên nhân dẫn tới thiếu
đói của từng hộ gia đình trong từng xã, từng huyện và phải có kế hoạch giải quyết
dứt điểm từng hộ, từng loại đối tượng theo một lịch trình thời gian cụ thể. Thường
xuyên kiểm điểm tình hình thực hiện và có biện pháp chấn chỉnh kịp thời. Đảm bảo
chậm nhất là tới năm 2000 không còn hộ đói.
Cần phân loại các hộ gia đình
nghèo, xác định nguyên nhân nghèo để có biện pháp hỗ trợ có hiệu quả. Đối với
những hộ nghèo do thiếu đất, thiếu phương tiện sản xuất và vốn, thì cần đảm bảo
đủ đất, cho vay đủ vốn bằng tín chấp để bà con có điều kiện ổn định được sản xuất
tự ra khỏi cái nghèo. Cần giải quyết tập trung, dứt điểm từng hộ, từng địa
phương, không dàn đều, bình quân. Chú trọng công tác khuyến nông, chuyển giao
tiến bộ khoa học công nghệ, áp dụng kỹ thuật canh tác mới. Tổ chức tốt việc phổ
biến kinh nghiệm sản xuất của những hộ làm ăn khá, giỏi để đông đảo đồng bào
tham khảo, vận dụng. Cử cán bộ giúp đỡ, hướng dẫn cụ thể những hộ gia đình
nghèo đói do thiếu kinh nghiệp sản xuất. Thực hiện tốt phương thức giáo dục cộng
đồng với những đối tượng nghèo, đói do lười biếng.
Đối với những hộ nghèo ở đô thị,
cần nắm chắc tình trạng, nguyên nhân nghèo của từng hộ để có biện pháp tạo công
ăn việc làm, hỗ trợ vốn và tạo các điều kiện phù hợp với từng đối tượng. Đối với
những hộ nghèo thuộc khu vực giải toả, tái định cư cần có chính sách ưu tiên
cho họ nhận đất, nhà ở có điều kiện thuận lợi, thích hợp với ngành nghề của từng
đối tượng.
Đối với hộ ngư dân nghèo, ngoài
việc giải quyết định cư trên bờ, có đất ở, đất vườn như đối với các hộ nông
dân, cần có chính sách tín dụng phù hợp để tạo điều kiện cho từng hồ ngư dân
nghèo tự vay hoặc tham gia cùng một số hộ ngư dân khác vay được vốn để đóng
tàu, thuyền, mua sắm ngư cụ đánh cá xa bờ và được giãn nợ nếu chưa có khả năng
trả do thiên tai gây ra "mất mùa" đánh bắt.
Tổng cục Địa chính chỉ đạo Uỷ
ban nhân dân các tỉnh thống kê, nắm lại toàn bộ quỹ đất của địa phương cụ thể đến
từng xã, huyện đặc biệt là diện tích đất có khả năng trồng cây lương thực, cây
ăn quả, cây công nghiệp có giá trị cao và thực trạng sử dụng đất để có kế hoạch
khai phá, sử dụng tiết kiện và hợp lý.
Điều 6.
Về y tế, giáo dục, văn hoá - xã hội.
- Về y tế: Cung cấp đủ muối i-ốt
cho dân, nhất là vùng cao, giảm tỷ lệ bướu cổ xuống dưới 10%, cơ bản thanh toán
bệnh bại liệt ở trẻ em, ngăn chặn, tiến tới thanh toán bệnh phong ở vùng Nam Trung
Bộ, xoá xã trắng về cơ sở dịch vụ y tế, chăm sóc sức khoẻ cho dân, giảm tỷ lệ
tăng dân số tự nhiên xuống dưới 2% vào năm 2000.
Đầu tư nâng cấp các bệnh viện đa
khoa tuyến tỉnh, huyện đủ sức khám, chữa bệnh cho dân, củng cố các trạm vệ sinh
phòng dịch ở tỉnh, khu vực và huyện, chú trọng kiện toàn mạng lưới y tế nông
thôn, đặc biệt là vùng cao, vùng sâu để chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho dân.
Đối với các cơ sở y tế của Trung
ương hiện có ở Đà Nẵng, Huế, Đồng Hới v.v... Bộ Y tế cần có kế hoạch đầu tư,
nâng cấp cả về quy mô và trang thiết bị tiên tiến, đủ năng lực giải quyết công
tác chữa bệnh ở tuyến khu vực, tiến tới hình thành các trung tâm y tế vùng, khu
vực vào năm 2000.
- Về giáo dục: Đẩy mạnh công tác
xoá mù chữ và phổ cấp giáo dục tiểu học và phát triển trung học cơ sở. Khuyến
khích xây dựng các trường lớp theo phương thức "Nhà nước và nhân dân cùng
làm" và xã hội hoá giáo dục. Đổi mới những nơi chưa có điều kiện xây dựng
kiên cố thì tận dụng nguyên liệu tại chỗ để xây dựng nhưng phải khang trang, gọn
dẹp, ấm về mùa đông, mát về mùa hè và nhất thiết các trường phải có sân chơi
cho học sinh, trồng cây xanh tạo đẹp môi trường học đường. Mở rộng mô hình các
trường dân tộc nội trú để đào tạo cán bộ từ con em đồng bào dân tộc đáp ứng nhu
cầu phục vụ trước mắt và lâu dài ở địa phương; đổi mới nội dung đào tạo gắn việc
học văn hoá với dạy nghề phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội miền núi.
Cần có kế hoạch khẩn trương xây
dựng các trường dạy nghề, đào tạo công nhân kỹ thuật đáp ứng nhu cầu nhân lực
cho vùng, nhất là cho các khu công nghiệp tập trung, các cụm và cơ sở công nghiệp.
Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp
với tỉnh Thừa Thiên - Huế, Thành phố Đà Nẵng chỉ đạo các Trường Đại học Huế, Đại
học Đà Nẵng đảm bảo vai trò là trung tâm đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật cho cả
vùng.
- Về văn hoá - xã hội, thể thao:
Tập trung bảo vệ, giữ gìn và từng bước tôn tạo các di tích lịch sử, cách mạng,
danh lam thắng cảnh như: Xô viết Nghệ Tĩnh, Lam Sơn, Thành cổ Quảng Trị, Cố đô
Huế, phố cổ Hội an, di tích Chàm v.v... và các di tích kháng chiến. Tăng cường
các trường văn hoá nghệ thuật tổng hợp, đào tạo kịp thời nguồn nhân lực cho các
loại hình văn hoá, nghệ thuật nhằm giữ gìn, bảo tồn các giá trị truyền thống,
phát triển văn hoá hiện đại kết hợp với bản sắc dân tộc.
Phấn đầu đến năm 2000; bảo đảm
80-95% vùng dân cư nghe được Đài Tiếng nói Việt Nam. Trung ương đầu tư máy phát
sóng trung AM và các trạm phát sóng FM tại một số điểm trung tâm. Tại Quảng
Ngãi, Phú Yên, Bình Thuận, Hải Vân, Vũng Chùa. Các tỉnh đầu tư hoàn thành các đài
phát sóng tại địa phương.
Tiếp tục triển khai chương trình
chuyển tiếp sóng truyền hình Quốc gia bảo đảm cho 80-90% vùng dân cư được xem
trên truyền hình Việt Nam.
Thông qua chương trình quốc gia
về thể thao, từng bước hình thành 3 Trung tâm thể thao lớn ở Nghệ An, Đà Nẵng,
Khánh Hoà để thúc đẩy phong trào thể thao toàn vùng. Các tỉnh sẽ đầu tư dần từng
bước để hình thành các Trung tâm thể thao của tỉnh, trước hết là 3 công trình
cơ bản là: sân vận động, nhà thi đấu thể thao tổng hợp, bể bơi.
Điều 7.
Tổ chức thực hiện.
- Các nội dung trong Quyết định
này là nhiệm vụ chủ yếu của các cấp chính quyền địa phương, phải được cụ thể
hoá thành các chương trình, kế hoạch hàng năm của từng ngành chuyên môn, từng cấp
chính quyền tỉnh, huyện, xã và được tập trung chỉ đạo, tổ chức thực hiện dưới sự
lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng.
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, các Bộ, ngành ở Trung ương căn cứ vào chức năng và quyền hạn của
mình phối hợp chặt chẽ với các tỉnh tổ chức chỉ đạo thực hiện các nội dung thuộc
phạm vị chỉ đạo của ngành, địa phương mình được nêu trong Quyết định này.
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng hợp
các chương trình, dự án của các Bộ, ngành và các tỉnh duyện hải miền Trung, cân
đối, bố trí kế hoạch đầu tư hàng năm, với các giải pháp, cơ chế, chính sách cụ
thể để thực hiện Quyết định này. Trên cơ sở các chương trình dự án được phê duyệt,
có kế hoạch cụ thể hàng năm, bắt đầu tư năm 1998.
Điều 8.
Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ
ban nhân dân các tỉnh ven biển miền Trung chịu trách nhiệm thi hành Quyết định
này.
Quyết định 668-TTg năm 1997 về phương hướng, biện pháp giảm nhẹ thiên tai và những chương trình chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội các tỉnh ven biển miền Trung do Thủ tướng Chính phủ ban hành
THE
PRIME MINISTER OF GOVERNMENT
-------
|
SOCIALIST
REPUBLIC OF VIET NAM
Independence - Freedom - Happiness
------------
|
No.
668/TTg
|
Hanoi,
August 22, 1997
|
DECISION
ON THE NATURAL DISASTER REDUCTION ORIENTATION AND MEASURES
AND THE PROGRAMS FOR KEY SOCIO-ECONOMIC DEVELOPMENT OF COASTAL CENTRAL
PROVINCES THE PRIME MINISTER Pursuant to the Law on Organization of the
Government of September 30, 1992;
At the proposals of the Ministry of Planning and Investment, the Ministry of
Agriculture and Rural Development, the Ministry of Aquatic Resources, the
Ministry of Industry, the Ministry of Communications and Transport, the Central
Steering Committee for Flood and Storm Prevention and Fight and the
recommendations made at the Conference on "Flood and Storm Prevention and
Fight and Socio-Economic Development of Coastal Central Provinces"
organized from 20-22 June, 1997 in Hue City, DECIDES: Article 1.- The coastal
central provinces from Thanh Hoa to Binh Thuan should precisely evaluate their
potential and comparative advantages, as well as their difficulties and thereby
devise measures to overcome, prevent and adapt themselves to natural disasters,
make use of opportunities, organize and direct the exploitation of their
potentials, natural advantages and human resources with a view to gradually
developing in a sustainable manner together with other regions in the country
towards industrialization and modernization. The striking advantages of the coastal central
provinces in the period of industrialization consist of their diversified
terrain and ecological systems; their geological and soil conditions which are
suitable for the development of various industries; their locations as places
of exchange between the various economic regions of the country; traffic
gateways to the regional countries; a system of seaports, roads, railways and
airports which have been and are being constructed; and an abundant workforce. Yet, generally speaking, the coastal central
provinces are at a lower starting point compared to some other regions of the
country. The weather and climatic conditions are harsh and floods, storms and
droughts occur frequently, complicating and affecting the people�s life and the socio-economic
development of the region. ... ... ... Please sign up or sign in to your Pro Membership to see English documents. Article 2.- The
orientation for flood and storm prevention and fighting and natural disaster
reduction is to "take initiative in preventing, reducing and adapting to
natural disasters"; to ensure safety for the people’s life, protect the
properties of the State and the people; to quickly restore production,
stabilize the people’s lives, and step by step adapt to natural disasters for
the sake of economic development. Basing themselves on the review of the flood and
storm prevention and control work in the central provinces, the Ministry of
Agriculture and Rural Development and the Central Steering Committee for Flood
and Storm Prevention and Fighting should provide guidance for and closely
coordinate with the concerned provinces to: - Issue specific regulations and guidance on the
measures to be taken under different circumstances to prevent and minimize the
damage caused by natural disasters. - Continue upgrading the existing infrastructure
works and build new ones in such a way that these projects form a system that
helps prevent and reduce damage caused by natural disasters, and at the same
time, that can stand up to frequent natural disasters, thus avoiding
wastefulness. - Arrange the structure of crops and change the
production seasons to circumvent and adapt to floods and storms. Article 3.- Key
socio-economic development programs, programs on gradual reduction and control
of natural disasters. 1. The afforestation and forest protection
program: The forests in the coastal central provinces,
especially headwater forests and coastal protective forests, play a decisive
role in preventing and limiting the adverse impacts of floods and storms,
keeping out water, combating land erosion and desertization, protecting sea
dikes, reducing natural disaster, and maintaining a balanced and stable
ecological environment conducive to development. To strive to have over 40% of the country�s total area covered by
forests and industrial plants by the year 2000 by planting 650,000 ha of new
forests, including: zoning off for the restoration of 200,000 ha of existing
forests, planting 450,000 new ha of forests on bare hills and perennial industrial
plants of good coverage. By the year 2010, the coverage of forests and
perennial industrial plants shall reach 60% to 65%, with a goal of increasing
the protective capability, balancing the ecological environment and
contributing to natural disaster control. ... ... ... Please sign up or sign in to your Pro Membership to see English documents. Together with the concerned ministries, branches
and provincial People’s Committees, the Ministry of Agriculture and Rural
Development shall have to promptly fulfill the stable and long-term assignment
of land and forests to organizations, households and individuals according to
Decree No. 02-CP of January 5, 1994 of the Government and in the spirit of
Directive No. 286-TTg of May 2, 1997 of the Prime Minister. Every province must
thoroughly evaluate the fund of land of various categories as well as the
situation of land use in each locality, so as to work out a land planning and
land use plans and make proper adjustments thereto. It is necessary to ensure
that peasant households are provided with sufficient land to grow short-term
crops to meet their food demand, with enough land for planting fruit trees,
gardening and raising domestic animals. This is a prerequisite and a
substantial solution for the people to settle and practice Sedentarization,
take part in protecting, zoning off and restoring forests and planting new forests
on the assigned forest and land areas instead of destroying forests for food
crop farming. 2. The program regarding changing the
agricultural production structure and agricultural production seasons . The change of the agricultural production structure
must be made along the direction of producing goods of high value in service of
domestic demand and export, bringing into full play the potential and
advantages in terms of land, the ecological system, production practices and
experiences of each locality for the socio-economic development of the whole
region. It is necessary to focus on irrigation so as to
increase the arable land fund, select high-quality and high-yield strains,
properly arrange crop seasons and strive to achieve by the year 2000 a yearly
food output of 4.2-4.5 million tons, and, together with the other key
rice-growing regions throughout the country to ensure national food security
and increase the export values. Apart from rice, there should be a planning,
concrete plans, policies and measures to mobilize all human resources for
developing industrial plants of high value that are suitable to the natural
conditions of the region it is necessary: - To build a sugar plant, together with the
development of material areas, rapidly multiply new varieties of sugar canes of
high yield and sugar content and ensure that the entire region shall have put
some 100,000 ha under sugar canes and have enough sugar processing
establishments by the year 2000, thereby contributing to accommodating the domestic
consumption and export demands. - To draw up a general planning and plans on the
development of rubber, coffee, cotton, pepper, cocoa, etc. in the suitable
areas; grapes and thanh long (dragon fruit) in Binh Thuan and Ninh Thuan, in
close coordination with the building of processing establishments and the
expansion of outlets, and the increasing of efficiency, thereby making farmers� feel capable of long-term
production activities. - To fully exploit the region�s potential and advantages so
as to develop livestock breeding, particularly cows, lambs and goats. To select
good breeds, prevent and combat animal disease, especially oral ulcers and
loose hooves. To promptly draft a plan concerning pasture land to be leased to
households or farmers for farm-scale cow raising. The coastal central provinces possess great
advantages and potentials in terms of their land, sea water, weather and labor
force for producing salt to meet individual daily needs, the industrial demand
and for export. The General Land Administration shall, together with the
provincial People�s
Committees, assess and mark off those areas that have suitable land conditions
to shift efficiently to the production of industrial salt. In particular,
during 1997, the provinces of Ninh Thuan and Binh Thuan must fulfill the
procedures for prospecting, compiling and approving the feasible projects
concerning the Phuong Cuu and Quan The salt fields and concerning the expansion
of the Ca Na salt field before their construction commences in 1998. The Ministry
of Planning and Investment and the Ministry of Finance shall ensure funding for
these industrial salt production projects. ... ... ... Please sign up or sign in to your Pro Membership to see English documents. The building of irrigation and dike projects in
the coastal central provinces is of great significance for preventing natural
disasters and salinity intrusion, combating droughts, supplying water for daily
life and agricultural production, especially in difficult areas, but such
projects must fit the local terrain and hydro-meteorology and the construction
thereof must be phased according to the general planning. - Regarding dikes: + The river dikes in the coastal central
provinces must prevent floods during the crop seasons, high floods and ensure a
safe harvesting of winter-spring and summer autumn rice crops in the southern
provinces of the central coast. + A necessary minimum height must be set for the
sea dike sections to block the high tides, keep salty water away from rice
fields; and there should be a plan for growing protective trees in the crucial
sea dike areas. + The dike sections along lagoons must be able
to stand the highest tide level during the winter-spring season and there
should be measures to strengthen their top surface so that they can not be
damaged when submerged. + There should be a research scheme, appropriate
measures and concrete plans to deal with those river sections, river mouth
areas and coastal areas being subject to complicated changes (alluvial
accumulation, erosion, instability), affecting the people�s life and production. - Regarding reservoirs and canals it is
necessary: + To continue building new reservoirs, even
upstream, and upgrading and perfecting existing ones in order to reduce floods
and store water against droughts in service of the people�s production and life and
improve the ecological environment for the whole region. + To gradually fortify the system of water
canals and key small irrigation works so as to reduce land waste and water loss
and raise the efficiency of the invested projects. ... ... ... Please sign up or sign in to your Pro Membership to see English documents. The Ministry of Agriculture and Rural
Development shall assume the primary responsibility and coordinate with the
Ministry of Planning and Investment and the provincial People�s Committees to draw up a
concrete plans for the performance of the aforesaid tasks and determine the
status of urgent unfinished projects so as to concentrate investment for their
completion in 1998. In the fourth quarter of 1997, new projects to be built in
the 1998-2000 period and key projects to be constructed after the year 2000
must be listed and submitted to the Prime Minister. On the basis of the
approved list of projects, the functional ministries and provincial People�s Committees shall draft
concrete plans, mobilize investment capital from various sources at the central
and local levels, as well as from the local people, for execution thereof. 4. The program on the development of aquatic
resources. Exploitation of marine resources is a
traditional occupation, a potential and an advantage of the central coastal
provinces. The Ministry of Aquatic Resources shall closely coordinate with the
provincial People�s
Committees in directing the sustainable implementation of this program so as to
increase the output and export values. - To strive to achieve by the year 20000 an output
of 450,000 to 500,000 tons of aquatic products and an export value of some 250
million USD. - To step up the exploitation of marine
resources in combination with in-depth investment in order to promote fishing
capacity, especially offshore fishing, upgrade existing processing
establishments and build new ones, determine and effectively exploit new
fishing grounds. - Together with the exploitation of marine
resources, it is necessary to well organize aquaculture operations (in fresh
water, brackish water, particularly in lagoons and swamps). - To step up the processing so as to
qualitatively improve and diversify the aquatic products in service of the
domestic consumption, with attention given to high-quality processed products
for export and large urban centers and industrial zones. - Each locality should organize various fleets
comprised of large capacity vessels with salvage equipment and facilities in
support of medium- and low-capacity vessels and boats which go fishing offshore
together. Measures must be taken to ensure that fishing vessels are equipped
with buoys and necessary safety facilities. During the flood and storm season,
the forecasting and warning of storms and tropical low pressures must be
performed well; life buoys, information equipment must be equipped; safe
anchoring yards must be prepared for vessels and fishermen and Directive No.
39-TTg of January 18, 1997 of the Prime Minister must be strictly observed to
ensure safety for fishing means and fishermen operating on the sea. - To reorganize the life of people in fishing
villages, lagoon areas and coastal residential areas, who live on fishing
marine resources. A plan should be made to create conditions for all fishing
households to settle on shore, putting an end to their "nomadic lifestyle"
on marshes, lagoons, etc., and a plan drafted concerning the investment in
renovating, constructing and upgrading fishing quays and services should be
made to create conditions for fishermen�s
vessels to fish and sell their products. ... ... ... Please sign up or sign in to your Pro Membership to see English documents. - The Ministry of Communications and Transport
shall study and elaborate a master planning and a strategy for the development
of communications and transport in the coastal central provinces at each period
of time from now till the year 2000, 2005 and afterwards, determining a list of
key projects and concrete steps, the investment and capital mobilization
mechanism and policy, the responsibilities of the Central Government and local
administration for each project at each period of time and submit it to the
Prime Minister for approval. On this basis, investment projects shall be drawn
up so that every project can be definitely completed, thus avoiding the state
of scattered investment, capital shortage, projects left unfinished for long. - For the immediate future, the Ministry of
Communications and Transport shall assume the primary responsibility and
coordinate with the Ministry of Agriculture and Rural Development and the
concerned localities to fully assess the impacts of storms and floods on the
system of roads and railways and, vice versa, the impacts of traffic routes on
the drainage of floods and the control of water logging. By-roads should be
built at the frequently flooded road sections where traffic jam often occurs,
there should be measures to consolidate the road surfaces and edges against any
damage to be caused by flash floods, ensure safety for the east-west routes,
especially those roads which are crucial to the people�s life, leading to mountainous regions, or are
easily washed away during the rainy and storm season. - The renovation and upgrading of Highway 1A and
the trans-Vietnam railway should be conducted in close coordination with the
irrigation service for the optimum solution to ensure that floods and water-logging
are quickly drained off, such roads shall not be damaged or washed away during
the rainy and storm season and that traffic is smooth under all circumstances. - Apart from the North-South road axis, there
should be a plan for gradual construction of east-west fishbone road axes,
airports and roads linking the Central Highland provinces and ensuring
uninterrupted communications in both dry and rainy seasons between districts in
the region, mountainous and coastal areas (including roads for two-wheelers and
roads in service of the people�s
daily life) so as to increase the goods production and circulation. Article 4.- Development
of industries, urban areas and tourism. The coastal central provinces have great
potentials and advantages in terms of their seaports, land and terrain for the
development of industries, urban areas and tourism. - Regarding industries: Apart from the
petro-chemicals, ship building and repair, construction materials and mining
industries, attention must be given to the development of and in-depth
investment in the processing of agricultural products, marine products,
industrial salt, mineral water, grape wine and soft drinks using on-the-spot
materials; while at the same time studying and developing such labor-intensive
industries as textiles and garment, leather footwear, and manufacture of
consumer goods; thereby increasing the industrial ratio in GDP and creating a
premise for industrialization and modernization. The planning and construction of industrial
clusters and zones and development economic zones must be closely linked to the
gradual upgrading of the system of seaports, power transmission lines, roads
leading to the seaports and industrial zones in conformity with the regional
overall planning to ensure that they can support and promote one another�s development. There should
soon be a planning or plans on the construction of industrial zones and
clusters such as Dung Quat (Quang Ngai), Lien Chieu and Hoa Khanh (Da Nang),
Chu Lai, Tam Ky and Trang Nhat (Quang Nam), Suoi Dau, Suoi Hiep and Hon Ro
(Khanh Hoa), Thap Cham (Ninh Thuan), Chan May (Thua Thien-Hue), Vung Ang (Ha
Tinh), Nghi Son and Lam Son (Thanh Hoa), Cua Lo, Hoang Mai and Nghia Dan (Nghe
An), etc. so as to attract foreign investment capital and technologies. Vietnamese
organizations and individuals shall be encouraged and given every favorable
condition to participate in the financing and development of already approved
industrial zones, on this basis, the local economic centers and new cities
shall be founded, thus promoting the development of various industries,
traditional handicrafts, services and trade. In addition to the planning on the development
of industrial clusters and zones, it is necessary to encourage the development
of industrial establishments, particularly those engaged in processing
agricultural and aquatic products, of appropriate sizes in the locations close
to the material areas with abundant labor force and the development of
traditional trades and crafts. ... ... ... Please sign up or sign in to your Pro Membership to see English documents. The construction of new cities and expansion of
existing ones must comply with the regulations and approved planning. Such
cities must have areas covered by trees and entertainment places which do not affect
the scenery and pollute the environment. Priority shall be given to planting
trees on the cleared areas in the provincial capitals and towns, transforming
them into public entertainment places. - Regarding tourism: To focus on elaborating
tourism development master plans for the whole coastal central region and for
each province. The exploitation of reginal national cultural heritage through
tourism must be closely associated with the preservation and maintenance of
these historical sights. To pay attention to developing coastal tourism and
ecological tourism, particularly lagoon tourism, a unique strength of the
central region. In addition to the development of the tourist infrastructure
such as hotels, beaches, entertainment centers, attention should be paid to the
development of a system of services that will lengthen the stay of tourists and
increase revenues from tourism for other production branches. There should be
concrete regulations on the environmental protection and the preservation of the
nation�s cultural
identity and the supervision of their observance should be organized. Article 5.-
Redistribution of labor, sedentarization, settlement and hunger eradication and
poverty reduction. Hunger eradication and poverty reduction must be
closely associated with sedentarization, settlement and redistribution of labor
and population within the territory of each province so as to well tap the
natural potentials. This is a crucial issue which should be considered as a
regular task of the coastal central provinces. It is necessary to allocate
sufficient land for stabilizing the production and life of the people,
especially the ethnic minority people residing in the high land and former
resistance base areas. In the provinces of Ninh Thuan and Binh Thuan,
which are large in land but thinly populated, if investment is made in the
construction of irrigation projects, the cultivated areas can be expanded, and
more labor can be employed to exploit the land potential. Therefore, there
should be plans for building irrigation infrastructure projects so as to, on
the one hand, rationally arrange the population (including those coming from
elsewhere) in each province and, on the other hand, prepare sufficient
conditions for accepting new laborers coming from other provinces as planned. Every province should have a specific timetable
for hunger elimination. It is necessary to thoroughly understand and update the
situation and causes of food shortage and hunger suffered by households in each
commune and each district so as to work out a plan regarding helping such poor
households and people overcome their poverty under a specific timetable.
Regular review of the implementation of this plan should be made and timely
adjustment measures should be taken, to ensure that there will be no households
suffering from hunger by 2000 at the latest. It is necessary to classify poor households and
find out the causes of their poverty so as to take effective assistance
measures. For the households which are poor due to lack of land, production
means and capital, it is necessary to provide them with sufficient land and
lend them sufficient capital under a pledge of trust so that they can have
conditions to stabilize their production and get out of their poverty by
themselves. Efforts and support should be concentrated on household after
household and locality after locality for definite settlement other than that
which can be evenly distributed to all. Importance should be attached to
agricultural promotion, the transfer of technological and scientific advances
and the application of new farming techniques. It is also necessary to
effectively disseminate examples of production activities and production
experiences of households which are successful or excellent in business and
production so that large numbers of people can learn. To appoint personnel to
assist and provide specific guidance for households which are indigent due to
lack of production experiences. To properly apply the mode of community-based
education to the people who are poor due to laziness. For poor urban households, it is necessary to
understand the situation and causes of the poverty suffered by each household
so as to work out measures to create jobs, give support in capital and create
conditions suitable to each household. For poor households residing in areas
about to be cleared, upon their resettlement, they should be given priority in
receiving land and houses suitable to their business lines. For poor fishing households, apart from helping
them to settle on shore and have residential and garden land like farming
households, there should be an appropriate credit policy to create conditions
for each to borrow on its own, or together with other fishing households,
capital for building vessels or boats, purchasing offshore fishing gear and
enjoy debt rescheduling if they are unable to pay such debts due to
"fishing crop" failure. ... ... ... Please sign up or sign in to your Pro Membership to see English documents. Article 6.- On health,
education, cultural and social affairs. - Regarding health: To provide sufficient
iodized salt to the people, especially highlanders; to reduce the rate of
goiter sufferers to below 10%, to effectively eliminate polio among children,
to prevent and eliminate leprosy in southern central Vietnam, to elaminate
"white" communes (communes without a medical service and health care
center), reduce the natural population growth rate to below 2% by the year 2000. To invest in upgrading provincial and district
polyclinic hospitals to make them capable of examining and treating diseases of
the people, to strengthen the epidemic prevention stations at the provincial,
regional and district levels, and to attach importance to consolidating the
rural medical network, especially in the highland and remote areas, so as to
provide primary health care for the people. For the existing central medical establishments
in Da Nang, Hue, Dong Hoi, etc., the Ministry of Health should have a plan to
invest in upgrading them in terms of sizes and advanced equipment and
facilities so that they are capable of undertaking the medical treatment at the
regional level, then proceed to the formation of regional medical centers by
2000. - Regarding education: To accelerate
anti-illiteracy work and the universalization of primary education and
expansion of basic secondary education. To encourage the building of schools
and classes according to the mode of "the State and the people join
efforts" and educational socialization. For those areas that lack
conditions to build solid schools and classes, local materials shall be made
full use of to build schools and classes, which, however, must be wide, tidy,
warm in the winter and cool in the summer and every school must have a playing
yard for its pupils, and green trees to ensure a good school environment. To expand the model of boarding schools for
ethnic minority pupils so as to train ethnic minority cadres to meet the local
immediate and long-term demand; to renew the training curriculum and link
literacy skills and academic study to vocational training in a manner suitable
to the mountainous socio-economic conditions. It is necessary to draft a plan to promptly
construct vocational training schools to train technicians so as to meet the
demand for labor force in the region, especially technicians for concentrated
industrial zones, industrial clusters and establishments. The Ministry of Education and Training shall
coordinate with the province of Thua Thien Hue and the City of Da Nang in
directing the Hue and Da Nang universities to play its role as a center for
training of technical and scientific personnel for the entire region. - Regarding cultural, social and sport affairs:
To concentrate on protecting, preserving and step by step renovating historical
and revolutionary sites and scenic places such as: those related to the Soviet
revolutionary movement in Nghe Tinh, Lam Son historical sites, the ancient
citadel of Quang Tri, Hue’s imperial capital, Hoi An ancient streets, the Cham
relics and revolutionary sites. To strengthen general cultural and art schools,
to train in time the human resource for various cultural and art forms in order
to preserve traditional values, to develop modern culture in combination with
the national identity. ... ... ... Please sign up or sign in to your Pro Membership to see English documents. To continue implementing the national television
relay program to ensure that 80% - 90% of the inhabited areas can watch Vietnam
Television program. Through the national program on sports, to
systematically begin three large sport centers in Nghe An, Da Nang and Khanh
Hoa so as to boost the sport movement in the whole region. Each province shall
gradually invest in forming its sport centers, first of all, three basic
projects, i.e. a stadium, a general sport competition house and a swimming
pool. Article 7.- Organization
of implementation. - The contents of this decision which are the
major tasks of the local administration of various levels must be concretize
into programs and annual plans of each specialized branch and each provincial,
district or commune administration and they shall be directed and implemented
under the leadership of the local Party’s Committees. - The Ministry of Agriculture and Rural
Development, the ministries and branches at the central level shall base
themselves on their functions and powers to closely coordinate with the
concerned provinces in direct the implementation of the contents defined in this
Decision within the scope of direction of their branches and localities. - The Ministry of Planning and Investment shall
review the programs and projects of the ministries, branches and coastal
central provinces, balance and arrange annual investment programs together with
specific solutions, mechanisms and policies for implementing this Decision. On
the basis of the approved programs and projects, it shall make concrete annual
plans, starting from 1998. Article 8.- The
ministers, the heads of the ministerial-level agencies and agencies attached to
the Government, the presidents of the People’s Committees of the coastal
central provinces shall have to implement this Decision. ... ... ... Please sign up or sign in to your Pro Membership to see English documents.
Quyết định 668-TTg ngày 22/08/1997 về phương hướng, biện pháp giảm nhẹ thiên tai và những chương trình chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội các tỉnh ven biển miền Trung do Thủ tướng Chính phủ ban hành
4.319
|
NỘI DUNG SỬA ĐỔI, HƯỚNG DẪN
Văn bản bị thay thế
Văn bản thay thế
Chú thích
Chú thích:
Rà chuột vào nội dụng văn bản để sử dụng.
<Nội dung> = Nội dung hai
văn bản đều có;
<Nội dung> =
Nội dung văn bản cũ có, văn bản mới không có;
<Nội dung> = Nội dung văn
bản cũ không có, văn bản mới có;
<Nội dung> = Nội dung được sửa đổi, bổ
sung.
Click trái để xem cụ thể từng nội dung cần so sánh
và cố định bảng so sánh.
Click phải để xem những nội dung sửa đổi, bổ sung.
Double click để xem tất cả nội dung không có thay
thế tương ứng.
Tắt so sánh [X] để
trở về trạng thái rà chuột ban đầu.
FILE ĐƯỢC ĐÍNH KÈM THEO VĂN BẢN
FILE ATTACHED TO DOCUMENT
|
|
|
Địa chỉ:
|
17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q.3, TP.HCM
|
Điện thoại:
|
(028) 3930 3279 (06 lines)
|
E-mail:
|
info@ThuVienPhapLuat.vn
|
Mã số thuế:
|
0315459414
|
|
|
TP. HCM, ngày 31/05/2021
Thưa Quý khách,
Đúng 14 tháng trước, ngày 31/3/2020, THƯ VIỆN PHÁP LUẬT đã bật Thông báo này, và nay 31/5/2021 xin bật lại.
Hơn 1 năm qua, dù nhiều khó khăn, chúng ta cũng đã đánh thắng Covid 19 trong 3 trận đầu. Trận 4 này, với chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, chắc chắn chúng ta lại thắng.
Là sản phẩm online, nên 250 nhân sự chúng tôi vừa làm việc tại trụ sở, vừa làm việc từ xa qua Internet ngay từ đầu tháng 5/2021.
Sứ mệnh của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT là:
sử dụng công nghệ cao để tổ chức lại hệ thống văn bản pháp luật,
và kết nối cộng đồng Dân Luật Việt Nam,
nhằm:
Giúp công chúng “…loại rủi ro pháp lý, nắm cơ hội làm giàu…”,
và cùng công chúng xây dựng, thụ hưởng một xã hội pháp quyền trong tương lai gần;
Chúng tôi cam kết dịch vụ sẽ được cung ứng bình thường trong mọi tình huống.
THÔNG BÁO
về Lưu trữ, Sử dụng Thông tin Khách hàng
Kính gửi: Quý Thành viên,
Nghị định 13/2023/NĐ-CP về Bảo vệ dữ liệu cá nhân (hiệu lực từ ngày 01/07/2023) yêu cầu xác nhận sự đồng ý của thành viên khi thu thập, lưu trữ, sử dụng thông tin mà quý khách đã cung cấp trong quá trình đăng ký, sử dụng sản phẩm, dịch vụ của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT.
Quý Thành viên xác nhận giúp THƯ VIỆN PHÁP LUẬT được tiếp tục lưu trữ, sử dụng những thông tin mà Quý Thành viên đã, đang và sẽ cung cấp khi tiếp tục sử dụng dịch vụ.
Thực hiện Nghị định 13/2023/NĐ-CP, chúng tôi cập nhật Quy chế và Thỏa thuận Bảo về Dữ liệu cá nhân bên dưới.
Trân trọng cảm ơn Quý Thành viên.
Tôi đã đọc và đồng ý Quy chế và Thỏa thuận Bảo vệ Dữ liệu cá nhân
Tiếp tục sử dụng
Cảm ơn đã dùng ThuVienPhapLuat.vn
- Bạn vừa bị Đăng xuất khỏi Tài khoản .
-
Hiện tại có đủ người dùng cùng lúc,
nên khi người thứ vào thì bạn bị Đăng xuất.
- Có phải do Tài khoản của bạn bị lộ mật khẩu
nên nhiều người khác vào dùng?
- Hỗ trợ: (028) 3930.3279 _ 0906.229966
- Xin lỗi Quý khách vì sự bất tiện này!
Tài khoản hiện đã đủ người
dùng cùng thời điểm.
Quý khách Đăng nhập vào thì sẽ
có 1 người khác bị Đăng xuất.
Tài khoản của Quý Khách đẵ đăng nhập quá nhiều lần trên nhiều thiết bị khác nhau, Quý Khách có thể vào đây để xem chi tiết lịch sử đăng nhập
Có thể tài khoản của bạn đã bị rò rỉ mật khẩu và mất bảo mật, xin vui lòng đổi mật khẩu tại đây để tiếp tục sử dụng
|
|