CÁC
NGUYÊN TẮC BẢO VỆ NGƯỜI MẮC BỆNH TÂM THẦN VÀ CẢI THIỆN VIỆC CHĂM SÓC SỨC KHỎE
TÂM THẦN, 1991
(Được Đại Hội đồng
thông qua trong Nghị quyết số 46/119 ngày 17/12/1991).
ÁP DỤNG
Các Nguyên tắc này sẽ được áp dụng mà không có phân
biệt đối xử dưới bất kỳ hình thức nào về khuyết tật, chủng tộc, màu da, giới
tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hay quan điểm khác, nguồn gốc quốc
gia, dân tộc hay xã hội, địa vị pháp lý hay địa vị xã hội, tuổi tác, tài sản
hay dòng dõi.
ĐỊNH NGHĨA
Trong các Nguyên tắc này:
“Luật sư” được hiểu là người đại diện pháp lý hay
người đại diện đủ năng lực;
“Nhà chức trách độc lập” được hiểu là cơ quan độc lập
và có thẩm quyền theo quy định của luật quốc gia;
“Chăm sóc sức khỏe tâm thần” bao gồm việc phân tích
và chẩn đoán tình trạng tâm thần của một người, và điều trị, chăm sóc và phục hồi
chức năng đối với bệnh tâm thần hay trường hợp bị nghi là bệnh tâm thần;
“Cơ sở sức khỏe tâm thần” được hiểu là bất cứ cơ sở
hay đơn vị của cơ sở nào có chức năng chính là chăm sóc sức khỏe tâm thần;
“Bác sỹ sức khỏe tâm thần” được hiểu là bác sỹ y tế,
nhà tâm lý học trị bệnh, y tá, nhân viên công tác xã hội hay những người được
đào tạo thích hợp và có đủ trình độ chuyên môn với kỹ năng cụ thể liên quan tới
chăm sóc sức khỏe tâm thần;
“Bệnh nhân” là người được chăm sóc sức khỏe tâm thần
và bao gồm tất cả những người được đưa vào cơ sở chăm sóc sức khỏe tâm thần;
“Đại diện cá nhân” là người được luật pháp quy định
có trách nhiệm đại diện cho quyền lợi của bệnh nhân về bất cứ phương diện được
quy định cụ thể nào hoặc đại diện cho bệnh nhân thực thi các quyền được quy định
cụ thể, và gồm có cha mẹ hoặc người giám hộ hợp pháp của trẻ vị thành niên trừ
khi luật quốc gia quy định khác;
“Cơ quan đánh giá” là cơ quan được thành lập theo
Nguyên tắc 17 để xem xét lại việc đưa bệnh nhân vào hoặc giữ bệnh nhân trong cơ
sở sức khỏe tâm thần một cách không tự nguyện.
Điều khoản hạn chế chung
Việc thực thi những quyền được nêu ra trong các
Nguyên tắc này có thể chỉ phải chịu những giới hạn do luật pháp quy định và cần
thiết để bảo vệ sức khỏe hay sự an toàn của người có liên quan hoặc của những
người khác, hoặc nếu không thì bảo vệ an toàn, trật tự, sức khỏe hay đạo đức
công cộng hay các quyền và tự do cơ bản của những người khác.
Nguyên tắc 1: Các quyền và tự do
cơ bản
1. Tất cả mọi người có quyền được chăm sóc sức khỏe
tâm thần tốt nhất sẵn có, mà sẽ là một phần của hệ thống chăm sóc sức khỏe và
xã hội.
2. Tất cả những người mắc bệnh tâm thần, hoặc bị đối
xử như người mắc bệnh tâm thần, sẽ được đối xử bằng sự nhân đạo và tôn trọng đối
với phẩm giá vốn có của một con người.
3. Tất cả những người mắc bệnh tâm thần, hay những
người bị đối xử như người mắc bệnh tâm thần có quyền được bảo vệ chống lại các
hình thức bóc lột về kinh tế, tình dục và các hình thức bóc lột khác, lạm dụng
thể chất hay các hình thức lạm dụng hay sỉ nhục khác.
4. Sẽ không có sự phân biệt đối xử nào vì lý do mắc
bệnh tâm thần. “Đối xử phân biệt” là bất cứ sự phân biệt, loại trừ hay thiên vị
nào làm vô hiệu hóa hay làm giảm việc thụ hưởng các quyền một cách bình đẳng.
Các biện pháp đặc biệt nhằm bảo vệ các quyền hay đảm bảo sự tiến bộ của người mắc
bệnh tâm thần sẽ không được coi là phân biệt đối xử. Việc phân biệt đối xử
không bao gồm bất cứ sự phân biệt, loại trừ hay thiên vị nào được thực hiện
theo nội dung của các Nguyên tắc này và khi việc làm này là cần thiết để bảo vệ
nhân quyền của người mắc bệnh tâm thần hoặc của các cá nhân khác.
5. Mọi người mắc bệnh tâm thần đều có quyền thực
thi mọi quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa đã được công nhận
trong Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền, Công ước Quốc tế về các Quyền
Kinh tế, Xã hội và Văn hóa, Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị
và trong các văn kiện có liên quan khác, ví như Tuyên ngôn về Quyền của Người
khuyết tật và Toàn bộ các Nguyên tắc Bảo vệ Tất cả mọi người đang phải chịu bất
cứ Hình thức Giam cầm hoặc Tù đày nào.
6. Với quyết định tuyên bố một người mất năng lực
pháp lý vì mắc bệnh tâm thần hoặc quyết định tuyên bố phải chỉ định người đại
diện cá nhân vì một người nào đó bị mất năng lực pháp lý do mắc bệnh tâm thần,
thì những quyết định này chỉ có thể đưa ra sau một phiên xét xử công bằng do một
tòa chuyên trách độc lập và vô tư tiến hành và tòa án này phải được thành lập
theo quy định của luật quốc gia. Người có vấn đề về năng lực pháp luật phải có luật
sư đại diện. Nếu người có vấn đề về năng lực không tự tìm được đại diện cho
mình, thì người đó được hưởng đại diện miễn phí chừng nào không đủ phương tiện
để thanh toán cho việc đại diện này. Trong cùng một vụ kiện, luật sư sẽ không đồng
thời đại diện cho cả cơ sở sức khỏe tâm thần hay nhân sự của cơ sở này và thành
viên của gia đình người có vấn đề về năng lực trừ khi tòa án thấy rằng giữa họ
không có mâu thuẫn về lợi ích. Các quyết định liên quan đến năng lực và sự cần
thiết phải có người đại diện cá nhân sẽ được xem xét tại những khoảng thời gian
hợp lý do luật quốc gia quy định. Người có vấn đề về năng lực, đại diện cá nhân
của người đó, nếu có, và bất cứ những người có liên quan khác sẽ có quyền kháng
án lên tòa án cao hơn về những quyết định này.
7. Trong trường hợp tòa án hay một tòa chuyên trách
có thẩm quyền khác nhận thấy rằng người mắc bệnh tâm thần không thể tự mình giải
quyết các vấn đề riêng, thì các biện pháp sẽ được tiến hành ở mức cần thiết và
thích hợp với hoàn cảnh của người đó, nhằm đảm bảo bảo vệ quyền lợi cho người
đó.
Nguyên tắc 2: Bảo vệ trẻ vị thành
niên
Cần chú ý đặc biệt tới việc bảo vệ trẻ vị thành
niên, trong phạm vi mục đích của những Nguyên tắc này và trong phạm vi luật quốc
gia, để bảo vệ quyền cho nhóm đối tượng này, bao gồm, nếu cần thiết, việc chỉ định
người đại diện cá nhân không phải là thành viên gia đình trẻ vị thành niên.
Nguyên tắc 3: Cuộc sống trong cộng
đồng
Mọi người mắc bệnh tâm thần đều có quyền sống và
làm việc trong cộng đồng trong phạm vi người đó có thể thực hiện.
Nguyên tắc 4: Xác định bệnh tâm thần
1. Việc xác định một người mắc bệnh tâm thần sẽ được
tiến hành theo các tiêu chuẩn y tế đã được quốc tế chấp nhận.
2. Việc xác định bệnh tâm thần không bao giờ được
tiến hành trên cơ sở địa vị chính trị, kinh tế hay xã hội hoặc tư cách thành
viên của nhóm văn hóa, chủng tộc hoặc tôn giáo, hay vì bất cứ lý do nào khác
không liên quan trực tiếp đến tình trạng sức khỏe tâm thần.
3. Mâu thuẫn gia đình hay nghề nghiệp, hoặc việc
không tuân thủ các giá trị đạo đức, xã hội, văn hóa hay chính trị hoặc các tín
ngưỡng tôn giáo phổ biến trong cộng đồng không bao giờ là yếu tố quyết định
trong việc chẩn đoán bệnh tâm thần.
4. Việc một người đã từng được điều trị hay nằm viện
trong quá khứ bản thân nó không thể biện minh cho bất cứ hành động xác định bệnh
tâm thần nào ở hiện tại hoặc trong tương lai.
5. Không một cá nhân hay cơ quan nào được phép xếp
một người vào số những người mắc bệnh tâm thần, hoặc chỉ ra người đó mặc bệnh
tâm thần, trừ khi vì những mục đích liên quan trực tiếp đến bệnh tâm thần hoặc
các hậu quả của bệnh tâm thần.
Nguyên tắc 5: Kiểm
tra y tế
Không một ai có thể bị buộc kiểm tra
y tế với mục đích xác định xem người đó có mắc bệnh tâm thần hay không trừ khi
tuân theo quy trình được luật quốc gia cho phép.
Nguyên tắc 6: Bảo mật
Quyền bảo mật thông tin liên quan đến
tất cả những người mà được áp dụng các Nguyên tắc này phải được tôn trọng.
Nguyên tắc 7: Vai
trò của cộng đồng và văn hóa
1. Mỗi bệnh nhân sẽ có quyền được điều
trị và chăm sóc, trong mức độ có thể, trong cộng đồng nơi bệnh nhân đó sinh sống.
2. Trong trường hợp việc điều trị xảy
ra ở cơ sở sức khỏe tâm thần, bệnh nhân có quyền, bất cứ khi nào có thể, được điều
trị gần người thân hoặc bạn bè và có quyền quay lại cộng đồng sớm nhất có thể.
3. Mọi bệnh nhân có quyền được đối xử
phù hợp với nền tảng văn hóa của họ.
Nguyên tắc 8: Tiêu
chuẩn chăm sóc
1. Mọi bệnh nhân có quyền được sự
chăm sóc sức khỏe và xã hội phù hợp với nhu cầu sức khỏe của họ, và có quyền được
chăm sóc và điều trị theo cùng tiêu chuẩn như những người bệnh khác.
2. Mọi bệnh nhân phải được bảo vệ chống
lại tác hại, bao gồm thuốc không rõ xuất xứ, hay sự lạm dụng mà các bệnh nhân,
nhân viên hay những người khác gây ra, hay các hành động khác gây ức chế thần
kinh hoặc khó chịu về thể chất.
Nguyên tắc 9: Điều
trị
1. Mọi bệnh nhân có quyền được điều
trị trong môi trường bị giới hạn ít nhất và với hình thức điều trị ít giới hạn
hay ít bị xâm phạm nhất phù hợp với nhu cầu sức khỏe của bệnh nhân và nhu cầu bảo
vệ an toàn thể chất của những người khác.
2. Mỗi bệnh nhân sẽ được điều trị và
chăm sóc theo một phác đồ riêng. Phác đồ này phải được thảo luận với bệnh nhân,
được đánh giá thường xuyên, và điều chỉnh nếu cần thiết và phác đồ này phải do
nhân viên chuyên môn có trình độ dựng nên.
3. Chăm sóc sức khỏe tâm thần phải
luôn được tiến hành theo các tiêu chuẩn đạo đức có thể áp dụng đối với các bác
sỹ sức khỏe tâm thần, bao gồm các tiêu chuẩn được quốc tế chấp nhận ví dụ như
các Nguyên tắc Y đức được Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua. Không được lạm
dụng kiến thức và kỹ năng sức khỏe tâm thần.
4. Việc điều trị cho mỗi bệnh nhân phải
hướng tới duy trì và tăng cường tính tự chủ của cá nhân.
Nguyên tắc 10: Thuốc
1. Thuốc chữa bệnh phải đáp ứng nhu cầu
sức khỏe tốt nhất cho bệnh nhân, chỉ được đưa cho bệnh nhân với mục đích chữa bệnh
hay chẩn đoán và không bao giờ được dùng như là hình phạt hay vì sự tiện lợi
cho những người khác. Theo các quy định của đoạn 15 thuộc Nguyên tắc 11, bác sỹ
sức khỏe tâm thần chỉ được kê những thuốc mà tác dụng của nó đã được biết đến
rõ ràng hoặc đã được chứng minh.
2. Mọi loại thuốc chữa bệnh phải do
bác sỹ sức khỏe tâm thần có thẩm quyền kê đơn, và phải được ghi vào bệnh án.
Nguyên tắc 11: Đồng
ý điều trị
1. Việc điều trị sẽ không tiến hành nếu
không nhận được sự chấp thuận có lý trí của bệnh nhân, trừ những trường hợp quy
định ở các đoạn 6, 7, 8, 13 và 15 dưới đây.
2. Sự chấp thuận có lý trí là sự đồng
ý tự do, không bị bất kỳ sự đe dọa hay xúi giục không hợp lý nào, sau khi bệnh
nhân đã được thông tin một cách đầy đủ và phù hợp bằng hình thức và ngôn ngữ mà
bệnh nhân có thể hiểu về :
a. Đánh giá chẩn đoán;
b. Mục đích, phương pháp, thời gian dự
kiến và ích lợi mong đợi của việc điều trị được đề xuất;
c. Các hình thức điều trị khác nhau,
bao gồm các hình thức ít xâm phạm hơn; và
d. Những đau đớn và khó chịu, các rủi
ro và tác dụng phụ mà việc điều trị được theo hình thức đề xuất có thể gây ra.
3. Bệnh nhân có thể yêu cầu sự có mặt
của một hoặc nhiều người mà bệnh nhân lựa chọn trong quá trình đồng ý chữa bệnh.
4. Bệnh nhân có quyền từ chối hoặc ngừng
điều trị, trừ những trường hợp theo quy định tại các đoạn 6, 7, 8, 13 và 15 dưới
đây. Bệnh nhân phải được giải thích về hậu quả của việc từ chối hoặc ngừng điều
trị.
5. Không bao giờ được yêu cầu hay xúi
giục bệnh nhân từ bỏ quyền đưa ra sự chấp thuận có lý trí. Nếu bệnh nhân cố gắng
làm như vậy, thì phải giải thích cho họ hiểu rằng việc điều trị sẽ không thể diễn
ra nếu họ không đồng ý một cách có lý trí.
6. Trừ những trường hợp quy định ở
các đoạn 7, 8, 12, 13, 14 và 15 dưới đây, phác đồ điều trị đề xuất sẽ được dùng
cho bệnh nhân mà không cần sự chấp thuận có lý trí của họ nếu thỏa mãn các điều
kiện sau:
a. Tại thời điểm có liên quan, bệnh
nhân bị coi là bệnh nhân không
tự nguyện;
b. Nhà chức trách độc lập, sở hữu mọi
thông tin có liên quan, bao gồm thông tin được quy định cụ thể trong đoạn 2 ở
trên, có cơ sở tin rằng, vào thời điểm có liên quan, bệnh nhân thiếu năng lực để
đưa ra hoặc từ chối đưa sự chấp thuận có lý trí đối với phác đồ điều trị đề xuất
hoặc, nếu luật quốc gia quy định rằng: khi tính đến sự an toàn của bản thân bệnh
nhân hoặc sự an toàn của những người khác, bệnh nhân từ chối sự chấp thuận có
lý trí một cách bất hợp lý; và
c. Nhà chức trách độc lập có cơ sở
tin rằng phác đồ điều trị đề xuất mang lại lợi ích tốt nhất cho nhu cầu sức khỏe
của bệnh nhân.
7. Đoạn 6 ở trên không áp dụng cho bệnh
nhân có đại diện cá nhân được luật pháp trao quyền đưa ra chấp thuận điều trị
cho bệnh nhân; nhưng, trừ những trường hợp quy định ở các đoạn 12, 13, 14 và 15
dưới đây, việc điều trị có thể tiến hành mà không cần sự chấp thuận có lý trí của
bệnh nhân nếu như người đại diện cá nhân, sau khi đã được cung cấp thông tin
như quy định trong đoạn 2 ở trên, thay mặt cho bệnh nhân đó chấp thuận điều trị.
8. Trừ những trường hợp quy định ở
các đoạn 12, 13, 14 và 15 dưới đây, việc điều trị có thể được tiến hành với bất
kỳ bệnh nhân nào mà không cần sự chấp thuận có lý trí của họ nếu một bác sỹ sức
khỏe tâm thần có trình độ chuyên môn được pháp luật cho phép xác định rằng cần
ngay lập tức ngăn chặn tổn hại tức thời hoặc tổn hại sắp xảy ra với bệnh nhân
hay người khác.
9. Trong trường hợp việc điều trị được
phép tiến hành mà không cần sự đồng ý có lý trí của bệnh nhân, thì vẫn cần cố gắng
thông báo cho bệnh nhân về bản chất việc điều trị cũng như các giải pháp thay
thế có thể áp dụng, và để bệnh nhân tham gia trong phạm vi có thể vào việc xây
dựng phác đồ điều trị.
10. Mọi hình thức điều trị phải được
ghi ngay vào bệnh án của bệnh nhân, nói rõ việc điều trị đó là tự nguyện hay
không tự nguyện.
11. Không được áp dụng biện pháp kìm
hãm thể xác hay ép buộc cách ly, trừ trường hợp do pháp luật quy định cho các
cơ sở sức khỏe tâm thần và chỉ khi đó là biện pháp duy nhất hiện có nhằm ngăn
chặn tổn hại tức thời hoặc sắp xảy đến cho bệnh nhân và những người khác. Những
biện pháp trên không được kéo dài quá khoảng thời gian thực sự cần thiết cho mục
đích này. Mọi trường hợp kìm hãm về thể xác hay ép buộc cách ly, lý do thực hiện
những biện pháp này, bản chất và mức độ áp dụng phải được ghi trong bệnh án của
bệnh nhân. Trong trường hợp bị kiềm chế hay cách ly, bệnh nhân phải được đối xử
nhân đạo và được các nhân viên có trình độ chuyên môn chăm sóc, giám sát chặt
chẽ và thường xuyên. Đại diện cá nhân, nếu có và nếu phù hợp, phải được thông
báo kịp thời về bất kỳ hoạt động kìm hãm thể xác hay ép buộc cách ly đối với bệnh
nhân.
12. Triệt sản không bao giờ được tiến
hành như là biện pháp chữa bệnh tâm thần.
13. Chỉ có thể tiến hành một quy
trình y khoa hay phẫu thuật quan trọng trên người mắc bệnh tâm thần khi luật quốc
gia cho phép, khi xét thấy đó là quy trình tốt nhất cho nhu cầu sức khỏe của bệnh
nhân và khi bệnh nhân chấp thuận một cách có lý trí, trừ khi bệnh nhân không thể
đưa ra sự chấp thuận có lý trí thì quy trình này sẽ chỉ được phép tiến hành sau
khi được đánh giá một cách độc lập.
14. Phẫu thuật não và các biện pháp điều
trị mang tính xâm nhập và không thể khắc phục khác đối với bệnh tâm thần không
bao giờ được áp dụng trên bệnh nhân không tự nguyện trong cơ sở sức khỏe tâm thần
và, trong chừng mực pháp luật quốc gia cho phép, những ca phẫu thuật và biện
pháp điều trị này chỉ có thể được sử dụng khi bệnh nhân đã đồng ý một cách có
lý trí và một cơ quan độc lập bên ngoài có cơ sở tin rằng sự chấp thuận có lý
trí này là thật và rằng phương pháp điều trị này đáp ứng tốt nhất nhu cầu sức
khỏe của bệnh nhân.
15. Các cuộc thử nghiệm y tế và điều
trị thử nghiệm không bao giờ được tiến hành trên bệnh nhân mà không có sự chấp
thuận có lý trí của họ, trừ khi bệnh nhân không thể đồng ý một cách có lý trí
nhưng khi đó phải có sự đồng ý của cơ quan đánh giá độc lập có thẩm quyền, được
thành lập dành riêng cho mục đích này.
16. Trong các trường hợp quy định tại
các đoạn 6, 7, 8, 13, 14 và 15 ở trên, bệnh nhân hay người đại diện cá nhân của
họ, hay bất cứ ai liên quan có quyền khiếu nại lên cơ quan xét xử hoặc nhà chức
trách độc lập khác về biện pháp điều trị được sử dụng cho bệnh nhân đó.
Nguyên tắc 12:
Thông báo về quyền
1. Bệnh nhân trong cơ sở sức khỏe tâm
thần phải được thông báo sớm nhất có thể sau khi nhập viện, bằng hình thức và
ngôn ngữ mà bệnh nhân hiểu, về các quyền của họ phù hợp với các Nguyên tắc này
và theo luật quốc gia. Thông tin mà bệnh nhân nhận được phải bao gồm cả phần giải
thích các quyền và cách thực thi những quyền đó.
2. Nếu bệnh nhân không thể hiểu những
thông tin này, các quyền của bệnh nhân sẽ được thông báo tới người đại diện cá
nhân của bệnh nhân, nếu có và nếu phù hợp, và tới một hoặc nhiều người có thể đại
diện tốt nhất cho quyền lợi của bệnh nhân và sẵn lòng làm việc này.
3. Bệnh nhân có năng lực cần thiết có
quyền tiến cử người thay mặt bệnh nhân nhận thông tin và người sẽ đại diện cho
quyền lợi của mình trước những người có thẩm quyền trong cơ sở sức khỏe tâm thần.
Nguyên tắc 13: Quyền
và điều kiện trong cơ sở sức khỏe tâm thần
1. Mọi bệnh nhân trong cơ sở sức khỏe
tâm thần có quyền được tôn trọng đầy đủ về:
a. Sự công nhận anh ta / cô ta là một
cá nhân trước pháp luật ở mọi nơi;
b. Sự riêng tư;
c. Tự do giao tiếp, bao gồm tự do
giao tiếp với những người khác trong cơ sở; tự do gửi và nhận các phương tiện
liên lạc riêng tư mà không bị kiểm duyệt; tự do, dưới hình thức riêng tư, nhận
các cuộc viếng thăm của luật sư hay người đại diện cá nhân và, tại mọi thời điểm
hợp lý, của những người khách khác; và tự do tiếp cận các dịch vụ bưu chính, điện
thoại và báo, đài và tivi;
d. Tự do tôn giáo hoặc tín ngưỡng.
2. Môi trường và điều kiện sống trong
các cơ sở sức khỏe tâm thần phải gần nhất có thể với môi trường và điều kiện sống
bình thường của những người cùng độ tuổi và cụ thể là phải bao gồm:
a. Cơ sở vật chất vui chơi giải trí
và thư giãn;
b. Cơ sở vật chất dành cho giáo dục;
c. Cơ sở vật chất để mua hoặc nhận
các vật dụng cho cuộc sống hàng ngày, vui chơi giải trí và thông tin liên lạc;
d. Cơ sở vật chất, và khuyến khích bệnh
nhân sử dụng những cơ sở vật chất này, để bệnh nhân tích cực tham gia làm công
việc phù hợp với nền tảng văn hóa - xã hội của họ, và để phục vụ các biện pháp
phục hồi chức năng nghề nghiệp thích hợp nhằm thúc đẩy việc tái hòa nhập cộng đồng.
Các biện pháp này phải bao gồm chỉ dẫn nghề nghiệp, đào tạo nghề và các dịch vụ
sắp xếp việc làm giúp các bệnh nhân có thể đảm bảo hoặc giữ được việc làm trong
cộng đồng.
3. Trong mọi trường hợp bệnh nhân sẽ
không phải lao động bắt buộc. Trong giới hạn phù hợp với nhu cầu của bệnh nhân
và với các yêu cầu quản trị thể chế, bệnh nhân có thể chọn loại công việc mà họ
muốn làm.
4. Không được phép bóc lột sức lao động
của bệnh nhân trong cơ sở sức khỏe tâm thần. Mỗi bệnh nhân bị lao động như vậy
có quyền nhận cùng mức thù lao như người không bị bệnh theo pháp luật hoặc tập
quán trong nước. Mỗi bệnh nhân, trong bất cứ trường hợp nào, có quyền nhận phần
thù lao công bằng được trả cho cơ sở sức khỏe tâm thần vì công việc bệnh nhân
đó làm.
Nguyên tắc 14: Các
nguồn lực dành cho cơ sở sức khỏe tâm thần
1. Cơ sở sức khỏe tâm thần phải được
tiếp cận cùng mức độ nguồn lực như bất kỳ cơ sở sức khỏe nào khác và cụ thể như
sau:
a. Nhân viên y tế có trình độ và các
nhân viên chuyên môn phù hợp khác với số lượng đầy đủ và không gian đủ rộng để
bệnh nhân có khoảng riêng tư và một chương trình chữa trị tích cực và thích hợp;
b. Thiết bị chẩn đoán và chữa trị cho
bệnh nhân;
c. Chăm sóc chuyên nghiệp thích hợp;
và
d. Điều trị đầy đủ, thường xuyên và
toàn diện bao gồm cả việc cấp thuốc.
2. Mọi cơ sở sức khỏe tâm thần sẽ bị
các cơ quan có thẩm quyền kiểm tra với tần suất đủ để đảm bảo rằng các điều kiện,
việc điều trị và chăm sóc bệnh nhân đều tuân thủ các Nguyên tắc này.
Nguyên tắc 15: Các
nguyên tắc tiếp nhận bệnh nhân
1. Trong trường hợp một người cần điều
trị trong cơ sở sức khỏe tâm thần, cần cố gắng tránh ép bệnh nhân vào điều trị.
2. Việc tiếp cận cơ sở sức khỏe tâm
thần sẽ được thực hiện giống như tiếp cận bất cứ cơ sở chữa trị các bệnh nào
khác.
3. Mọi bệnh nhân tự nguyện vào cơ sở
để điều trị có quyền rời cơ sở sức khỏe tâm thần bất cứ lúc nào trừ khi áp dụng
các tiêu chí về việc giữ lại bệnh nhân không tự nguyện, như được nêu trong
Nguyên tắc 16, và khi đó bệnh nhân phải được thông báo về quyền này.
Nguyên tắc 16: Nhập
viện bắt buộc
1. Một người có thể (a) bị buộc phải
vào một cơ sở sức khỏe tâm thần; hoặc (b) đã tự nguyện trở thành bệnh nhân
trong một cơ sở sức khỏe tâm thần, nhưng sau đó bị buộc phải ở lại, khi và chỉ
khi bác sỹ sức khỏe tâm thần có trình độ được pháp luật cho phép xác định, phù
hợp với Nguyên tắc 4, rằng người này mắc bệnh tâm thần và xem xét thấy rằng:
a. Do bị bệnh tâm thần nên người đó
có nguy cơ bị nguy hại tức thì hoặc sắp bị nguy hiểm hoặc có khả năng nguy hại
sẽ xảy đến với người khác; hoặc
b. Trong trường hợp người mắc bệnh
tâm thần nặng và khả năng phán đoán của người này bị suy yếu, nếu không đưa người
này vào cơ sở tâm thần hoặc không giữ họ lại trong cơ sở sẽ có thể khiến tình
trạng của bệnh nhân xấu đi một cách trầm trọng hoặc sẽ cản trở việc tiến hành
biện pháp điều trị thích hợp mà chỉ khi người đó ở trong cơ sở sức khỏe tâm thần
mới có thể chữa được như vậy, phù hợp với nguyên tắc biện pháp thay thế ít kìm
chế nhất.
Trong trường hợp được nhắc tới ở tiểu
đoạn (b), nếu có thể, nên tham khảo ý kiến của một bác sỹ sức khỏe tâm thần thứ
hai, độc lập với bác sỹ sức khỏe tâm thần thứ nhất. Nếu việc tham khảo ý kiến
như vậy diễn ra, thì không thể buộc bệnh nhân vào cơ sở tâm thần điều trị hoặc
giữ bệnh nhân lại đó nếu bác sỹ sức khỏe tâm thần thứ hai không đồng ý với bác
sỹ sức khỏe tâm thần thứ nhất.
2. Việc ép buộc vào cơ sở sức khỏe
tâm thần điều trị hoặc giữ lại bệnh nhân không tự nguyện trước tiên phải diễn
ra trong khoảng thời gian ngắn theo luật quốc gia quy định để theo dõi và điều
trị sơ bộ, và cơ quan đánh giá tạm hoãn đánh giá việc tiếp nhận hay lưu giữ bệnh
nhân này. Nguyên do của việc đưa người bệnh vào cơ sở điều trị phải được thông
báo ngay cho bệnh nhân, và những thông tin liên quan đến việc đưa bệnh nhân vào
cơ sở tâm thần điều trị cũng phải được thông báo nhanh chóng và chi tiết cho cơ
quan đánh giá, và cho người đại diện cá nhân của bệnh nhân, nếu có, và cho gia
đình của bệnh nhân nếu bệnh nhân không phản đối.
3. Cơ sở sức khỏe tâm thần chỉ có thể
tiếp nhận bệnh nhân không tự nguyện nếu cơ sở đó được một cơ quan có thẩm quyền
chỉ định như vậy theo luật.
Nguyên tắc 17: Cơ
quan đánh giá
1. Cơ quan đánh giá phải là một cơ quan
tư pháp hoặc một cơ quan độc lập và không thiên vị khác được thành lập theo luật
pháp trong nước và thực hiện chức năng theo các quy trình thủ tục mà luật quốc
gia quy định. Trong quá trình ra quyết định, cơ quan đánh giá phải có sự hỗ trợ
của một hoặc nhiều bác sỹ sức khỏe tâm thần có trình độ và hoạt động độc lập,
và phải xem xét ý kiến tư vấn của họ.
2. Theo yêu cầu trong đoạn 2 của
Nguyên tắc 16, đánh giá ban đầu của cơ quan đánh giá về quyết định đưa một người
vào hoặc giữ họ lại trong cơ sở sức khỏe tâm thần như là một bệnh nhân không tự
nguyện phải được tiến hành theo các thủ tục đơn giản và nhanh chóng do pháp luật
quốc gia quy định.
3. Cơ quan đánh giá phải kiểm tra định
kỳ các trường hợp bệnh nhân không tự nguyện vào các khoảng thời gian hợp lý theo
quy định của luật pháp quốc gia.
4. Bệnh nhân không tự nguyện có thể đệ
đơn lên cơ quan đánh giá để được ra khỏi cơ sở sức khỏe tâm thần hoặc được chuyển
sang trạng thái tự nguyện, trong những khoảng thời gian hợp lý theo luật quốc
gia quy định.
5. Vào mỗi lần kiểm tra, cơ quan đánh
giá phải xem xét xem liệu tiêu chí đưa vào cơ sở sức khỏe tâm thần một cách
không tự nguyện như quy định trong đoạn 1 của Nguyên tắc 16 có còn thỏa mãn hay
không, và, nếu không, bệnh nhân phải được rời khỏi cơ sở chăm sóc sức khỏe tâm
thần với tư cách là một bệnh nhân không tự nguyện.
6. Nếu vào bất kỳ thời điểm nào bác sỹ
sức khỏe tâm thần chịu trách nhiệm về ca bệnh tin rằng các điều kiện để giữ bệnh
nhân lại với tư cách là bệnh nhân không tự nguyện không còn nữa, thì bác sỹ này
phải yêu cầu cho bệnh nhân này rời khỏi cơ sở sức khỏe tâm thần với tư cách là
bệnh nhân không tự nguyện.
7. Bệnh nhân hoặc người đại diện cá
nhân của bệnh nhân hoặc bất cứ người nào liên quan có quyền khiếu nại lên tòa
án cao hơn đối với quyết định đưa bệnh nhân vào hoặc giữ họ lại tại một cơ sở sức
khỏe tâm thần.
Nguyên tắc 18: Biện
pháp bảo vệ theo thủ tục
1. Bệnh nhân có quyền chọn hoặc chỉ định
một luật sư đại diện cho mình, bao gồm việc đại diện trong quá trình kiện hay
kháng cáo. Nếu bệnh nhân không tự có được những dịch vụ này, thì bệnh nhân sẽ
được cung cấp luật sư miễn phí chừng nào mà bệnh nhân còn thiếu phương tiện chi
trả.
2. Bệnh nhân cũng có quyền được hỗ trợ,
nếu cần thiết, về dịch vụ phiên dịch. Trong trường hợp những dịch vụ này là cần
thiết mà bệnh nhân lại không tự thu xếp được, thì các dịch vụ này sẽ được cung
cấp miễn phí cho bệnh nhân chừng nào mà bệnh nhân còn thiếu phương tiện chi trả.
3. Bệnh nhân và luật sư của bệnh nhân
có thể yêu cầu và đưa ra một báo cáo sức khỏe tâm thần độc lập và bất cứ báo
cáo nào khác và các bằng chứng bằng lời nói, văn bản và bằng chứng khác phù hợp
và có thể chấp nhận được tại bất cứ phiên xét xử nào.
4. Bản sao bệnh án của bệnh nhân và bất
kỳ báo cáo, tài liệu nào trình ra phiên tòa phải được đưa cho bệnh nhân và luật
sư của bệnh nhân, trừ những trường hợp đặc biệt khi người ta xác định rằng việc
tiết lộ thông tin cho bệnh nhân sẽ dẫn tới tổn hại nghiêm trọng cho sức khỏe của
họ hoặc ảnh hưởng đến sự an toàn của những người khác. Theo luật quốc gia quy định,
bất cứ tài liệu nào mà không được đưa cho bệnh nhân sẽ được bí mật đưa cho người
đại diện cá nhân và luật sư của bệnh nhân khi có thể. Khi người ta từ chối cung
cấp cho bệnh nhân một phần tài liệu nào đó, thì bệnh nhân hoặc luật sư của bệnh
nhân, nếu có, phải nhận được thông báo từ chối, lý do từ chối và việc từ chối
này phải được tòa xem xét.
5. Bệnh nhân, người đại diện cá nhân
và luật sư của bệnh nhân có quyền tham dự, tham gia và trình bày ý kiến cá nhân
trong bất cứ phiên xét xử nào.
6. Nếu bệnh nhân hay người đại diện
cá nhân hay luật sư của bệnh nhân yêu cầu một người cụ thể có mặt tại phiên xét
xử, thì người đó sẽ được phép tham dự trừ khi có cơ sở xác định rằng sự có mặt
của người này có thể gây tổn hại nghiêm trọng tới sức khỏe của bệnh nhân hoặc ảnh
hưởng đến sự an toàn của người khác.
7. Bất cứ quyết định nào về việc xét
xử công cộng hay riêng tư dù là một phần hay toàn bộ bản án và tường thuật công
khai phiên xét xử phải xét đến nguyện vọng của bệnh nhân, đến nhu cầu tôn trọng
tính riêng tư của bệnh nhân và của những người khác, và tới nhu cầu ngăn chặn tổn
hại nghiêm trọng đến sức khỏe bệnh nhân và tránh ảnh hưởng đến sự an toàn của
những người khác.
8. Quyết định đưa ra trong phiên xét
xử và những lý do dẫn đến quyết định này phải được trình bày bằng văn bản.Bản
sao sẽ được đưa cho bệnh nhân cũng như người đại diện cá nhân và luật sư của họ.
Trong quá trình quyết định xem có nên công bố toàn bộ hay một phần quyết định
này hay không, cần xem xét nguyện vọng riêng của bệnh nhân, nhu cầu tôn trọng
tính riêng tư của bệnh nhân và của những người khác, đến lợi ích cộng đồng
trong việc thực thi công lý công khai và đến nhu cầu ngăn chặn tổn hại nghiêm
trọng đối với sức khỏe bệnh nhân hay tránh gây rủi ro cho sự an toàn của những
người khác.
Nguyên tắc 19: Tiếp
cận thông tin
1. Bệnh nhân (trong Nguyên tắc này, từ
“bệnh nhân” bao gồm cả người đã từng là bệnh nhân) có quyền tiếp cận thông tin
liên quan đến họ trong bệnh án và hồ sơ cá nhân do cơ sở sức khỏe tâm thần lưu
giữ. Quyền này có thể bị giới hạn nhằm ngăn chặn tổn hại nghiêm trọng đối với sức
khỏe của bệnh nhân và tránh ảnh hưởng đến an toàn của những người khác. Như luật
quốc gia có thể quy định, bất cứ thông tin nào không được cung cấp cho bệnh
nhân cũng cần, khi có thể tiến hành bí mật, cung cấp cho người đại diện cá nhân
và luật sư của bệnh nhân. Khi bệnh nhân bị từ chối tiếp cận một thông tin nhất
định thì người đại diện cá nhân hoặc luật sư của bệnh nhân đó, nếu có, phải nhận
được thông báo về việc từ chối này cũng như lý do từ chối, và việc từ chối này
sẽ phải chịu sự xem xét của tòa án.
2. Bất cứ ý kiến bằng văn bản nào từ
phía bệnh nhân, người đại diện cá nhân hoặc luật sư của bệnh nhân cũng phải,
theo yêu cầu, được đưa vào hồ sơ của bệnh nhân.
Nguyên tắc 20: Người
phạm tội hình sự
1. Nguyên tắc này áp dụng với những
người đang chịu án tù vì phạm tội hình sự, hoặc những người bị giam giữ trong
quá trình tố tụng hoặc điều tra hình sự đối với họ, và những người được xác định
là mắc bệnh tâm thần hoặc những người được cho là có thể mắc bệnh tâm thần.
2. Tất cả những người này sẽ nhận được
sự chăm sóc sức khỏe tâm thần tốt nhất sẵn có theo quy định trong Nguyên tắc 1.
Các Nguyên tắc này sẽ được áp dụng cho những người này tới mức đầy đủ nhất có
thể, mà có thể chỉ bị sửa đổi hay đưa ra ngoại lệ khi cần thiết. Bất kỳ sự sửa
đổi hay ngoại lệ nào cũng không được ảnh hưởng đến quyền của những người này
theo các văn kiện được đề cập trong đoạn 5 của Nguyên tắc 1.
3. Luật quốc gia có thể trao quyền
cho tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác, hành động dựa trên ý kiến tư vấn y
tế của cơ quan có thẩm quyền và hoạt động độc lập, yêu cầu đưa những người trên
vào cơ sở sức khỏe tâm thần.
4. Trong mọi trường hợp, việc điều trị
những người được xác định là mắc bệnh tâm thần sẽ tuân theo Nguyên tắc 11.
Nguyên tắc 21: Khiếu
nại
Mọi bệnh nhân và người đã từng là bệnh
nhân có quyền khiếu nại thông qua các thủ tục do luật quốc gia quy định.
Nguyên tắc 22: Giám
sát và các biện pháp khắc phục
Các Quốc gia phải đảm bảo tính hiệu lực
của các cơ chế thích hợp nhằm thúc đẩy việc tuân thủ những Nguyên tắc này, đối
với việc kiểm tra các cơ sở sức khỏe tâm thần, đối với việc đệ trình, điều tra
và giải quyết khiếu nại, và đối với việc khởi tố một vụ án kỷ luật đối với hành
vi nghề nghiệp sai trái hoặc xâm phạm đến quyền của bệnh nhân.
Nguyên tắc 23: Thực
thi
1. Các Quốc gia phải thực thi những
Nguyên tắc này thông qua các biện pháp lập pháp, tư pháp, hành chính, giáo dục
và các biện pháp phù hợp khác, và phải định kỳ xem xét lại những biện pháp này.
2. Các Quốc gia phải phổ biến rộng
rãi những Nguyên tắc này bằng những cách thức thích hợp và tích cực.
Nguyên tắc 24: Phạm
vi của những nguyên tắc liên quan đến các cơ sở sức khỏe tâm thần
Những Nguyên tắc này áp dụng đối với tất
cả những người được đưa vào cơ sở sức khỏe tâm thần.
Nguyên tắc 25: Bảo
lưu các quyền hiện hữu
Các quyền hiện hữu của bệnh nhân sẽ
không bị giới hạn hay làm suy giảm, trong đó có các quyền mà các văn bản pháp luật
quốc tế và quốc gia đã công nhận, viện cớ rằng các Nguyên tắc này không công nhận
những quyền đó hoặc công nhận các quyền này nhưng ở mức độ thấp hơn.