TỔNG
CỤC LÂM NGHIỆP
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
|
Số
: 54-LN/QĐ
|
Hà
Nội, ngày 20 tháng 01 năm 1967
|
QUYẾT ĐỊNH
BAN HÀNH QUY TRÌNH TẠM THỜI VỀ KHAI THÁC TRE, NỨA
TỔNG CỤC TRƯỞNG TỔNG CỤC LÂM NGHIỆP
Căn cứ Nghị định số 140-CP
ngày 29-9-1961 của Hội đồng Chính phủ quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ
máy của Tổng cục Lâm nghiệp.
Căn cứ Nghị định số 596-TTg ngày 03-10-1955 ban hành điều lệ tạm thời về khai
thác gỗ củi.
Căn cứ Nghị định số 124-CP ngày 24-8-1963 của Hội đồng Chính phủ quy định việc
nghiên cứu, xây dựng, xét duyệt, ban hành và quản lý các quy phạm, quy trình kỹ
thuật dùng trong sản xuất công nghiệp.
Theo đề nghị của các ông Cục trưởng Cục khai thác vận chuyển phân phối lâm sản,
Cục trưởng Cục bảo vệ lâm nghiệp và sau khi Hội đồng khoa học kỹ thuật Tổng cục
Lâm nghiệp đã thảo luận và có ý kiến.
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. – Nay ban hành
kèm theo quyết định này bản “quy trình tạm thời về khai thác tre, nứa” áp dụng
cho tất cả các khu rừng tre, nứa được phép khai thác.
Điều 2. – Các ông Chánh
văn phòng, Cục trưởng Cục khai thác vận chuyển phân phối lâm sản, Cục trưởng Cục
bảo vệ lâm nghiệp, Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Trưởng
ty lâm nghiệp, Giám đốc công ty công nghiệp rừng, Giám đốc lâm trường trực thuộc
Tổng cục Lâm nghiệp chịu trách nhiệm thi hành quyết định này./.
|
TỔNG
CỤC TRƯỞNG
TỔNG CỤC LÂM NGHIỆP
Nguyễn Tạo
|
QUY TRÌNH TẠM THỜI
VỀ KHAI THÁC TRE, NỨA
(Ban hành kèm theo Quyết định số 54-LN/QĐ ngày 20-1-1967 của Tổng cục Lâm
nghiệp)
Điều 1. – Quy trình này đựơc ban hành để đưa dần công
tác quản lý kỹ thuật khai thác tre, nứa và nền nếp, có tổ chức và kỷ luật, nhằm
bảo vệ rừng, thực hiện tái sản xuất mở rộng tài nguyên rừng, nâng cao năng suất
lao động, tiết kiệm nguyên vật liệu, bảo đảm an toàn lao động, bảo vệ công cụ
thiết bị.
Quy trình này
quy định cách làm, trình tự tiến hành, tiêu chuẩn kỹ thuật, chế độ trách nhiệm
trong từng khâu của công tác khai thác trong các khu rừng được phép khai thác.
Điều 2. – Quy trình này áp dụng cho các loại rừng tre và
rừng nứa kể cả rừng tự nhiên và rừng trồng. Đối với các rừng cây khác thuộc họ
tre, nứa, mọc thành bụi như luồng, dùng… hoặc mọc lẻ từng cây như vàu, trúc, …
thì các ông trưởng ty, giám đốc lâm trường có kế hoạch khai thác luồng, trúc…
phải nghiên cứu vận dụng hợp lý quy trình này.
Điều 3. - Tất cả các cơ quan, đơn vị, tổ chức khi được
phép khai thác tre, nứa trong từng mở cho khai thác đều phải tuân theo quy
trình này.
Chương 1
ĐIỀU KHOẢN CHUNG
Điều 4. - Ở những khu rừng được phép khai thác, việc khai
thác tre, nứa phải tùy theo điều kiện cụ thể của từng nơi mà tổ chức theo một
trong hai hình thức sau đây:
1. Hình thức
lâm trường, công trường: lâm trường, công trường thuộc ngành lâm nghiệp, công
trường của các cơ quan, đơn vị bộ đội, hợp tác xã chuyên kinh doanh về rừng.
2. Hình thức
xã viên hợp tác xã nông nghiệp khai thác tre, nứa: tổ chức thành các tổ
phân tán chuyên nghiệp hay thời vụ.
Điều 5. – Căn cứ vào tổ thành của rừng và tán rừng, tạm thời
phân chia rừng tre, nứa làm hai loại, rừng tre, nứa thuần loại và rừng tre, nứa
có mọc xen cây thân gỗ hoặc các lâm sản khác (rừng tre, nứa pha gỗ).
Điều 6. - Đối với tất cả các loại rừng tre, nứa, khi tiến
hành khai thác đều phải áp dụng phương thức khai thác chọn, trừ trường hợp đặc
biệt được phép chặt trắng khi rừng tre, nứa bị khuy cần chặt gấp để tận dụng
nguyên liệu, hoặc khi đã có quy hoạch và được phép sử dụng một diện tích đất rừng
tre, nứa vào một mục đích khác.
Điều 7. - Chỉ được khai thác chọn từng cây trongb ụi, trừ
trường hợp đặc biệt được phép chặt chọn cả từng bụi một, khi rừng tre, nứa có
những bụi bị khuy, bị chết đứng.
Khi chặt chọn,
được phép chặt hết cây quá già và cây già, chặt một phần cây vừa (nhiều nhất là
một nửa số cây vừa), phải chừa lại toàn bộ cây non và phải bảo vệ măng. Cậy chặt
phải phân bổ tương đối đều trên diện tích bụi. Những cây vừa chừa lại phải là
những cây tốt để đảm bảo sinh măng, nuôi măng và cây non. Những cây dập gẫy,
khô mục, sâu bệnh phải chặt hết.
Có thể cho
phép chặt tỉa một số cây non để giải quyết một số nhu cầu đặc biệt như làm lạt
phá, nhưng phải chú ý bảo vệ rừng.
Điều 8. - Đối với rừng tre, nứa pha gỗ không được diệt trừ
gỗ, chỉ được chặt chọn một số cây gỗ già, sâu bệnh.
Đối với rừng
tre, nứa khuy hàng loạt trênm diện tích lớn, nếu cây đang ra hoa hoặc hạt chưa
chín thì khi chặt phải chừa lại 10% trữ lượng của rừng, những bụi chừa lại phải
phân bố đều trên diện tích chặt, nếu hạt già và đã rụng thì chặt toàn bộ cây.
Đối với rừng
tre, nứa khuy từng bụi thì chặt hết những bụi bị khuy.
Điều 9. - Tất cả các loại rừng tre, nứa khi tiến hành khai
thác đều phải áp dụng luân kỳ khai thác cách năm, Chỉ những khu rừng nứa của
các lâm trường, công trường quy hoạch để chuyên sản xuất nứa làm giấy mới được
khai thác hàng năm.
Điều 10. - Sản lượng khai thác rừng tre, nứa phụ thuộc
vào trữ lượng của rừng, phương thức và phương pháp khai thác, luân kỳ khai
thác.
1. Khi khai
thác nứa giấy theo luân kỳ hàng năm, thì sản lượng được phép lấy ra là từ 1/4 đến
1/3 trữ lượng của rừng.
2. Khi khai
thác theo luân kỳ cách năm:
- Nếu là nhân
kỳ 2 năm, thì sản lượng được phép lấy ra là từ 1/3 đến 1/2 trữ lượng của rừng nứa,
và từ 1/5 đến 1/4 trữ lượng của rừng tre.
- Nếu là luân
kỳ 3 năm, thì sản lượng được phép lấy ra là từ 1/2 đến 2/3 trữ lượng của rừng nứa
và từ 1/4 đến 1/3 trữ lượng của rừng tre.
- Nếu là luân
kỳ 4 năm (chỉ áp dụng đối với khai thác tre), thì sản lượng được phép lấy ra là
từ 1/2 đến 2/3 trữ lượng của rừng tre.
Trường hợp rừng
có nhiều cây quá già, cần khai thác vượt quá mức sản lượng quy định trên đây,
thì phải được cơ quan lâm nghiệp cấp trên cho phép.
Điều 11. – Phân loại tre, nứa:
1. Theo tuổi
thành thực tự nhiên, tạm thời chia tre, nứa thành các loại non, vừa, già.
- Tre từ 1 đến
2 năm là non, từ trên 2 năm đến 4 năm là vừa, trên 4 năm là già.
- Nứa từ đuôi
én đến 1 năm là non, từ trên 1 năm đến 2 năm là vừa, từ trên 2 năm là già, trên
4 năm là quá già.
2. Theo cỡ đường
kính, phân hạng ra:
- Tre hạng A,
hạng B, hạng C.
- Nứa 5, nứa
7, nứa tép, nứa bổi, nứa ngộ (dại).
3. Theo loài
cây, chia ra:
- Tre gai,
tre gày, tre trinh…
- Nứa lá nhỏ,
nứa lá to (nứa ngộ, dại).
Việc phân loại
tre, nứa căn cứ vào quy cách, phẩm chất, kích thước cụ thể sẽ tiến hành theo
các quy định hiện hành của Tổng cục Lâm nghiệp.
Chương 2
ĐIỀU KHOẢN ÁP DỤNG CHO CÁC LÂM TRƯỜNG CÔNG TRƯỜNG
Mục 1.
Quy hoạch khai thác.
Điều 12. – Các khu rừng giao cho lâm trường, công trường
khai thác phải có quy hoạch chính thức và phải được khai thác theo đúng quy hoạch.
Nếu chưa có
quy hoạch chính thức thì bộ phận điều tra quy hoạch phải lập một quy hoạch tạm
thời trong đó ghi rõ:
1. Diện tích
khu rừng được khai thác.
2. Địa giới
khu rừng có đóng mốc rõ ràng.
3. Trữ lượng
tre, nứa.
4. Phương thức
và phương pháp khai thác, luân kỳ khai thác.
5. Phân khoảnh
và trình tự khai thác các khoảnh.
6. Sản lượng
khai thác hàng năm.
7. Những công
tác vệ sinh rừng phải tiến hành trong khai thác.
Điều 13. – Quy hoạch tạm thời của các lâm trường trực thuộc
Tổng cục Lâm nghiệp do Tổng cục Lâm nghiệp duyệt.
Quy hoạch tạm
thời của các lâm trường, công trường thuộc phạm vi ty lâm nghiệp quản lý do Ủy
ban hành chính tỉnh duyệt.
Điều 14. - Cấp có thẩm quyền duyệt quy hoạch tạm thời có thể
cho phép tiến hành khai thác trong một thời gian không quá 3 tháng trước khi
hoàn thành quy hoạch tạm thời.
Mục 2.
Giao nhận khoảnh khai thác.
Điều 15. - Trước ngày 31 tháng 5 mỗi năm, bộ phận khai
thác trong các lâm trường, công trường phải làm xong kế hoạch khai thác tre, nứa
của năm sau và đề nghị giao khoảnh khai thác. Bộ phận quản lý rừng phải chuẩn bị
rừng từ trước để giao các khoảnh khai thác của năm sau cho bộ phận khai thác,
chậm nhất là ngày 30 tháng 6 năm trước.
Điều 16. – Theo đúng quy hoạch và kế hoạch khai thác, bộ
phận quản lý rừng của các ty, các lâm trường theo chỉ thị của trưởng ty, giám đốc
lâm trường đứng ra giao các khoảnh khai thác tre, nứa hàng năm cho bộ phận khai
thác.
Nơi chưa có
quy hoạch, các ty, các lâm trường sẽ chỉ định khu vực khai thác tạm thời.
Điều 17. – Khi cắt khoảnh khai thác để giao, bộ phận quản
lý rừng phải thực hiện các việc sau đây:
1. Chuẩn bị
các khoảnh để giao kịp thời hạn đã định, mở đường ranh giới phân khoảnh, chôn cọc
mốc có ghi rõ số hiệu khoảnh, diện tích, năm giao nhận…
2. Tính toán
trữ lượng của từng lô trong đó phải phân ra được tre hoặc nứa non, vừa, già,
quá già, tỷ lệ măng mọc hàng năm (chia ra khỏe, yếu).
Quy định sản
lượng được khai thác của từng lô, phân chia ra theo cỡ đường kính, loại cây.
Quy định
phương thức và phương pháp khai thác, luân kỳ khai thác.
Quy định các
loại cây được chặt, loại cây phải chừa lại.
Điều 18. – Khi giao khoảnh khai thác, đại diện bộ phận quản
lý rừng và đại diện bộ phận khai thác phải đến tại rừng để xác nhận:
1. Đường phân
giới khoảnh, lô có đóng mốc bảng rõ ràng.
2. Diện tích
khoảnh, lô, trữ, sản lượng tre, nứa.
3. Phương thức
và phương pháp khai thác, loại cây được khai thác, những công việc vệ sinh rừng
phải làm trong khai thác.
Hai bên phải
lập biên bản giao nhận có kèm theo sơ đồ khoảnh.
Sau khi đã
giao nhận không ai được tự ý sửa đổi lại khoảnh nếu không được sự đồng ý của cấp
xét duyệt.
Nếu trong khi
giao nhận có những điểm không thống nhất, mỗi bên ghi ý kiến của mình vào biên
bản gửi về trưởng ty lâm nghiệp, giám đốc lâm trường để giải quyết hoặc cho tiến
hành điều tra để xác minh lại, hoặc cho ý kiến kết luận.
Trường hợp đã
điều tra xác minh lại mà hai bên vẫn có những ý kiến khác nhau, trưởng ty, giám
đốc lâm trường phải báo cáo, đề nghị cách giải quyết lên Tổng cục Lâm nghiệp.
Điều 19. – Khi giao khoảnh khai thác, cán bộ quản lý rừng
giao giấy phép khai thác và chuyển hồ sơ có liên quan đến khoảnh khai thác cho
bộ phận khai thác.Bắt đầu từ khi nhận khoảnh, bộ phận khai thác có thể tiến
hành các công tác chuẩn bị quy định dưới đây.
Mục 3.
Chuẩn bị khai thác.
Điều 20. – Khi đã tiếp nhận khoảnh khai thác, phải tiến
hành các công tác chuẩn bị sau đây trước khi bắt đầu chặt tre, nứa:
1. Định trình
tự chặt hạ, vận xuất từng giải hay lô. Diện tích một dải hay lô là 5 – 10 ha.
2. Làm các đường
vận xuất chủ yếu.
3. Làm bãi, bến.
4. Làm các
lán trại, chuồng trâu tạm thời.
5. Quy định
biện pháp kỹ thuật về chặt hạ, vận xuất.
Điều 21. - Việc chuẩn bị khai thác là trách nhiệm của:
1. Bộ phận
khai thác trong các lâm trường trực thuộc Tổng cục, dưới sự hướng dẫn của giám
đốc kỹ thuật.
2. Cán bộ phụ
trách lâm trường, công trường thuộc phạm vi ty lâm nghiệp quản lý, dưới sự hướng
dẫn của ty.
Mục 4.
Tiến hành khai thác.
Điều 22. - Kỳ hạn khai thác là một năm kể từ ngày 1 tháng
giêng đến ngày 31 tháng 12 của năm được khai thác.
Trong mùa
măng chính của tre, nứa, các lâm trường, công trường phải đình chỉ khai thác
trong vòng một tháng vào thời kỳ măng dễ bị đổ gây nhất. Tùy theo từng địa
phương, các ty, lâm trường báo cáo Tổng cục tháng cụ thể phải đình sản xuất
trong năm của đơn vị mình.
Khi tiến hành
khai thác:
1. Không được
chặt ra ngoài khoảnh đã giao nhận. Phải bố trí chặt gọn từng lô, chặt đúng
thành phần và số lượng các loại cây được phép chặt. Những cây gẫy ngọn, sâu bệnh,
cây khô còn dùng được cũng phải chặt mang ra.
2. Phải hết sức
bảo vệ cây non và măng, tránh làm dập gãy măng, không được chặt cây non.
Điều 23. – Tre, nứa khai thác trong khoảnh phải vận xuất
hết và ra khỏi rừng và tập trung tại các bãi, bến trong thời gian không quá 10
ngày sau khi chặt.
Mục 5.
Vệ sinh rừng tre, nứa trong khai thác.
Điều 24. – Khai thác đến đâu phải vệ sinh rừng đến đấy.
Bộ phận khai
thác có trách nhiệm thực hiện công tác vệ sinh rừng trong khai thác dưới sự hướng
dẫn của bộ phận quản lý rừng.
Công việc vệ
sinh rừng trong khai thác gồm luỗng rừng trước khi khai thác, thu dọn ngọn và
nhánh sau khi khai thác.
Điều 25. - Luỗng rừng trước khai thác chỉ áp dụng cho những
rừng tre, nứa pha gỗ có nhiều dây leo, cây bụi xâm lấn. Trước khi khai thác ít
nhất là một tháng phải phát dây leo và cây bụi mọc chung quanh bụi tre, nứa, cắt
thành từng đoạn từ 1 đến 2 mét, rải đều thành dải hay đống nhỏ trên mặt đất ở
những chỗ trống giữa các bụi và cách xa bụi ít nhất là 1 mét. Những cây bụi mọc
xa bụi tre, nứa không ảnh hưởng đến việc sinh măng và an toàn lao động khi chặt
cây thì không phải phát.
Luỗng rừng
trước khai thác chỉ cần làm một lần vào kỳ khai thác đầu tiên, những lần khai
thác của các luân kỳ sau không phải luỗng rừng.
Điều 26. – Sau khi khai thác phải:
1. Thu dọn
các nhánh, đoạn ngọn và gốc không dùng được, cắt thành từng đoạn ngắn từ 1 đến
2 mét, xếp thành từng đống nhỏ hay từng dài trên các quãng đất trống giữa các bụi
và cách xa bụi ít nhất là 1 mét.
2. Chặt cây
khô mục, cắt thành từng đoạn ngắn rải trên mặt đất như đối với nhánh ngọn.
Điều 27. - Đối với rừng tre, nứa khuy, sau khi khai thác
xong nếu hạt chưa mọc thì phải tiến hành phát quang đủ mức đảm bảo cho cây con
mọc.
Điều 28. – Trong khai thác, phải hết sức phòng và chống
cháy rừng, nhất là khai thác và dọn rừng vào mùa khô hanh.
Điều 29. – Sau khi đã vệ sinh rừng, phải đóng cửa rừng
cho đến luân kỳ sau mới được khai thác lại. Trong thời gian đóng cửa rừng, cấm
không ai được vào chặt phá, chăn trâu bò, lấy măng…
Mục 6.
Kiểm tra và thu hồi khoảnh khai thác.
Điều 30 - Bộ phận quản lý rừng có nhiệm vụ hướng dẫn, kiểm
tra công việc bảo vệ rừng, khai thác, vệ sinh rừng của bộ phận khai thác trong
quá trình khai thác.
Nếu thấy bộ
phận khai thác có những việc làm vi phạm quy trình, bộ phận quản lý rừng cần nhận
xét kịp thời, yêu cầu bộ phận khai thác sửa chữa. Nếu đã được báo rồi mà bộ phận
quản lý rừng sẽ báo cáo lên cấp trên và đề nghị cách xử lý thích đáng.
Điều 31. – Trong vòng một tháng sau khi chặt hạ, vận xuất
xong trên một khoảnh, bộ phận khai thác phải tiến hành kiểm tra lại toàn bộ diện
tích và bổ khuyết những thiếu sót nếu có, sau đó báo cho bộ phận quản lý rừng
biết và hai bên cùng nhau định ngày kiểm tra.
Sau khi kiểm
tra, hai bên phải lập biên bản ghi rõ kết quả kiểm tra gồm các điểm sau đây:
1. Tình hình
chặt hạ, vận xuất, vệ sinh rừng, cụ thể như các loại và số lượng tre, nứa đã
khai thác, vận chuyển đi, diện tích rừng đã làm vệ sinh trong khai thác, số cây
số (km) đường vận xuất, diện tích bãi, bến đã mở…
2. Tình hình
vi phạm quy trình (nếu có), các việc đã sửa chữa.
3. Ý kiến và
lý do của đại diện bộ phận khai thác.
Cán bộ phụ
trách mỗi bên phải ký vào biên bản kiểm tra kèm theo giấy phép khai thác rừng.
Sau đó bộ phận
quản lý rừng thu hồi khoảnh khai thác.
Chương III
ĐIỀU KHOẢN ÁP DỤNG CHO CÁC TỔ KHAI THÁC PHÂN TÁN CỦA
CÁC HỢP TÁC XÃ
Mục 1.
Quy hoạch sơ bộ và giao khoảnh khai thác.
Điều 32. – Các khu rừng giao cho các tổ khai thác phân
tán của các hợp tác xã phải có quy hoạch sơ bộ và phân thành khoảng rõ ràng.
Trường hợp
không có điều kiện quy hoạch sơ bộ thì dựa vào đặc điểm thiên nhiên của địa
hình (đường, dông khe suối, đường cái) mà phân cho mỗi tổ một khu vực nhất định.
Cần chọn thế nào để tre, nứa khai thác trong một khu vực có thể đem ra tập
trung tại một số bãi, bến nhất định, không lẫn với tre, nứa khai thác ở khu vực
bên cạnh.
Điều 33. – Khi đã có quy hoạch, bộ phận quản lý rừng tiến
hành giao các khoảnh khai thác cho các tổ khai thác theo như thủ tục đối với
lâm trường, công trường. Nếu chưa có quy hoạch, bộ phận quản lý rừng giao cho mỗi
tổ một khu vực khai thác và cấp giấy phép khai thác trong đó có ghi rõ ranh giới
khu vực và địa điểm đã chỉ định làm bãi, bến.
Mục 2.
Tiến hành khai thác.
Điều 34. – Các tổ khai thác phải triệt để tuân theo những
điều đã quy định về phương thức và phương pháp khai thác, loại cây được chặt,
loại cây phải chừa lại, tỷ lệ số cây chặt trên mỗi bụi tre, nứa, sản lượng được
phép lấy ra trên một hécta và trên toàn diện tích khu rừng giao cho tổ.
Trong khi
khai thác phải kết hợp chặt cả cây cụt ngọn, cây sâu bệnh mang ra và bảo vệ cây
non, măng.
Bộ phận quản
lý rừng phải thường xuyên hướng dẫn, kiểm tra việc khai thác của các tổ.
Điều 35. – Không được khai thác ra ngoài phạm vi đã được
phép. Tre, nứa khai thác của từng tổ phải được mang ra tập trung ở những bãi, bến
đã quy định, không được để tại rừng quá 10 ngày sau khi chặt.
Mục 3.
Vệ sinh rừng trong khai thác.
Điều 36. - Chỉ tiến hành vệ sinh rừng trong khai thác đối
với những khu vực của các tổ khai thác phân tán có đủ hai điều kiện sau đây:
1. Những rừng
tre, nứa thuần loại hoặc pha gỗ tập trung, có trữ lượng cao, trữ lượng trên
1.500 cây một hécta đối với rừng tre và trên 8.000 cây một hécta đối với rừng nứa.
2. Có cán bộ
của bộ phận quản lý rừng hướng dẫn, kiểm tra và nghiệm thu hết quả sau khi đã
hoàn thành vệ sinh rừng.
Khi làm vệ
sinh rừng phải theo đúng các quy định ở hai điều 25, 26 trên đây.
Điều 37. - Đối với những rừng tre, nứa trữ lượng nghèo,
phân tán, thì chủ yếu là hướng dẫn, kiểm tra các tổ khai thác làm theo đúng những
điều đã quy định về phương thức và phương pháp khai thác, loại cây được chặt, tỷ
lệ số cây chặt trên mỗi bụi, kỹ thuật hặt hạ, cắt đoạn và xếp dọn các nhánh ngọn
thành từng đống gọn gàng sau khi chặt.
Chương
IV:
ĐIỀU KHOẢN ÁP DỤNG CHUNG CHO CẢ HAI HÌNH THỨC KHAI THÁC
Điều 38. – Ngoài những điều khoản áp dụng riêng cho từng
hình thức, cả hai hình thức khai thác đều phải theo đúng những quy định chung dưới
đây về chặt hạ, cắt đoạn, vận xuất, vận chuyển và bảo quản tre, nứa.
Mục 1.
Chặt hạ, cắt đoạn.
Điều 39. – Trong một bụi tre, nứa, các cây già và non mọc
xen kẽ nhau, khi chặt phải chú ý lựa chọn chặt các cây già và vừa, chừa lại cây
non. Đối với những bụi tre, nứa lớn, cây mọc dầy, những cây quá già và già thường
ở giữa bụi, khi khai thác chỉ được chặt bụi cây theo kiểu hình móng ngựa.
Điều 40. - Để đảm bảo an toàn lao động và tiết kiệm nguyên
liệu, gốc cây tre, nứa phải chặt thấp. Gốc chặt cao nhất ở phía ngoài bụi là 20
centimét, ở giữa bụi là 40 centimét. Phải chặt sát ngay phía trên mắt cây và chặt
thật gọn tránh làm nứt vỡ gốc cây.
Điều 41. - Phải triệt để tận dụng nguyên liệu trong việc
cắt đoạn tre, nứa.
1. Không được
cắt đoạn tre, nứa theo lối chặt đoạn ngọn, đoạn gốc vứt lại rừng, chỉ lấy đoạn
giữa thân cây.
2. Khi cắt đoạn
tre, nứa phải tính toán, nếu cây dài có thể cắt thành hai, ba đoạn thì phải cắt
lấy hai, ba đoạn, nếu cây ngắn cắt thành hai đoạn lỡ làng thì cắt một đoạn theo
đúng kích thước quy định, còn một đoạn ngắn và bé hơn cũng phải mang ra.
3. Những cây
dập, gãy còn dùng được cũng phải chặt và cắt đoạn mang ra làm tre, nứa bó, nứa
giấy.
Điều 42. - Để đảm bảo an toàn lao động, cấm không được chặt
và cắt đoạn tre, nứa theo kiểu vạt ống dầu (chặt đứt cây bằng một nhát dao).
Khi chặt cắt
đoạn phải hết sức bảo vệ măng và cây non.
Cán bộ kỹ thuật
của các lâm trường, công trường, hạt lâm nghiệp phải thường xuyên hướng dẫn, kiểm
tra công việc chặt hạ, cắt đoạn tre, nứa của công nhân quốc doanh cũng như các
tổ khai thác phân tán của các hợp tác xã.
Mục 2.
Vận xuất.
Điều 43. – Tre, nứa chặt hạ xong phải lao kéo ra nơi tập
trung ngay để đảm bảo xanh tươi.
Riêng đối với
nứa giấy thì chặt xong có thể để tại bụi 2 – 3 ngày cho khô bớt nước rồi mới cắt
đoạn và vận xuất.
Điều 44. - Phải hết sức lợi dụng, cải tạo khe ngòi để vận
xuất tre, nứa. Những khe ngòi lớn là đường vận xuất chính của nhiều khu thì phải
đầu tư phá đá, đắp phai đập, thường xuyên sửa sang để vận xuất được quanh năm.
Những nơi
không có khe ngòi thì phải mở đường dùng các loại xe cải tiến để vận xuất. Các
đường vận xuất chính dùng chung cho nhiều khu khai thác phải thường xuyên tu sửa.
Hết sức tránh
tình trạng vác, kéo lết tre, nứa quá xa, chỉ được kéo lết không quá cự ly 2 cây
số ở những nơi dốc, đường lầy không dùng xe cải tiến được.
Những nơi có
độ dốc cao, tre, nứa tập trung, phải làm các máng lao, dây cáp để vận xuất.
Cán bộ kỹ thuật
khai thác của các lâm trường, công trường, hạt lâm nghiệp có trách nhiệm nghiên
cứu, hướng dẫn việc cải tiến công cụ vận xuất, mở đường, cải tạo khe ngòi trong
các khu khai thác của đơn vị mình.
Mục 3.
Vận chuyển.
Điều 45. - Phải đặt kế hoạch vận chuyển tre, nứa cho khớp
với kế hoạch khai thác vận xuất để vận xuất ra đến đâu có thể vận chuyển ngay đến
đấy. Trước khi khai thác phải chuẩn bị mọi phương tiện và lực lượng để tranh thủ
thời gian, vận chuyển nhanh, bảo đảm phẩm chất tre, nứa không bị giảm, không được
để tre, nứa tập trung ở các bãi, bến quá 2 tháng.
Trong vận
chuyển phải bảo quản tre, nứa, tránh làm dập gãy, rơi mất ở dọc đường.
Điều 46. - Phải tìm mọi biện pháp để vận chuyển bằng đường
thủy vì cước phí rẻ và tre, nứa giữ được xanh tươi lâu, giá trị sử dụng cao. Chỉ
những trường hợp sau đây mới được vận chuyển bộ.
1. Không có
điều kiện vận chuyển thủy.
2. Sông ngòi
bị cạn nên khả năng vận chuyển thủy không đảm bảo kế hoạch.
3. Trường hợp
đột xuất hoặc phục vụ kế hoạch đặc biệt mà vận chuyển thủy không đảm bảo thời gian.
Điều 47. - Chỉ vận chuyển tre, nứa bằng ô tô hoặc phương
tiện cơ giới trong những trường hợp sau đây:
1. Cự ly vận
chuyển ngắn (không quá 30 cây số). Nếu có nhiều bãi, bến trên cùng một tuyến đường
thì lấy cự ly bình quân của các bãi, bến.
2. Trường hợp
đột xuất cần thỏa mãn một yêu cầu cấp bách, tuy chưa đạt tiêu chuẩn trên, nhưng
được Tổng cục Lâm nghiệp cho phép.
Ở những nơi
có điều kiện, phải sử dụng các loại xe cải tiến để vận chuyển tre, nứa thay thế
phương tiện cơ giới, nhất là trên những cự ly vận chuyển ngắn.
Mục 4.
Bãi bến, bảo quản.
Điều 48. – Tre, nứa đã khai thác phải:
1. Tập trung ở
những bãi, bến nhất định.
2. Xếp có thứ
tự thành từng đống theo hàng lối để dễ kiểm điểm, thuận tiện cho việc xuất, nhập,
bốc lên, dỡ xuống xe ô tô, đưa xuống nước, đóng cốn bè mảng. Các đống tre, nứa
phải xếp theo đầu đuôi nhất định, giữa các lớp của mỗi đống phải có đà nhỏ kê
cách.
3. Để trên
các đà bằng gỗ có đường kính ít nhất là 20 cm. Đà để kê phải quét thuốc bảo quản
hai lần.
4. Phân loại
tre, nứa thành từng loại, hạng nhất định, tối thiểu cũng phải phân và xếp riêng
ra:
- Tre: tre
gày, tre gai, tre trinh, tre hạng A, B, C…
- Nứa: nứa 5,
nứa 7, nứa tép, nứa bổi, nứa ngộ, nứa hàng, nứa giấy…
5. Bãi, bến
phải có lối cho xe ô tô vào, ra, lối di chuyển xuống nước đóng cuốn thuận lợi.
Phải chuẩn bị đầy đủ dụng cụ để bốc dỡ, đóng cốn tre, nứa như đòn xeo, hoành
nín, lạt buộc, dây song…
Điều 49. – Tre nứa mang ra bãi, bến phải ghi rõ số lượng,
loại hạng, phẩm chất. Thủ kho hoặc người phụ trách bãi, bến phải có sổ xuất nhập
và ghi chép cho cập nhật.
Điều 50. – Các bãi bến phải có kế hoạch và chuẩn bị đầy đủ
phương tiện để bảo quản tre, nứa chống bão, lũ.
1. Trong mùa
lũ phải để tre, nứa ở trên bãi cao hơn mức nước cao nhất từ trước tới nay, vận
chuyển được đến đâu mới cho dần xuống nước đến đấy.
2. Phải chuẩn
bị đầy đủ phương tiện giữ bè, xuôi bè như đây cáp, dây song, lạt, hoành, nín…
3. Trong mùa
bão lũ phải có người thường trực canh gác, phải tổ chức lựcl ượng xung kích, lực
lượng dự bị phòng, chống bão, lũ.
Chương
V
:GIÁO DỤC VÀ THƯỞNG PHẠT
Điều 51. – Quy trình này cần được phổ biến sâu rộng tới
toàn thể cán bộ, công nhân lâm nghiệp, các tổ khai thác phân tán của các hợp
tác xã và nhân dân ở những nơi có rừng tre, nứa.
Các trường hợp
đại học, trung cấp, sơ cấp lâm nghiệp, các lớp huấn luyện ngắn ngày cho cán bộ,
công nhân khai thác phải đưa bàn tay trình này vào chương trình giảng dạy và huấn
luyện.
Điều 52. - Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị, tổ chức khai thác
tre, nứa, các cán bộ phụ trách khai thác, các cán bộ phụ trách quản lý bảo vệ rừng
có nhiệm vụ hướng dẫn, kiểm tra đôn đốc việc chấp hành quy trình này và phải chịu
trách nhiệm về những vụ vci phạm quy trình ở trong đơn vị mình.
Điều 53. – Các cơ quan, đơn vị, tổ chức và cá nhân có
thành tích trong việc thi hành quy trình này sẽ được khen thưởng thích đáng.
Người nào vi
phạm quy trình này sẽ bị xử lý theo luật lệ hiện hành.
|
TỔNG
CỤC TRƯỞNG
Tổng Cục Lâm Nghiệp
Nguyễn Tạo
|