CÁC
QUY TẮC CHUẨN, TỐI THIỂU CỦA LIÊN HỢP QUỐC VỀ NHỮNG BIỆN PHÁP KHÔNG GIAM GIỮ
(CÁC QUY TẮC TOKYO), 1990
(Được Đại Hội
đồng Liên Hợp Quốc thông qua bằng Nghị quyết 45/110 ngày 14/12/1990).
I. NHỮNG NGUYÊN TẮC CHUNG
1. Mục đích cơ bản
1.1. Các Quy tắc chuẩn, tối thiểu này đưa ra một
tập hợp các nguyên tắc cơ bản nhằm thúc đẩy việc sử dụng các biện pháp không
giam giữ, cũng như các biện pháp bảo vệ tối thiểu đối với những người là đối
tượng của các hình thức xử lý khác ngoài hình thức giam cầm.
1.2. Các Quy tắc này nhằm khuyến khích sự tham gia
rộng rãi hơn nữa của cộng đồng vào hoạt động tư pháp hình sự, đặc biệt trong
việc đối xử với người phạm tội, cũng như nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của
những người phạm tội đối với xã hội.
1.3. Khi thực hiện các Quy tắc này, cần tính đến
các điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa của từng quốc gia cũng như
mục đích và mục tiêu của hệ thống tư pháp hình sự của quốc gia đó.
1.4. Khi thực hiện các Quy tắc này, các Quốc gia
thành viên phải cố gắng đảm bảo một sự cân bằng hợp lý giữa các quyền của cá
nhân người phạm tội, quyền của các nạn nhân và sự quan ngại của xã hội đối với
an ninh công cộng và việc phòng ngừa tội phạm.
1.5. Các Quốc gia thành viên phải xây dựng những
biện pháp không giam giữ trong hệ thống pháp luật của nước mình nhằm đưa ra các
cách lựa chọn khác, từ đó giảm sử dụng biện pháp cầm tù và nhằm tạo cơ sở hợp
lý cho những chính sách tư pháp hình sự, thông qua việc giám sát các quyền con
người, các yêu cầu công bằng xã hội cũng như nhu cầu phục hồi của người phạm
tội.
2. Phạm vi áp dụng các biện pháp
không giam giữ
2.1. Những điều khoản liên quan của các Quy tắc này
được áp dụng cho tất cả những người bị truy tố, xét xử hay thi hành án, trong
tất cả các giai đoạn của hoạt động tư pháp hình sự. Theo mục đích của các Quy
tắc này, những người này được gọi là “người phạm tội”, dù cho những người đó bị
tình nghi, bị buộc tội hay bị kết án.
2.2. Các Quy tắc này được áp dụng trên cơ sở không
có sự phân biệt về chủng tộc, màu da, giới tính, tuổi tác, ngôn ngữ, tôn giáo,
quan điểm chính trị hay các quan điểm khác, nguồn gốc xã hội hay dân tộc, tài
sản, thành phần xuất thân hay địa vị khác.
2.3. Để tăng mức độ linh hoạt phù hợp với tính chất
và mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, phù hợp với tính cách và xuất thân
của người phạm tội, cũng như phù hợp với sự bảo vệ của xã hội, và để tránh sử
dụng biện pháp cầm tù không cần thiết, hệ thống tư pháp hình sự cần đưa ra
nhiều biện pháp không giam giữ, từ giai đoạn trước khi xét xử đến giai đoạn sau
khi tuyên án. Cần phải xác định số lượng và loại hình các biện pháp không giam
giữ có thể được áp dụng sao cho việc kết án vẫn tiến hành một cách hợp lý.
2.4. Cần phải khuyến khích và theo dõi chặt chẽ
việc ban hành các biện pháp không giam giữ mới và đánh giá một cách có hệ thống
việc sử dụng những biện pháp này.
2.5. Cần xem xét việc xử lý những người phạm tội
trong cộng đồng, tránh đến mức tối đa việc sử dụng những thủ tục tố tụng hay
xét xử chính thức tại một tòa án phù hợp với các biện pháp bảo vệ pháp lý và
pháp quyền.
2.6. Cần sử dụng những biện pháp không giam giữ phù
hợp với nguyên tắc can thiệp tối thiểu.
2.7. Việc sử dụng những biện pháp không giam giữ
phải là một phần của tiến trình hướng tới bãi bỏ hình phạt và loại bỏ hành vi
đó ra khỏi số hành vi phạm tội, thay vì can thiệp hay làm trì hoãn những nỗ lực
theo hướng đó.
3. Những biện pháp bảo vệ pháp lý
3.1. Việc giới thiệu, định nghĩa và áp dụng những
biện pháp không giam giữ phải do pháp luật quy định.
3.2. Việc lựa chọn một biện pháp không giam giữ
phải dựa trên sự đánh giá theo những tiêu chuẩn đã được quy định liên quan đến
tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, tính cách, xuất thân của
người phạm tội, mục đích của bản án và các quyền của nạn nhân.
3.3. Quyền quyết định của tòa hay một cơ quan độc
lập có thẩm quyền khác được thực hiện ở tất cả các giai đoạn tố tụng trên cơ sở
chịu trách nhiệm hoàn toàn và chỉ theo đúng quy định của pháp luật.
3.4. Những biện pháp không giam giữ trong đó quy
định một nghĩa vụ mà người phạm tội phải thực hiện và được áp dụng trước khi
tiến hành các thủ tục tố tụng hoặc xét xử chính thức hoặc để thay thế các thủ
tục này thì phải được sự đồng ý của người phạm tội.
3.5. Tòa án hay một cơ quan độc lập có thẩm quyền
khác phải xem xét lại các quyết định áp dụng biện pháp không giam giữ khi có
đơn yêu cầu của người phạm tội.
3.6. Người phạm tội có quyền đề nghị hoặc khiếu nại
lên tòa án hay cơ quan độc lập có thẩm quyền về những vấn đề ảnh hưởng đến các
quyền cá nhân của mình trong việc thực hiện các biện pháp không giam giữ.
3.7. Cần phải có cơ chế phù hợp để thực hiện quyền
đòi bồi hoàn và nếu có thể, bồi thường cho những khiếu kiện liên quan đến việc
không bảo đảm các quyền con người đã được quốc tế công nhận.
3.8. Những biện pháp không giam giữ không bao gồm
các thí nghiệm y học hay tâm lý đối với người phạm tội, cũng như những biện
pháp có nguy cơ gây tổn thương về tâm lý và thể chất đối với họ.
3.9. Phẩm giá của người phạm tội chịu các biện pháp
không giam giữ phải luôn được bảo vệ.
3.10. Khi thực các biện pháp không giam giữ, các
quyền của người phạm tội không bị hạn chế hơn những gì đã được quy định trong
phán quyết ban đầu của cơ quan có thẩm quyền.
3.11. Khi áp dụng các biện pháp không giam giữ,
quyền bất khả xâm phạm đời sống riêng tư của người phạm tội cũng như của gia
đình người phạm tội phải được tôn trọng.
3.12. Hồ sơ cá nhân của người phạm tội phải được
giữ bí mật hoàn toàn và giữ kín đối với các bên thứ ba. Khả năng tiếp cận những
hồ sơ này chỉ được giới hạn trong số những người trực tiếp liên quan đến việc
xử lý vụ án hoặc những người có thẩm quyền khác.
4. Điều khoản bảo lưu
4.1. Không một quy định nào trong các Quy tắc này
được xem là cản trở việc áp dụng Các quy tắc chuẩn, tối thiểu về đối xử với tù
nhân; Các quy tắc chuẩn, tối thiểu của Liên Hợp Quốc về thi hành công lý đối
với các vụ án của người vị thành niên; Tập hợp các nguyên tắc về bảo vệ tất cả
những người bị giam hay bị cầm tù dưới bất kỳ hình thức nào; hoặc bất cứ các
văn bản pháp lý và tiêu chuẩn về quyền con người được cộng đồng quốc tế công
nhận, liên quan đến việc đối xử với những người phạm tội và bảo vệ các quyền
con người cơ bản của họ.
II. GIAI ĐOẠN TIỀN XÉT XỬ
5. Biện pháp tiền xét xử
5.1. Nếu thấy thích đáng và phù hợp với hệ thống
pháp luật, cảnh sát, cơ quan công tố hay những cơ quan khác tham gia xử lý
những vụ án hình sự cần được trao quyền tha miễn cho người phạm tội nếu xét
thấy không cần thiết khởi tố vụ án để bảo vệ xã hội, phòng ngừa tội phạm hoặc
tăng cường sự tôn trọng luật pháp và các quyền của nạn nhân. Để quyết định nên
tha miễn hay tiếp tục khởi tố vụ án, cần xây dựng một tập hợp các tiêu chuẩn
được mọi người công nhận trong mỗi hệ thống pháp luật. Đối với các vụ án nhỏ,
công tố viên có thể áp dụng các biện pháp không giam giữ thích hợp nếu xét thấy
thỏa đáng.
6. Tránh giam giữ tiền xét xử
6.1. Giam giữ trước khi xét xử được sử dụng như
phương án cuối cùng trong quá trình tố tụng hình sự, khi xét thấy cần thiết cho
việc điều tra hành vi bị coi là phạm tội và cần thiết để bảo vệ xã hội và các
nạn nhân.
6.2. Những biện pháp khác ngoài biện pháp giam giữ
trước khi xét xử phải được áp dụng càng sớm càng tốt. Thời gian giam giữ trước
khi xét xử không được lâu hơn thời gian cần thiết để đạt được những mục tiêu
nêu trong quy tắc 5.1 và phải được tiến hành một cách nhân đạo, tôn trọng nhân
phẩm vốn có của con người.
6.3. Người phạm tội có quyền kháng án lên tòa án
hoặc một cơ quan độc lập có thẩm quyền khác trong các trường hợp biện pháp giam
giữ trước khi xét xử được áp dụng.
III. GIAI ĐOẠN XÉT XỬ VÀ TUYÊN ÁN
7. Các báo cáo điều tra xã hội
7.1. Trong trường hợp có thể làm các báo cáo điều
tra xã hội, cơ quan xét xử có thể sử dụng báo cáo do một quan chức hay cơ quan
thích hợp được ủy quyền chuẩn bị. Bản báo cáo phải chứa đựng các thông tin xã
hội về người phạm tội liên quan đến cách thức phạm tội và những hành vi phạm
tội hiện thời. Báo cáo còn phải chứa đựng những thông tin và khuyến nghị liên
quan đến thủ tục kết án. Báo cáo phải nêu lên sự thật, khách quan và vô tư, trong
đó có nêu rõ ý kiến nhận xét.
8. Xác định hình phạt
8.1. Với toàn quyền sử dụng một loạt các biện pháp
không giam giữ, cơ quan xét xử khi ra quyết định cần tính đến các nhu cầu phục
hồi của người phạm tội, bảo vệ xã hội và các lợi ích của nạn nhân – những người
cần được tham khảo ý kiến khi thích hợp.
8.2. Cơ quan xét xử có thể tuyên án theo các cách
sau:
a. Sử dụng hình phạt nhắc nhở, khiển trách và cảnh
cáo;
b. Trả tự do có điều kiện;
c. Các hình phạt về nhân thân;
d. Trừng phạt kinh tế và các hình phạt tiền và phạt
tiền có thời hạn
e. Ra lệnh tịch thu hoặc sung công;
f. Ra lệnh bồi thường cho nạn nhân hoặc đền bù
thiệt hại;.
g. Hoãn thi hành án;
h. Quản chế và giám sát tư pháp.
i. Ra lệnh lao động công ích;
j. Chuyển cho trung tâm quản giáo;
k. Quản thúc tại gia;
l. Các hình thức xử lý không cách ly khác;
m. Kết hợp các biện pháp liệt kê ở trên.
IV. GIAI ĐOẠN SAU KHI TUYÊN ÁN
9. Biện pháp sau khi tuyên án
9.1. Cơ quan có thẩm quyền phải có hàng loạt các
biện pháp sau tuyên án để tránh việc giam giữ và để giúp đỡ người phạm tội
trong giai đoạn đầu tái hòa nhập với xã hội.
9.2. Những biện pháp có thể được áp dụng sau khi
tuyên án gồm:
a. Cho tạm vắng và lưu tại nhà nghỉ cho tù nhân
b. Cho tự do trong thời gian lao động hoặc học tập;
c. Các hình thức phóng thích trước thời hạn;
d. Giảm hạn tù;
e. Ân xá.
9.3. Quyết định áp dụng các biện pháp sau khi tuyên
án, ngoại trừ trường hợp ân xá, phải được tòa án hoặc một cơ quan độc lập có
thẩm quyền khác xem xét lại khi có yêu cầu của người phạm tội.
9.4. Bất cứ một hình thức trả tự do nào từ hình
thức giam giữ chuyển sang không giam giữ, phải được xem xét vào giai đoạn sớm
nhất có thể.
V. THỰC HIỆN CÁC BIỆN PHÁP KHÔNG
GIAM GIỮ
10. Giám sát
10.1. Mục đích của việc giám sát là nhằm giảm khả
năng tái phạm và giúp đỡ người phạm tội hòa nhập vào xã hội theo cách giảm
thiểu khả năng phạm tội trở lại.
10.2. Nếu một biện pháp không giam giữ đòi hỏi phải
có sự giám sát thì việc giám sát này phải do một cơ quan có thẩm quyền thực
hiện theo các điều kiện cụ thể do pháp luật quy định.
10.3. Trong khuôn khổ một biện pháp không giam giữ
cụ thể, cần xác định loại hình giám sát và xử lý phù hợp nhất cho từng trường
hợp nhằm giúp đỡ người phạm tội nhìn nhận lại hành vi phạm tội của mình. Sự
giám sát và xử lý cần được xem xét định kỳ và điều chỉnh khi cần thiết.
10.4. Khi cần thiết, phải hỗ trợ về các mặt tâm lý,
xã hội và vật chất cho người phạm tội nhằm tạo cơ hội để họ củng cố các mối
liên hệ với cộng đồng đồng thời tạo điều kiện để họ tái hòa nhập xã hội.
11. Thời hạn
11.1. Thời hạn áp dụng một biện pháp không giam giữ
không được vượt quá thời hạn đã được xác định bởi cơ quan có thẩm quyền theo
quy định của pháp luật.
11.2. Cần quy định về việc chấm dứt thực hiện hình
phạt trước thời hạn trong trường hợp người phạm tội chấp hành tốt hình phạt.
12. Các điều kiện
12.1. Trong trường hợp cơ quan có thẩm quyền xác
định các điều kiện mà người phạm tội phải tuân thủ, thì cần phải tính đến cả
những nhu cầu của xã hội, các nhu cầu và quyền của người phạm tội và nạn nhân.
12.2. Những điều kiện cần tuân thủ phải thiết thực,
chính xác và càng ít càng tốt, và được đưa ra với mục đích giảm khả năng người
phạm tội có hành vi tái phạm, tạo thêm cơ hội cho họ hòa nhập xã hội, đồng thời
phải tính đến những nhu cầu của nạn nhân.
12.3. Khi bắt đầu áp dụng biện pháp không giam giữ,
người phạm tội phải được giải thích bằng miệng và bằng văn bản về các điều kiện
chi phối việc áp dụng hình phạt, trong đó có nêu rõ nhiệm vụ và quyền của người
phạm tội.
12.4. Cơ quan có thẩm quyền có thể sửa đổi những
điều kiện theo các điều khoản do pháp luật quy định, phù hợp với sự tiến bộ của
người phạm tội.
13. Quá trình cải tạo tội phạm
13.1. Trong khuôn khổ một biện pháp không giam giữ
cụ thể, nếu thấy phù hợp, có thể thực hiện nhiều phương thức khác nhau, như
nghiên cứu theo nhóm đối tượng, tiến hành trị liệu theo nhóm, tổ chức các
chương trình ở nơi cư trú, và xây dựng những biện pháp cải tạo riêng biệt dành
cho từng nhóm tội phạm khác nhau để đáp ứng hiệu quả hơn những nhu cầu của người
phạm tội.
13.2. Việc cải tạo tội phạm cần phải được thực hiện
bởi những người có chuyên môn tiến hành - những người được đào tạo thích hợp và
có kinh nghiệm thực tế.
13.3. Khi xét thấy việc cải tạo tội phạm là cần
thiết, phải cố gắng tìm hiểu xuất thân, cá tính, năng khiếu, trí tuệ, các giá
trị của người phạm tội, và đặc biệt là những hoàn cảnh dẫn đến hành vi phạm tội.
13.4. Cơ quan có thẩm quyền có thể huy động sự tham
gia của cộng đồng và các hệ thống hỗ trợ xã hội vào quá trình thực hiện các
biện pháp không giam giữ.
13.5. Việc phân công một cán bộ phụ trách một nhóm
tội phạm cần được duy trì nếu cách làm này có tính thiết thực, ở một mức độ có
thể quản lý được, nhằm bảo đảm cho các chương trình cải tạo được thực hiện một
cách hiệu quả.
13.6. Cơ quan có thẩm quyền cần xây dựng và duy trì
hồ sơ cá nhân của từng tội phạm.
14. Kỷ luật và hành vi vi phạm
các điều kiện quy định
14.1. Một hành vi vi phạm các điều kiện quy định
của người phạm tội có thể dẫn đến việc sửa đổi hay hủy bỏ việc áp dụng biện
pháp không giam giữ.
14.2. Việc sửa đổi hay hủy bỏ việc áp dụng biện
pháp không giam giữ phải do cơ quan có thẩm quyền thực hiện. Việc này chỉ được
tiến hành sau khi đã xem xét kỹ các tình tiết mà cán bộ giám sát và người phạm
tội viện dẫn.
14.3. Việc một biện pháp không giam giữ không thực
hiện được không mặc nhiên dẫn đến việc áp dụng biện pháp giam giữ.
14.4. Trong trường hợp sửa đổi hay hủy bỏ biện pháp
không giam giữ, cơ quan có thẩm quyền phải cố gắng đề ra một biện pháp không
giam giữ thay thế phù hợp. Việc giam giữ chỉ có thể được áp dụng khi không có
những phương án thay thế thích hợp khác.
14.5.Quyền bắt và giam giữ một người phạm tội đang
trong giai đoạn bị quản giáo khi người đó vi phạm các điều kiện đặt ra phải
được pháp luật quy định.
14.6. Khi có sự sửa đổi hay hủy bỏ biện pháp không
giam giữ, người phạm tội phải có quyền kháng án lên tòa án hoặc một cơ quan độc
lập có thẩm quyền khác.
VI. ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
15. Tuyển chọn
15.1. Không có sự phân biệt đối xử trong việc tuyển
chọn cán bộ, nhân viên trên cơ sở chủng tộc, màu da, giới tính, tuổi, ngôn ngữ,
tôn giáo, quan điểm chính trị hay các quan điểm về các lĩnh vực, nguồn gốc dân
tộc hoặc xã hội, tài sản, thành phần xuất thân hay địa vị khác. Chính sách về
tuyển chọn cán bộ, nhân viên cần phải phù hợp với các chính sách quốc gia và
phản ánh tính đa dạng của những người phạm tội cần phải giám sát.
15.2. Những người được chỉ định áp dụng các biện
pháp không giam giữ phải là những người có tư chất phù hợp, và nếu có thể, được
đào tạo đầy đủ về chuyên môn và có kinh nghiệm thực tế. Những tiêu chuẩn này
phải được quy định một cách cụ thể.
15.3. Để tìm và giữ được các cán bộ, nhân viên có
chuyên môn tốt, cần phải bảo đảm quy chế làm việc thích hợp, lương đầy đủ, các
quyền lợi tương xứng với tính chất của công việc và tạo ra các cơ hội để nâng
cao trình độ chuyên môn và phát triển nghề nghiệp.
16. Đào tạo cán bộ, nhân viên
16.1. Mục đích đào tạo là phải làm cho cán bộ, nhân
viên nhận thức rõ trách nhiệm của họ đối với việc cải tạo người phạm tội, bảo
đảm các quyền của người phạm tội và bảo vệ xã hội. Đồng thời, trong quá trình
đào tạo, cần làm cho cán bộ nhân viên hiểu được sự cần thiết phải hợp tác và
phối hợp các hoạt động với các cơ quan liên quan.
16.2. Trước khi vào làm việc, cán bộ, nhân viên
phải được đào tạo về các nội dung gồm bản chất của những biện pháp không giam
giữ, các mục đích giám sát và những phương thức áp dụng các biện pháp không
giam giữ khác nhau.
16.3. Sau khi vào làm việc, cán bộ, nhân viên phải
duy trì và nâng cao kiến thức, trình độ chuyên môn thông qua việc tham dự dự
các khóa đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ. Phải bảo đảm đầy đủ các điều kiện để
thực hiện được mục đích này.
VII. CÁC TÌNH NGUYỆN VIÊN VÀ CÁC
NGUỒN LỰC KHÁC TRONG CỘNG ĐỒNG
17. Sự tham gia của công chúng
17.1. Cần khuyến khích sự tham gia của công chúng
vì đó là nguồn lực chủ yếu và là một trong những yếu tố quan trọng nhất để cải
thiện mối quan hệ giữa người phạm tội đang phải chịu các biện pháp không giam
giữ với gia đình và cộng đồng. Sự tham gia của công chúng sẽ hỗ trợ cho việc
thi hành hoạt động tư pháp hình sự.
17.2. Sự tham gia của công chúng cần phải được xem
như một cơ hội để các thành viên của cộng đồng góp phần bảo vệ xã hội.
18. Sự hiểu biết và hợp tác của
công chúng
18.1. Cần phải khuyến khích các cơ quan của chính
phủ, khu vực tư nhân và quảng đại quần chúng hỗ trợ các tổ chức tình nguyện
trong việc đẩy mạnh áp dụng các biện pháp không giam giữ.
18.2. Cần phải tổ chức thường xuyên các hội nghị,
hội thảo, và những hoạt động khác để nâng cao nhận thức của công chúng về sự
cần thiết phải tham gia vào việc áp dụng các biện pháp không giam giữ.
18.3. Cần phải sử dụng tất cả các phương tiện thông
tin đại chúng để giúp hình thành quan điểm có tính xây dựng trong công chúng,
từ đó dẫn đến các hoạt động có ích, tạo điều kiện áp dụng rộng rãi hơn biện
pháp cải tạo không giam giữ và giúp người phạm tội hòa nhập xã hội.
18.4. Cần phải nỗ lực bằng mọi cách thông báo cho
công chúng về tầm quan trọng và vai trò của quần chúng trong việc thực hiện các
biện pháp không giam giữ.
19. Các tình nguyện viên
19.1. Cần sàng lọc và tuyển chọn các tình nguyện
viên trên cơ sở khả năng và mối quan tâm của họ đối với công việc. Các tình
nguyện viên phải được đào tạo phù hợp để thực hiện các nhiệm vụ cụ thể mà họ
được giao phó và phải được hỗ trợ, tư vấn và có điều kiện tham khảo ý kiến của
cơ quan có thẩm quyền.
19.2. Các tình nguyện viên cần khuyến khích những
người phạm tội và gia đình họ phát triển những mối quan hệ có ý nghĩa đối với
cộng đồng, đồng thời mở rộng phạm vi tiếp xúc bằng cách đưa ra những hướng dẫn
và các hình thức hỗ trợ thích hợp tùy theo khả năng của họ và phù hợp với nhu
cầu của người phạm tội.
19.3. Các tình nguyện viên phải được bảo hiểm tai
nạn, thương tích và trách nhiệm pháp lý khi thực hiện nhiệm vụ. Họ phải được
hoàn trả các chi tiêu được phép diễn ra trong quá trình thực hiện công việc.
Cần có sự ghi nhận của công chúng đối với những việc mà họ đã làm vì hạnh phúc
của cộng đồng.
VIII. NGHIÊN CỨU, LẬP KẾ HOẠCH,
XÂY DỰNG VÀ ĐÁNH GIÁ CHÍNH SÁCH
20. Nghiên cứu và lập kế hoạch
20.1. Cần phải cố gắng vận động các cơ quan công
quyền và tư nhân tham gia vào việc tổ chức và xúc tiến nghiên cứu về biện pháp
cải tạo không giam giữ đối với người phạm tội – đây là yếu tố cần thiết cho quá
trình lập kế hoạch.
20.2. Cần thường xuyên nghiên cứu về những vấn đề
mà các khách hàng, những người hành nghề, cộng đồng và các nhà hoạch định chính
sách phải đối mặt.
20.3. Cần xây dựng các cơ chế nghiên cứu và cung
cấp thông tin trong hệ thống tư pháp hình sự để thu thập, phân tích dữ liệu và
các số liệu thống kê về việc thực hiện biện pháp cải tạo không giam giữ đối với
người phạm tội.
21. Xây dựng chính sách và thực
hiện chương trình
21.1. Các chương trình áp dụng những biện pháp
không giam giữ phải được xây dựng và thực hiện một cách có hệ thống, như một bộ
phận không thể tách rời của hệ thống tư pháp về hình sự trong quá trình phát
triển đất nước.
21.2. Cần tiến hành đánh giá thường xuyên nhằm nâng
cao hiệu quả của việc thực hiện các biện pháp không giam giữ.
21.3. Cần tiến hành tổng kết thường kỳ để đánh giá
những mục tiêu, hoạt động và hiệu quả của các biện pháp không giam giữ.
22. Mối liên hệ với các cơ quan
liên quan và các hoạt động có liên quan
22.1. Cần xây dựng cơ chế phù hợp ở các cấp khác
nhau nhằm tạo điều kiện cho việc thiết lập các mối liên hệ giữa các cơ quan
chịu trách nhiệm thực hiện các biện pháp không giam giữ, các bộ phận khác trong
hệ thống tư pháp hình sự, các cơ quan phúc lợi và phát triển xã hội, cả của
chính phủ và phi chính phủ, trong những lĩnh vực như y tế, nhà ở, giáo dục, lao
động và thông tin đại chúng.
23. Hợp tác quốc tế
23.1. Cần phải cố gắng đẩy mạnh hợp tác khoa học
giữa các quốc gia trong lĩnh vực cải tạo không giam giữ. Công tác nghiên cứu,
đào tạo, hỗ trợ kỹ thuật và trao đổi thông tin giữa các Quốc gia thành viên về
những biện pháp không giam giữ cần phải được tăng cường, thông qua các cơ quan
của Liên Hợp Quốc về phòng chống tội phạm và cải tạo tội phạm, phối hợp chặt
chẽ với Bộ phận phòng chống tội phạm và Tư pháp hình sự của Trung tâm phát
triển xã hội và các vấn đề nhân đạo thuộc Ban thư ký Liên Hợp Quốc.
23.2. Cần đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên cứu so
sánh và hài hòa các quy định pháp lý để mở rộng các phương án lựa chọn biện
pháp không giam giữ và tạo điều kiện áp dụng các biện pháp này giữa các quốc
gia, theo Hiệp ước kiểu mẫu về chuyển giao quyền giám sát người phạm tội hưởng
án treo hoặc được trả tự do có điều kiện.