ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH CÀ MAU
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số:
16/2007/QĐ-UBND
|
Cà Mau, ngày 25
tháng 5 năm 2007
|
QUYẾT ĐỊNH
VỀ VIỆC BAN HÀNH CHƯƠNG TRÌNH ĐẨY MẠNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU SẢN XUẤT NGƯ
- NÔNG - LÂM NGHIỆP TỈNH CÀ MAU TỪ NAY ĐẾN NĂM 2010 VÀ ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN NĂM 2020
ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH
Căn cứ Luật Tổ chức Hội đồng nhân
dân và Ủy ban nhân dân ngày 26 tháng 11 năm 2003;
Căn cứ Quyết định số
29/2006/QĐ-UBND ngày 21/9/2006 của UBND tỉnh về việc ban hành Kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội tỉnh Cà Mau 5 năm, giai đoạn 2006 - 2010;
Căn cứ ý kiến kết luận của Ban Chấp
hành Đảng bộ tỉnh tại Văn bản số 14-KL/TU ngày 30/01/2007 về tình hình thực hiện
chuyển đổi cơ cấu sản xuất ngư - nông - lâm nghiệp tỉnh Cà Mau giai đoạn 2001 -
2006 và một số chủ trương, giải pháp tiếp tục chỉ đạo thực hiện,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Ban hành kèm theo Quyết định này Chương trình đẩy
mạnh chuyển dịch cơ cấu sản xuất ngư - nông - lâm nghiệp tỉnh Cà Mau từ nay đến
năm 2010 và định hướng đến năm 2020.
Điều 2. Chánh Văn phòng UBND tỉnh, Thủ trưởng các Sở,
Ban, Ngành tỉnh, Chủ tịch UBND các huyện, thành phố căn cứ Quyết định thi hành.
Quyết định này có hiệu lực kể từ
ngày ký./.
Nơi nhận:
- Bộ Thủy sản, Bộ NN và PTNT;
- TT Tỉnh ủy, TT HĐND tỉnh;
- Thành viên UBND tỉnh;
- UBMTTQ tỉnh;
- Website Chính phủ;
- Như Điều 2;
- Báo, đài, Website tỉnh;
- LĐVP UBND tỉnh;
- CV các khối;
- Lưu VT, H51/5.
|
TM. ỦY BAN NHÂN
DÂN
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH
Phạm Thành Tươi
|
CHƯƠNG TRÌNH
ĐẨY
MẠNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU SẢN XUẤT NGƯ - NÔNG - LÂM NGHIỆP TỈNH CÀ MAU TỪ NAY ĐẾN
NĂM 2010 VÀ ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN NĂM 2020
(Ban hành kèm theo Quyết định số: 16/2007/QĐ-UBND ngày 25 tháng 5 năm 2007 của
UBND tỉnh Cà Mau)
I. THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH SẢN XUẤT
NGƯ - NÔNG - LÂM NGHIỆP:
1. Tiềm năng và hiện trạng (tính đến cuối năm
2006):
- Tỉnh Cà Mau có diện tích đất tự nhiên là
532.916,42 ha, trong đó diện tích canh tác lúa 76.349 ha, diện tích nuôi trồng
thủy sản 275.195 ha (có 251.856 ha nuôi tôm), diện tích đất lâm nghiệp 106.088
ha.
- Sản lượng nuôi trồng thủy sản đạt 138.323 tấn,
tăng 15,19% so với năm 2005; trong đó có 88.443 tấn tôm, tăng 9,05% so với năm
2005.
- Sản lượng lúa 400.760 tấn, tăng 3,57% so với năm
2005; diện tích trồng mía 3.422 ha, sản lượng 214.604 tấn, giảm 0,5% so với năm
2005; đàn lợn 215.260 con, giảm 12,5% so với năm 2005; gia cầm 792.440 con, tăng
22,47% so với năm 2005…
- Về lâm nghiệp, năm 2006 đã trồng mới 2.115 ha rừng,
10 triệu cây phân tán, chăm sóc và bảo vệ 8.077 ha rừng,…
- Về khai thác biển, đội tàu 3.655 chiếc, với tổng
công suất 369.177 CV, sản lượng khai thác 137.687 tấn, tăng 2,6% so với năm
2005, trong đó có 10.778 tấn tôm.
- Về chế biến xuất khẩu, toàn tỉnh có 26 xí nghiệp
chế biến thủy sản (tăng 7 xí nghiệp so với năm 1999); công suất chế biến hàng
xuất khẩu đạt 102.000 tấn/năm, tăng gấp 2,13 lần so với năm 1999, trong đó năng
lực chế biến hàng giá trị gia tăng tăng gấp 11,7 lần. Sản lượng chế biến hàng
thủy sản 78.000 tấn, tăng 2,88 lần so với năm 1999. Kim ngạch xuất khẩu đạt 580
triệu USD, tăng 4 lần so với năm 1999. Thị trường xuất khẩu được mở rộng, thị
phần ở các thị trường lớn ngày càng tăng, các sản phẩm nông nghiệp, mặt hàng chế
biến thủy sản đã có mặt ở trên 30 nước, vùng lãnh thổ, với hàng trăm khách hàng
ổn định.
2. Những kết quả đạt được và tồn tại yếu kém sau
chuyển dịch:
2.1. Một số kết quả chủ yếu:
- Chuyển đổi cơ cấu sản xuất trong nông nghiệp đã
thúc đẩy mạnh sản xuất hàng hóa, tạo điều kiện cho các ngành kinh tế khác phát
triển nhanh, thúc đẩy kinh tế của tỉnh tăng trưởng với nhịp độ khá cao: giai đoạn
2001 - 2005 tăng bình quân 11,18%/năm. Năm 2006, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt
19,15%; trong đó: ngư - nông - lâm nghiệp tăng 10,13%, công nghiệp - xây dựng
tăng 39,3%, thương mại - dịch vụ tăng 15% so với năm 2005. GDP bình quân đầu
người năm 2006 đạt 10,95 triệu đồng, tăng gấp 2 lần so với năm 1999.
- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ. Nếu
so sánh kết quả năm 1999 với năm 2005, tỷ trọng khu vực công nghiệp - xây dựng
tăng từ 19,27% lên 28,88%, thương mại - dịch vụ từ 17,95% lên 22,94%, khu vực
ngư - nông - lâm nghiệp giảm từ 59,74% xuống còn 48,18%. Cơ cấu sản xuất trong
nông nghiệp chuyển dịch nhanh từ nông - lâm - ngư nghiệp sang ngư - nông - lâm
nghiệp; tỷ trọng thủy sản trong tổng giá trị sản xuất ngư - nông - lâm nghiệp
tăng từ 65,6% năm 1999 lên 85% vào năm 2005, đưa kinh tế thủy sản trở thành
ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Cơ cấu sản xuất trong ngành Thủy sản cũng chuyển
dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng nuôi trồng thủy sản tăng từ 40,7% năm 1999
lên 71% vào năm 2005, tỷ trọng khai thác sông biển từ 57% còn 24% vào năm 2005.
- Trên cơ sở chuyển đổi cơ cấu sản xuất, đã thúc đẩy
quá trình chuyển đổi cơ cấu lao động. Một bộ phận lớn lao động dôi dư trong
nông nghiệp được đào tạo chuyển đổi ngành nghề và giải quyết việc làm, bình
quân hàng năm đào tạo nghề cho trên 16.000 lao động và giải quyết việc làm cho
25.000 lao động. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng lên, tỷ lệ
hộ nghèo theo chuẩn cũ giảm từ 15,48% xuống còn 6,3% vào cuối năm 2005 (tương
đương với 19,2% theo tiêu chí mới) và đến cuối năm 2006 chỉ còn 17%. Đến cuối
năm 2005, toàn tỉnh có 66% hộ dân có nhà ở kiên cố và bán kiên cố (tăng 43,5%
so với năm 1999); tỷ lệ hộ dân sử dụng điện đạt 84,34% (tăng hơn 45% so với năm
1999); 98% số hộ dân sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh trong ăn uống (tăng 18% so
với năm 1999); 79,8% hộ dân có tivi, 39% hộ có radio casset, 17% hộ có điện thoại,
1,86% hộ có máy vi tính, 17% hộ có xe gắn máy, 46% hộ có phương tiện thủy gia dụng…
2.2. Tồn tại, yếu kém:
Bên cạnh những thành tích, tiến bộ đã đạt được, quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp vẫn còn những tồn tại yếu
kém như sau:
- Công tác quy hoạch và quản lý theo quy hoạch còn
nhiều yếu kém, chưa gắn chặt với việc bảo vệ môi trường sinh thái, bảo vệ tài
nguyên. Một số nơi, cấp ủy Đảng, chính quyền chưa làm tốt vai trò lãnh đạo, quản
lý, điều hành quá trình chuyển đổi sản xuất, chưa có bước đi phù hợp, để xảy ra
tình trạng chuyển đổi sản xuất ngoài quy hoạch.
- Đầu tư cho chuyển đổi cơ cấu sản xuất chưa tương
xứng với nhu cầu và tiềm năng. Kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất chưa hợp lý và
chưa đồng bộ, nhất là hệ thống thủy lợi phục vụ nuôi trồng thủy sản. Môi trường
sinh thái bị suy thoái, đặc biệt là môi trường nuôi thủy sản ngày càng bị ô nhiễm,
tình trạng tôm nuôi bị chết vẫn còn xảy ra thường xuyên. Sản xuất ngư - nông -
lâm nghiệp chưa bền vững, còn phụ thuộc nhiều vào tự nhiên, rủi ro cao, hiệu quả
và sức cạnh tranh còn thấp. Công nghệ trong nuôi trồng và khai thác thủy sản
còn lạc hậu. Chưa đầu tư nâng cao chất lượng giống cây trồng, vật nuôi; khả
năng cung ứng giống chất lượng cao cho sản xuất ngư - nông - lâm nghiệp chưa
đáp ứng nhu cầu.
- Tình trạng sản xuất phân tán, manh mún, nhỏ lẻ
còn phổ biến. Kinh tế tập thể và kinh tế trang trại chậm phát triển; kinh tế hộ
phát triển chưa tương xứng với tiềm năng; kinh tế tư nhân phát triển khá nhưng
năng lực sản xuất, kinh doanh và sức cạnh tranh còn hạn chế. Thị trường tiêu thụ
sản phẩm nông, lâm, thủy sản còn bấp bênh, giá cả không ổn định, nhất là các sản
phẩm tiêu thụ nội địa, nên người dân chưa yên tâm khi đầu tư phát triển sản xuất
với quy mô lớn.
- Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ở
nông thôn phát triển chậm, chưa đủ sức giải quyết lao động dôi dư trong quá
trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất, nhất là đối với lao động nữ và lao động chưa
qua đào tạo. Ngành, nghề truyền thống ở nông thôn chưa được quan tâm bảo tồn và
phát huy.
- Đời sống nhân dân tuy có phát triển khá hơn trước
nhưng còn khó khăn nhiều mặt, tỷ lệ giảm nghèo đạt khá nhưng không bền vững, số
hộ cận nghèo còn nhiều, nguy cơ tái nghèo cao; chênh lệch thu nhập giữa dân cư
thành thị và nông thôn còn lớn (22,6%). Một bộ phận nhân dân có tư tưởng chủ
quan, ỷ lại, đua đòi trong sinh hoạt, chưa thật sự tiết kiệm trong tiêu dùng để
tích lũy vốn đầu tư phát triển sản xuất.
- Tình hình trật tự, an toàn xã hội ở nông thôn còn
nhiều vấn đề phức tạp, tranh chấp trong nội bộ nông dân còn khá phổ biến; vi phạm
pháp luật và tội phạm chưa được ngăn chặn, đẩy lùi; một số loại tệ nạn xã hội
thâm nhập và phát triển ở một số vùng nông thôn như ma túy, mại dâm, cờ bạc, số
đề.
Tóm lại: Chủ trương chuyển dịch cơ cấu sản
xuất từ nông - lâm - ngư nghiệp sang ngư - nông - lâm nghiệp là phù hợp với điều
kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh, nguyện vọng của nhân dân và đúng chủ
trương của Đảng và Nhà nước. Chuyển đổi cơ cấu sản xuất là bước đột phá, mở ra
hướng phát triển mới, cho phép khai thác hợp lý tiềm năng, lợi thế của tỉnh,
đưa kinh tế thủy sản vươn lên mạnh mẽ; đồng thời tạo điều kiện chuyển dịch cơ cấu
sản xuất trong nông nghiệp ngày một tốt hơn, tạo động lực thúc đẩy nền kinh tế
của tỉnh phát triển nhanh theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
II. PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ VÀ MỘT
SỐ CHỈ TIÊU:
1. Quan điểm, mục tiêu:
- Chuyển đổi cơ cấu sản xuất ngư - nông - lâm nghiệp
đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 nhằm xây dựng một nền nông nghiệp hàng
hóa mạnh (bao gồm cả lâm nghiệp và thủy sản), đa dạng và bền vững, dựa trên cơ
sở phát huy các lợi thế so sánh; áp dụng khoa học - công nghệ, làm ra sản phẩm
có chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu đa dạng trong nước và tăng khả năng cạnh
tranh trên thị trường quốc tế; nâng cao hiệu quả sử dụng đất đai, lao động, nguồn
vốn và bảo vệ môi trường sinh thái; nâng cao thu nhập và đời sống của nhân dân.
- Chuyển dịch cơ cấu sản xuất ngư - nông - lâm nghiệp
gắn với chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động xã hội của địa phương, tạo
công ăn việc làm mới, tăng thu nhập và cải thiện đời sống dân cư nông thôn; phù
hợp với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường.
2. Phương hướng:
- Về thủy sản: ổn định diện tích đã chuyển đổi ở
các khu vực; khuyến khích phát triển mô hình nuôi tôm sinh thái, nuôi quảng
canh cải tiến trình độ cao, nuôi bán thâm canh và thâm canh; đẩy mạnh ứng dụng
tiến bộ kỹ thuật và công nghệ sinh học trong nuôi trồng thủy sản, đảm bảo chất
lượng nguyên liệu thủy sản và tăng năng suất, hiệu quả sản xuất. Chuyển dịch
nhanh cơ cấu nghề khai thác biển, giảm áp lực khai thác vùng ven bờ, tăng tỷ trọng
sản lượng hải sản khai thác xa bờ; thực hiện phân cấp quản lý hoạt động khai
thác hải sản trên các vùng biển; tập trung đầu tư có hiệu quả hệ thống cảng cá,
dịch vụ hậu cần nghề cá phục vụ đánh bắt, tiêu thụ hải sản.
- Về nông nghiệp: ổn định diện tích sản xuất nông
nghiệp ở vùng Bắc Cà Mau theo hệ sinh thái ngọt, chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu cây
trồng, vật nuôi theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả; khuyến
khích phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm và các loài thủy sản nước ngọt có
giá trị, hiệu quả kinh tế cao.
- Về lâm nghiệp: thực hiện tốt công tác quản lý, bảo
vệ và phát triển rừng; quy hoạch, sắp xếp và ổn định dân cư trong khu vực lâm
phần.
3. Một số chỉ tiêu chủ yếu:
TT
|
Chỉ tiêu
|
ĐVT
|
Năm 2006
|
Năm 2010
|
Năm 2020
|
A
|
THỦY SẢN:
|
|
|
|
|
I
|
Diện tích nuôi thủy sản:
|
Ha
|
275.195
|
273.000
|
270.000
|
1
|
Nuôi tôm nước lợ
|
Ha
|
251.856
|
240.000
|
230.000
|
2
|
Nuôi cá đồng
|
Ha
|
23.339
|
31.000
|
35.000
|
3
|
Nuôi biển, đảo
|
Ha
|
-
|
2.000
|
5.000
|
II
|
Sản lượng thủy sản:
|
Tấn
|
276.010
|
390.000
|
500.000
|
|
Trong đó: Tôm
|
Tấn
|
99.231
|
145.000
|
200.000
|
III
|
Phương tiện khai thác biển:
|
|
|
|
|
1
|
Số lượng
|
Chiếc
|
3.655
|
3.500
|
3.000
|
2
|
Công suất
|
CV
|
369.177
|
350.000
|
350.000
|
IV
|
Chế biến hàng thủy sản xuất khẩu:
|
Tấn
|
62.230
|
120.000
|
150.000
|
1
|
Chế biến tôm
|
Tấn
|
58.479
|
90.000
|
105.000
|
2
|
Thủy sản khác
|
Tấn
|
3.751
|
30.000
|
45.000
|
V
|
Kim ngạch xuất khẩu:
|
Tr.USD
|
580
|
1.000
|
1.200-1.300
|
B
|
NÔNG NGHIỆP:
|
|
|
|
|
I
|
Trồng trọt
|
|
|
|
|
1
|
Cây lúa
|
|
|
|
|
|
- Diện tích canh tác
|
Ha
|
76.349
|
87.400
|
87.400
|
|
- Diện tích gieo trồng
|
Ha
|
113.838
|
125.000
|
125.000
|
|
- Năng suất gieo trồng
|
Tấn/Ha
|
3,5
|
4,0
|
5,6
|
|
- Sản lượng lúa
|
Tấn
|
400.760
|
500.000
|
700.000
|
|
- Diện tích lúa - tôm
|
Ha
|
25.000
|
34.000
|
34.000
|
2
|
Diện tích cây dừa
|
Ha
|
9.578
|
10.000
|
10.000
|
3
|
Diện tích cây mía
|
Ha
|
3.422
|
3.500
|
3.500
|
4
|
Diện tích cây ăn trái
|
Ha
|
2.823
|
3.000
|
4.000
|
5
|
Diện tích cây chuối
|
Ha
|
6.600
|
6.500
|
6.500
|
6
|
Diện tích rau màu
|
Ha
|
6.065
|
7.500
|
11.000
|
II
|
Chăn nuôi
|
|
|
|
|
1
|
Đàn heo
|
Con
|
215.266
|
280.000
|
420.000
|
2
|
Đàn gia cầm
|
Con
|
792.442
|
2.000.000
|
4.000.000
|
3
|
Đàn trâu - bò
|
Con
|
1.207
|
1.335
|
3.000
|
C
|
LÂM NGHIỆP:
|
|
|
|
|
1
|
Diện tích có rừng tập trung
|
Ha
|
97.328
|
110.000
|
110.000
|
2
|
Tỉ lệ che phủ của rừng trên toàn tỉnh (tính trên
diện tích tự nhiên)
|
%
|
18,26
|
20,7
|
20,7
|
3
|
Diện tích rừng
trồng mới (rừng tập trung)
|
Ha
|
2.115
|
3.000
|
-
|
III. MỘT SỐ GIẢI
PHÁP CHỦ YẾU:
1. Về quy hoạch, kế hoạch:
- Trước mắt, phải sớm hoàn thành Quy
hoạch phát triển ngành Thủy sản đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. Tiếp tục
rà soát, bổ sung hoàn chỉnh những quy hoạch trước đây của tỉnh, các huyện,
thành phố và các ngành cho phù hợp với quy hoạch chung của vùng và cả nước.
- Phối hợp với Phân viện Quy hoạch và
Thiết kế nông nghiệp thực hiện Quy hoạch sản xuất nông nghiệp và phát triển
làng nghề nông thôn tỉnh Cà Mau đến năm 2015, định hướng đến năm 2020 (hoàn
thành trong quý II/2007), làm cơ sở cho việc bố trí sản xuất cây, con phù hợp với
điều kiện sinh thái, đất đai, cơ sở vật chất kỹ thuật. Tạo nhiều sản phẩm chất
lượng cao, hạn chế rủi ro trong sản xuất, đảm bảo tính bền vững của sản xuất gắn
với việc bảo vệ môi trường sinh thái, tăng thu nhập cho nhân dân.
+ Đối với vùng Bắc Cà Mau: Tập trung
phát triển cây lúa theo hướng thâm canh tăng vụ, sản xuất hoa màu, cây ăn trái
kết hợp với nuôi thủy sản nước ngọt. Ở những tiểu vùng nuôi tôm có hiệu quả, tiếp
tục quy hoạch nuôi tôm kết hợp luân canh với trồng lúa và các cây con phù hợp.
+ Đối với vùng Nam Cà Mau: Phát triển
mô hình luân canh lúa trên đất nuôi tôm ở những nơi có điều kiện, mở rộng diện
tích trồng cây ăn trái và hoa màu để tăng độ che phủ và giải quyết thực phẩm tại
chỗ. Ở những vùng sâu trong nội đồng, nếu nuôi tôm không hiệu quả thì quy hoạch
khép kín theo các tiểu vùng nhỏ để sản xuất nông nghiệp theo hướng đa cây, đa
con. Bổ sung quy hoạch phát triển tôm - rừng, rừng - tôm và nuôi nhuyễn thể hai
mảnh vỏ trên địa bàn huyện Ngọc Hiển và huyện Năm Căn.
- Trong chăn nuôi, thực hiện tốt Đề
án xây dựng lò giết mổ gia súc, gia cầm tập trung và Quy hoạch chăn nuôi, quy
hoạch chợ bán sản phẩm động vật giai đoạn năm 2006 đến năm 2010; nhằm tạo sự
chuyển biến mới theo hướng phát triển hình thức chăn nuôi tập trung kiểu công
nghiệp, bán công nghiệp, an toàn sinh học gắn với phát triển hệ thống cơ sở giết
mổ, chế biến tập trung.
- Về lâm nghiệp: quy hoạch và xây dựng
vùng nguyên liệu gắn với cơ sở chế biến, trong đó rừng tràm, keo… gắn với chế
biến ván dăm, ván ghép; rừng đước gắn với chế biến than, gỗ xây dựng… Thu hút đầu
tư để xây dựng nhà máy chế biến ván dăm, ván ghép thanh…Tăng cường các biện
pháp bảo vệ rừng, phòng cháy, chữa cháy rừng. Quy hoạch, sắp xếp và ổn định dân
cư trong lâm phần, nhất là các hộ dân di cư tự do.
- Bám sát quy hoạch đã điều chỉnh, từng
bước giải quyết đồng bộ các khâu về thủy lợi, vốn đầu tư, chuyển giao tiến bộ
khoa học kỹ thuật, con giống, xúc tiến thương mại, tổ chức lại sản xuất và
phòng trừ dịch bệnh.
- Tổ chức kiểm tra, giám sát việc thực
hiện quy hoạch ở các cấp, các ngành. Trong quá trình thực hiện quy hoạch, cần
lưu ý việc lập kế hoạch phối hợp với quy hoạch của các tỉnh, quy hoạch của
vùng.
2. Tiếp tục chuyển dịch cơ cấu sản
xuất gắn với tổ chức lại sản xuất:
2.1. Về thủy sản:
- Về khai thác hải sản: tiếp tục chuyển
dịch nhanh cơ cấu nghề khai thác theo hướng ổn định sản lượng khai thác, bảo vệ
nguồn lợi thủy sản, chuyển từ khai thác ven bờ sang nghề khai thác xa bờ, nghề
nuôi trồng thủy sản hoặc dịch vụ, du lịch… Quản lý chặt chẽ việc đóng mới, cấp
giấy phép khai thác để giảm dần số tàu nhỏ khai thác ven bờ, đồng thời duy trì
và củng cố số tàu lớn khai thác xa bờ, làm dịch vụ trên biển. Phát triển các mô
hình tổ chức kinh tế tập thể trong nghề khai thác, tổ chức các đội tàu theo nghề
để khai thác có hiệu quả và hỗ trợ trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm và phòng,
chống lụt, bão, tìm kiếm cứu nạn trên biển.
- Về nuôi trồng: xã hội hóa, đa dạng
hóa và nâng cao chất lượng giống thủy sản phù hợp với điều kiện tự nhiên của tỉnh.
Phát triển mạnh nuôi trồng thủy sản ở tất cả các loại mặt nước, theo hướng bền
vững, với năng suất và hiệu quả cao; trong đó chú trọng nuôi trồng hải sản trên
vùng biển ven bờ, gắn với mô hình quản lý cộng đồng, hình thành các hình thức tổ
chức kinh tế tập thể, đảm bảo giải quyết việc làm cho lao động đánh bắt hải sản
ven bờ chuyển nghề và bảo vệ nguồn lợi thủy sản. Hình thành những vùng nuôi tập
trung có khối lượng sản phẩm hàng hóa lớn, áp dụng công nghệ tiên tiến, nâng
cao năng suất, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm, bảo vệ môi trường và là nguồn
cung cấp nguyên liệu chủ yếu cho xuất khẩu.
- Về dịch vụ và chế biến: từng bước gắn
doanh nghiệp với vùng nguyên liệu, hình thành các trung tâm nghề cá lớn gắn với
việc xây dựng các khu công nghiệp chế biến công nghệ cao để thu hút khối lượng
nguyên liệu thủy sản lớn, tạo ra sản phẩm chất lượng cao, tăng giá trị cho các
loại sản phẩm, từng bước xây dựng thương hiệu cho sản phẩm thủy sản Cà Mau.
Phát triển mạnh các loại hình dịch vụ ở nông thôn, nhất là cung ứng dịch vụ đầu
vào và phát triển thị trường tiêu thụ nông - lâm - thủy sản, tạo đầu ra ổn định,
kích thích phát triển sản xuất hàng hóa.
2.2. Về nông - lâm nghiệp, phát
triển nông thôn:
- Tăng cường hệ thống bảo vệ thực vật,
thú y, chú ý công tác dự tính dự báo, theo dõi, phát hiện, giám sát và chủ động
phòng, chống dịch, hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại cho người sản xuất.
- Hoàn thành việc sắp xếp, đổi mới và
phát triển các Lâm ngư trường, Ban Quản lý Bảo vệ và Phát triển rừng theo chỉ đạo
của Thủ tướng Chính phủ (tại Quyết định số 23/2006/QĐ-TTg ngày 25/01/2006), nhằm
đưa các Công ty Lâm nghiệp và Ban Quản lý rừng phòng hộ vào hoạt động đúng quy
chế và đạt hiệu quả.
- Phát huy hiệu quả sử dụng lao động
nhàn rỗi trong nhân dân và tận dụng các phụ phẩm nông nghiệp (như xơ dừa, bẹ
chuối, vỏ tràm…) để chế biến các loại hàng hóa phục vụ nhu cầu trong nước và xuất
khẩu, chú trọng phát triển các làng nghề và làng nghề truyền thống. Tuy nhiên,
để phát triển mạnh các ngành nghề và làng nghề nông thôn, cần phải xã hội hóa
công tác này, nhằm phát huy tối đa nội lực của nhân dân, kết hợp với tác động đồng
bộ và hiệu quả từ các chính sách hỗ trợ của Nhà nước. Theo đó, Nhà nước tạo môi
trường, khuyến khích và huy động mọi nguồn lực để người dân tham gia phát triển
ngành nghề như: ban hành chính sách khuyến khích phát triển làng nghề, kinh tế
tập thể và kinh tế trang trại trên địa bàn tỉnh Cà Mau; trong đó chú trọng về
chính sách đất đai, chính sách hỗ trợ vay vốn, chính sách về thuế và chính sách
về thông tin thị trường….
- Khuyến khích nông dân hợp tác sản
xuất bằng nhiều hình thức, đồng thời nghiên cứu chuyển dịch từng bước lao động
nông nghiệp sang làm công nghiệp hoặc dịch vụ, xuất khẩu lao động, gắn với việc
chuyển đổi, cho thuê lại ruộng đất để khắc phục dần tình trạng sản xuất phân
tán, manh mún, nhỏ lẻ, chuyển sang sản xuất tập trung với quy mô lớn, tạo điều
kiện thuận lợi cho đầu tư tập trung và ứng dụng có hiệu quả các thành tựu khoa
học, công nghệ vào sản xuất.
3. Về kỹ thuật sản xuất và bảo vệ
môi trường:
3.1 Phát triển khoa học - công
nghệ và bảo vệ môi trường:
- Tập trung chuyển giao công nghệ mới
trong nuôi trồng các loại cây, con, khai thác thủy sản và sản xuất giống. Lấy đổi
mới công nghệ chế biến làm mũi nhọn. Thúc đẩy mạnh mẽ việc ứng dụng khoa học -
công nghệ làm cơ sở tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh
của sản phẩm nông nghiệp. Từng bước nghiên cứu, ứng dụng công nghệ hiện đại như
công nghệ sinh học, tin học vào sản xuất.
- Tập trung nghiên cứu ứng dụng các
mô hình mới, giống cây con mới có năng suất, hiệu quả cao, thích ứng với điều
kiện sinh thái của tỉnh.
- Tăng cường công tác khuyến nông,
khuyến ngư; củng cố hệ thống khuyến nông, khuyến ngư cơ sở; khuyến khích phát
triển các câu lạc bộ khuyến nông, khuyến ngư. Chuyển giao tiến bộ kỹ thuật bằng
nhiều hình thức như: trên hệ thống thông tin đại chúng, xây dựng mô hình trình
diễn, hội chợ, triển lãm, tờ rơi, tập huấn ngắn ngày… tạo điều kiện cho nông
dân tiếp cận nhanh khoa học - công nghệ mới.
- Có sự phối hợp đồng bộ, đa ngành
trong công tác bảo vệ môi trường sinh thái, bảo vệ nguồn lợi thủy sản. Triển
khai thực hiện tốt Luật Môi trường và các chủ trương của Trung ương về bảo vệ
môi trường trong tình hình mới; phát động toàn dân tham gia bảo vệ tài nguyên
môi trường và xử lý nghiêm mọi hành vi vi phạm trên lĩnh vực này.
3.2. Về kỹ thuật canh tác và
công nghệ sản xuất:
- Tập trung hoàn thiện các quy trình
nuôi, trồng và sản xuất giống tốt, sạch bệnh. Đẩy mạnh nghiên cứu về dịch bệnh
và cách phòng, chống dịch bệnh.
- Xây dựng và cải tạo đồng ruộng đúng
kỹ thuật, phù hợp với các mô hình và phương thức sản xuất. Lựa chọn mô hình sản
xuất ở từng vùng phải phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng và nguồn cung cấp nước.
- Có bước đi vững chắc trong phát triển
nuôi trồng thủy sản của địa phương. Trong đó, chú trọng nhân rộng các mô hình
nuôi quảng canh cải tiến bậc cao (năng suất 700 - 800 kg/ha), chỉ phát triển
nuôi thâm canh và bán thâm canh ở những vùng có đủ điều kiện.
- Vận động nhân dân thực hiện tốt các
quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường sinh thái. Phải dành diện tích để
trồng cây trên các bờ kênh, trong ao, đầm nuôi cũng như một số vùng đệm, nhằm mục
đích xử lý nước bằng phương pháp sinh học. Thường xuyên liên hệ với các cơ quan
nghiên cứu khoa học, các tổ chức khuyến ngư, khuyến nông để tìm hiểu kỹ thuật
và giải quyết các vấn đề nảy sinh.
- Trong sản xuất lương thực, tập
trung thực hiện các biện pháp thâm canh đồng bộ, mở rộng mô hình canh tác “3 giảm,
3 tăng”, đẩy mạnh ứng dụng biện pháp quản lý dịch hại tổng hợp (IPM)…
3.3. Giải pháp về giống:
Phát triển, cải tạo các loại giống có
năng suất cao, chất lượng tốt để cung cấp cho nông dân:
- Về thủy sản: xã hội hóa công tác sản
xuất giống; khuyến khích sản xuất giống thủy sản có chất lượng và giá trị kinh
tế cao. Quản lý chặt chẽ việc thực hiện quy hoạch trại sản xuất tôm giống trên
địa bàn tỉnh. Đẩy mạnh công tác kiểm tra nguồn giống thủy sản di nhập vào tỉnh.
- Về nông nghiệp: triển khai thực hiện
Dự án chuyển đổi, nâng cao chất lượng lúa giống trong sản xuất đại trà giai đoạn
2007 - 2009, xem đây là giải pháp đột phá để tăng năng suất lúa, nhằm tạo điều
kiện về vật chất và kỹ thuật để sản xuất, nhân giống lúa tại chỗ (giống nguyên
chủng và giống xác nhận), từng bước chuyển đổi, nâng cao chất lượng lúa giống
trong sản xuất đại trà. Phấn đấu đến năm 2010, tỷ lệ sử dụng lúa giống xác nhận
trong nông dân đạt trên 70%, góp phần tăng năng suất lúa từ 10 - 15%. Đưa trại
giống gia cầm vào sản xuất để khôi phục, phát triển đàn gia cầm; tiếp tục đầu
tư, nâng cấp trại giống gia súc để cung ứng các giống: heo, bò, dê.. chất lượng
cao, phục vụ nhu cầu giống chăn nuôi cho nhân dân trong tỉnh theo hướng nạc hóa
đàn heo, nâng cao tầm vóc đàn bò thịt, dê thịt...
- Về lâm nghiệp: triển khai việc mở rộng
vườn ươm tràm giống để phục vụ nhu cầu giống trồng rừng, phấn đấu từ năm 2007
cơ bản đáp ứng nhu cầu cây tràm giống; nâng cao phẩm chất trái đước giống bằng
hình thức chuyển hóa rừng giống đước.
4. Về thương mại và phát triển thị
trường:
- Mở rộng thị trường trong nước:
thông qua việc đa dạng các loại sản phẩm có chất lượng, giá cả hợp lý, phù hợp
khẩu vị, đồng thời chú trọng mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm thủy sản đối
với vùng nông thôn.
- Về phát triển thị trường xuất khẩu:
phát huy lợi thế cạnh tranh của từng loại sản phẩm để có những loại sản phẩm đặc
trưng của tỉnh như tôm sú, cua, cá bống tượng, cá chình, cá kèo…. Tăng cường
xúc tiến thương mại, đào tạo cán bộ có năng lực làm công tác thương mại, tăng
cường khả năng thông tin và dự báo thị trường, tiếp tục giữ vững thị trường
truyền thống, phát triển thị trường mới, đặc biệt chú ý vươn tới các thị trường
Trung Quốc, Châu Phi, các nước Ả Rập, Nam Mỹ.
- Các doanh nghiệp, Hội Chế biến và
xuất khẩu thủy sản Cà Mau tích cực tổ chức tiếp thị trên các thị trường, cả
trong nước và nước ngoài, nhanh chóng xây dựng và quảng bá thương hiệu, đồng thời
có biện pháp phù hợp để giữ vững và nâng cao uy tín của thương hiệu.
5. Thích ứng với quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế:
- Bằng nhiều hình thức, phổ biến sâu,
rộng nội dung hội nhập kinh tế quốc tế, nhằm nâng cao nhận thức của người dân về
bản chất và nội dung của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, những cơ hội và
thách thức khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), nhất là
trong lĩnh vực ngư - nông - lâm nghiệp.
- Đẩy mạnh việc nâng cao chất lượng
hàng hóa, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, xây dựng thương hiệu, … đáp ứng được
các điều kiện cần và đủ để cạnh tranh trên thị trường quốc tế và cung cấp cho
thị trường trong nước.
6. Phát triển nguồn nhân lực:
- Phát triển nguồn nhân lực trong những
năm tới phải thật sự trở thành một trong những nhiệm vụ trọng tâm của tỉnh. Cần
tập trung đào tạo nguồn nhân lực có trình độ khoa học kỹ thuật, kỹ năng, kỷ luật
cao cho mọi lĩnh vực. Bên cạnh việc tập trung đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý,
khoa học, cần chú trọng việc đào tạo công nhân kỹ thuật lành nghề, lực lượng
khuyến ngư, khuyến nông và nông dân.
- Xúc tiến nhanh và tìm các phương thức
đào tạo thích hợp để từng bước đáp ứng nhu cầu đào tạo của tỉnh; đồng thời, kiến
nghị với Chính phủ và các Bộ, ngành Trung ương hỗ trợ tỉnh trong công tác đào tạo
nguồn nhân lực.
- Có biện pháp thu hút lực lượng lao
động có tay nghề cao, chuyên gia, các nhà khoa học có trình độ chuyên môn sâu,
nghiệp vụ thành thạo, các nhà quản lý giỏi về tỉnh làm việc.
7. Về đầu tư phát triển thủy lợi:
- Thủy lợi là lĩnh vực hàng đầu cần
ưu tiên đầu tư để phục vụ phát triển sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản
trong giai đoạn hiện nay. Do đó, cần phải huy động mọi nguồn lực để đầu tư xây
dựng hoàn chỉnh hệ thống công trình thủy lợi cho vùng Bắc Cà Mau và vùng Nam Cà
Mau. Hoàn chỉnh quy hoạch đê biển, đê cửa sông nhằm đáp ứng yêu cầu chuyển đổi
cơ cấu sản xuất, bảo vệ dân cư. Khẩn trương hoàn chỉnh quy hoạch và đầu tư các
dự án tiểu vùng để chủ động điều tiết nước phục vụ sản xuất nông nghiệp và nuôi
trồng thủy sản. Hoàn thành cơ bản hệ thống cống lớn dưới đê biển, kết hợp làm cầu
giao thông trên đê. Tiếp tục đầu tư đào mới, nạo vét hệ thống kênh trục, kênh cấp
I và cấp II phục vụ chuyển đổi cơ cấu sản xuất ngư - nông nghiệp, vùng nuôi tôm
kết hợp trồng lúa; phát huy hiệu quả hệ thống cống đã xây dựng. Từng bước hoàn
thiện hệ thống đê bao, kênh mương thủy lợi phục vụ sản xuất kết hợp với giao
thông nông thôn.
- Việc xây dựng hệ thống thủy lợi phải
đảm bảo cấp, thoát nước cho các vùng nuôi thủy sản và sản xuất nông nghiệp; có
biện pháp xử lý nước thải hoặc nước bị nhiễm mầm bệnh từ nuôi trồng thủy sản
trước khi thải vào sông, rạch.
- Tỉnh Cà Mau đã quy hoạch 23 tiểu
vùng thủy lợi của Nam và Bắc Cà Mau. Nhưng việc triển khai các dự án còn gặp rất
nhiều khó khăn, chủ yếu là thiếu nguồn vốn. Vì vậy, trong thời gian tới cần tập
trung:
+ Đầu tư xây dựng đồng bộ một số tiểu
vùng, ô thủy lợi ở Nam và Bắc Cà Mau, để phục vụ sản xuất, kết hợp giao thông
thủy, bộ, phòng chống cháy rừng và phát triển du lịch, bằng nguồn vốn hỗ trợ của
Chính phủ (như Tiểu vùng II, V, XVII - Nam Cà Mau; Tiểu vùng III - Bắc Cà Mau).
+ Đầu tư xây dựng hoàn chỉnh hệ thống
đê biển Tây (bao gồm cả hệ thống cống), đê biển Đông và một số cống lớn bằng
nguồn vốn Trung ương.
+ Nguồn vốn ngân sách tỉnh sẽ tập
trung đầu tư sên vét một số hệ thống kênh trục, cấp I, cấp II có nhu cầu bức
xúc phục vụ cho chuyển dịch cơ cấu sản xuất.
+ Huy động nguồn vốn trong nhân dân
cùng với ngân sách huyện để đầu tư hệ thống kênh mương nội đồng, kênh cấp III
và một số cống thời vụ.
8. Về vốn đầu tư phát triển:
- Vốn từ ngân sách: chủ yếu đầu tư
cho các công trình thủy lợi bức xúc như hệ thống đê, cống, nạo vét các trục
kênh chính. Tranh thủ nguồn vốn của Trung ương để đầu tư hoàn chỉnh một số tiểu
vùng thủy lợi trọng điểm ở Nam và Bắc Cà Mau, cùng một số cơ sở hạ tầng nghề
cá.
- Vốn từ
các thành phần kinh tế: khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển
công nghệ trong các lĩnh vực ngư - nông - lâm nghiệp, công nghiệp, thương mại,
dịch vụ, đáp ứng yêu cầu hội nhập. Tăng cường thu hút đầu tư, phát triển mạnh
hàng giá trị gia tăng, thực phẩm phối chế và các mặt hàng truyền thống, tiêu thụ
nội địa.
- Huy động vốn trong dân: để thực hiện
các công trình thủy lợi, thủy nông nội đồng, sản xuất giống cây trồng, vật
nuôi, xây dựng giao thông nông thôn.
- Huy động vốn nước ngoài: tổ chức
xây dựng và hoàn thiện các dự án đầu tư, các định chế quản lý, tạo môi trường hấp
dẫn để thu hút nguồn vốn đầu tư của nước ngoài.
- Huy động các nguồn vốn đầu tư trồng
rừng, trong đó ưu tiên bảo vệ và phát triển rừng phòng hộ, rừng đặc dụng. Khuyến
khích đầu tư kinh doanh rừng theo mô hình tổng hợp, gắn trồng rừng, bảo vệ rừng
với chế biến lâm sản, phát huy thế mạnh kinh doanh du lịch sinh thái của rừng,
nhất là tại các Vườn Quốc gia. Phát động rộng rãi nhân dân trồng cây phân tán để
tăng độ che phủ, bảo vệ môi trường, nhất là các vùng chuyên canh nuôi trồng thủy
sản.
IV. TỔ CHỨC THỰC
HIỆN:
1. Căn cứ vào Chương trình này, Thủ
trưởng các Sở, Ban, Ngành cấp tỉnh có liên quan và Chủ tịch UBND huyện, thành
phố khẩn trương chỉ đạo xây dựng chương trình (hoặc kế hoạch) thực hiện cụ thể ở
đơn vị mình. Trong chương trình (hoặc kế hoạch) thực hiện của các đơn vị, bên cạnh
việc triển khai thực hiện tốt Chương trình này, cần xác định các nhiệm vụ trọng
tâm cụ thể thuộc phạm vi, lĩnh vực mình quản lý để tập trung chỉ đạo, tạo chuyển
biến ngay trong năm 2007 và những năm tiếp theo. Quy định cụ thể thời hạn thực
hiện và hoàn thành; phân công người chịu trách nhiệm từng công việc. Hàng quý,
tổng hợp tình hình thực hiện, báo cáo về Sở Thủy sản để tổng hợp báo cáo UBND tỉnh.
2. Đề nghị Giám đốc Sở Thủy sản, Giám
đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Thủ trưởng các Sở, Ban, Ngành và Chủ
tịch UBND các huyện, thành phố có liên quan thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện
Chương trình này ở đơn vị mình. Các Ban Chỉ đạo có trách nhiệm hướng dẫn, tổ chức
triển khai thực hiện Chương trình này và chương trình (hoặc kế hoạch) của đơn vị
mình.
3. Thủ trưởng các Sở, Ban, Ngành cấp
tỉnh có liên quan và Chủ tịch UBND huyện, thành phố ký kết chương trình phối hợp
hàng năm để đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ, mục tiêu được giao.
4. Ủy ban nhân dân tỉnh giao trách
nhiệm cho Giám đốc Sở Thủy sản:
- Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc các cơ
quan, đơn vị thực hiện có hiệu quả Chương trình này.
- Hàng quý, tổng hợp tình hình thực
hiện Chương trình, báo cáo UBND tỉnh.
- Định kỳ
sáu tháng một lần hoặc đột xuất (khi cần thiết), chủ trì mời lãnh đạo các Sở,
Ngành, Đơn vị có liên quan và Chủ tịch UBND huyện, thành phố họp, để nắm tình
hình và đề xuất UBND tỉnh biện pháp tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc (nếu có).
Cuối năm tổ chức sơ kết, tổng kết để rút kinh nghiệm, phát huy những mặt tiến bộ,
khắc phục những tồn tại yếu kém, báo cáo UBND tỉnh để có biện pháp chỉ đạo kịp
thời./.