BAN
CHẤP HÀNH
TRUNG ƯƠNG ĐẢNG
--------
|
ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM
---------------
|
Số:
15-NQ/TW
|
Hà
Nội, ngày 18 tháng 3 năm 2002
|
NGHỊ QUYẾT
VỀ
ĐẨY NHANH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN THỜI KỲ 2001 -
2010
I- ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH CÔNG
NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN
Hơn 10
năm qua, nông nghiệp nước ta về cơ bản đã chuyển sang sản xuất hàng hoá, phát
triển tương đối toàn diện, tăng trưởng khá (bình quân 4,2%/năm). Công nghiệp,
ngành nghề và dịch vụ ở nông thôn bước đầu phục hồi và phát triển; kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội được quan tâm đầu tư xây dựng, môi trường sinh thái và
đời sống nông dân ở hầu hết các vùng được cải thiện rõ rệt. Quan hệ sản xuất
từng bước đổi mới phù hợp với yêu cầu phát triển nền nông nghiệp hàng hoá; hệ
thống chính trị ở cơ sở được tăng cường, dân chủ được phát huy tốt hơn; an ninh
chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở nông thôn được bảo đảm. Những thành tựu đó
góp phần rất quan trọng vào sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, tạo tiền
đề đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Tuy vậy, cơ cấu kinh tế nông
nghiệp và nông thôn chuyển dịch chậm, chưa theo sát với thị trường. Sản xuất
nông nghiệp ở nhiều nơi còn phân tán, manh mún, mang nhiều yếu tố tự phát; ứng
dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào sản xuất chậm; trình độ khoa học, công
nghệ của sản xuất nhiều mặt còn lạc hậu nên năng suất, chất lượng và khả năng
cạnh tranh của nhiều sản phẩm nông nghiệp còn thấp, kém hiệu quả và thiếu bền
vững. Công nghiệp ở nông thôn, nhất là công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản
phát triển chậm; ngành nghề và dịch vụ chưa thu hút được nhiều lao động; lao
động còn phổ biến là thủ công, tỉ lệ qua đào tạo thấp, thiếu việc làm nghiêm
trọng. Kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống ở một số vùng, nhất là vùng
sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn. Quan hệ sản
xuất chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển nông nghiệp hàng hoá theo cơ chế mới.
Đời sống vật chất, văn hoá của nhân dân ở nhiều vùng nông thôn còn thấp kém,
chênh lệch thu nhập giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng đang tăng lên.
Những yếu kém trên có nguyên
nhân khách quan là do xuất phát từ một nền nông nghiệp lạc hậu, lại trải qua
nhiều năm chiến tranh, nông dân và nông thôn nước ta còn nghèo, thiếu vốn, dân
trí thấp, gặp nhiều khó khăn trong việc trang bị máy móc, thiết bị và áp dụng
thành tựu khoa học - công nghệ mới vào sản xuất, tiếp cận và đáp ứng yêu cầu
của thị trường.
Nhưng có những nguyên nhân chủ
quan như : Nhận thức về vai trò, vị trí của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn chưa đầy đủ và chưa sâu sắc. Nhiều chủ trương, chính sách
đúng đắn của Đảng về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn chưa
được thực hiện nghiêm túc. Một số cơ chế, chính sách chưa phù hợp, chậm được
điều chỉnh kịp thời, nhất là chính sách về đất đai, tín dụng, khoa học, công
nghệ và thị trường. Hệ thống quản lý, chỉ đạo phát triển nông nghiệp và nông
thôn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển sản xuất hàng hoá và xây dựng nông
thôn mới. Công tác quy hoạch, kế hoạch chất lượng thấp, chưa phù hợp với yêu
cầu của cơ chế thị trường. Đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn tuy đã có nhiều cố
gắng nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu. Công tác nghiên cứu và triển khai khoa
học, công nghệ phục vụ nông nghiệp, nhất là giống cây trồng, vật nuôi và chế
biến nông, lâm, thuỷ sản chưa được quan tâm chỉ đạo chặt chẽ. Thực tiễn công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn chậm được tổng kết. Việc nghiên
cứu vận dụng các kinh nghiệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông
thôn và kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các nước vào điều kiện nước ta còn
nhiều hạn chế.
II- NỘI DUNG TỔNG QUÁT, QUAN
ĐIỂM VÀ MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN
1- Nội dung tổng quát của công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản
xuất hàng hoá lớn, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường; thực hiện cơ khí
hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ,
trước hết là công nghệ sinh học đưa thiết bị, kỹ thuật và công nghệ hiện đại
vào các khâu sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu
quả, sức cạnh tranh của nông sản hàng hoá trên thị trường.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông thôn là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng
nhanh tỉ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ;
giảm dần tỉ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp; xây dựng kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển nông thôn, bảo vệ môi trường sinh thái;
tổ chức lại sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp; xây dựng nông thôn
dân chủ, công bằng, văn minh, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hoá
của nhân dân ở nông thôn.
2- Những quan điểm về đẩy nhanh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp, nông thôn là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Phát triển công nghiệp, dịch vụ phải gắn bó
chặt chẽ, hỗ trợ đắc lực và phục vụ có hiệu quả cho công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp, nông thôn.
- Ưu tiên phát triển lực lượng
sản xuất, chú trọng phát huy nguồn lực con người, ứng dụng rộng rãi thành tựu
khoa học, công nghệ; thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát huy
lợi thế của từng vùng gắn với thị trường để sản xuất hàng hoá quy mô lớn với
chất lượng và hiệu quả cao; bảo vệ môi trường, phòng chống, hạn chế và giảm nhẹ
thiên tai, phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững.
- Dựa vào nội lực là chính, đồng
thời tranh thủ tối đa các nguồn lực từ bên ngoài, phát huy tiềm năng của các
thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với
kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc; phát triển mạnh mẽ kinh
tế hộ sản xuất hàng hoá, các loại hình doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ
và vừa ở nông thôn.
- Kết hợp chặt chẽ các vấn đề
kinh tế và xã hội trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,
nông thôn nhằm giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo, ổn định xã hội và phát
triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của người dân nông thôn,
nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa; giữ gìn, phát huy
truyền thống văn hoá và thuần phong mỹ tục.
- Kết hợp chặt chẽ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn với xây dựng tiềm lực và thế trận quốc
phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, thể hiện trong chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, của các ngành,
các địa phương. Đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, ổn định dân cư các vùng
xung yếu, vùng biên giới, cửa khẩu, hải đảo phù hợp với chiến lược quốc phòng
và chiến lược an ninh quốc gia.
3- Mục tiêu
Mục tiêu tổng quát và lâu dài
của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là xây dựng một nền
nông nghiệp sản xuất hàng hoá lớn, hiệu quả và bền vững, có năng suất, chất
lượng và sức cạnh tranh cao trên cơ sở ứng dụng các thành tựu khoa học, công
nghệ tiên tiến, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu; xây dựng nông thôn
ngày càng giàu đẹp, dân chủ, công bằng, văn minh, có cơ cấu kinh tế hợp lý,
quan hệ sản xuất phù hợp, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển ngày càng
hiện đại.
Từ nay đến năm 2010 tập trung
mọi nguồn lực để thực hiện một bước cơ bản mục tiêu tổng quát và lâu dài đó.
III- NHỮNG CHỦ TRƯƠNG VÀ GIẢI
PHÁP LỚN
A- Về chủ trương
1- Phát triển lực lượng sản
xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn
- Về nông nghiệp :
Bảo đảm vững chắc an ninh lương
thực quốc gia, nâng cao hiệu quả sản xuất lúa gạo trên cơ sở hình thành các
vùng sản xuất lúa chất lượng cao, giá thành hạ, gắn với chế biến và tiêu thụ.
Phát triển sản xuất và chế biến
các loại nông sản hàng hoá xuất khẩu có lợi thế của từng vùng, với quy mô hợp
lý; tập trung nâng cao chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh của các sản
phẩm này (như lúa gạo, thủy sản, cà phê, hạt điều, hồ tiêu, chè, cao su, rau
quả nhiệt đới, thịt lợn...) trên thị trường trong nước và quốc tế.
Đối với những mặt hàng còn đang
phải nhập khẩu nhưng trong nước có điều kiện sản xuất có hiệu quả (như ngô,
bông, đậu tương, thuốc lá, dầu ăn, sữa, bột giấy...) cần phát triển sản xuất
hợp lý ở các vùng để từng bước thay thế nhập khẩu.
Đối với cây lương thực : Xây
dựng các vùng sản xuất tập trung lúa gạo ở đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng
sông Hồng; vùng ngô ở Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, trung du, miền núi phía Bắc,
đồng bằng sông Cửu Long; sử dụng các giống mới có năng suất cao, chất lượng phù
hợp với yêu cầu thị trường, áp dụng các biện pháp đồng bộ để hạ giá thành; phát
triển công nghệ bảo quản, công nghiệp chế biến. Đối với một số địa phương miền
núi dân cư phân tán, sản xuất hàng hoá chưa phát triển, kết cấu hạ tầng yếu
kém, điều kiện vận chuyển, cung ứng lương thực gặp nhiều khó khăn, nhưng có
điều kiện sản xuất lương thực thì Nhà nước ưu tiên đầu tư thuỷ lợi nhỏ, xây
dựng ruộng bậc thang và hỗ trợ giống tốt để đồng bào sản xuất lúa, màu, bảo đảm
ổn định đời sống.
Đối với cây công nghiệp, rau quả
: Hình thành các vùng sản xuất tập trung các loại cây công nghiệp, rau, hoa
quả; ứng dụng công nghệ sinh học trong chọn, tạo và nhân giống, kết hợp với
nhập khẩu giống và công nghệ để sản xuất giống cây trồng có năng suất, chất
lượng cao; thực hiện cơ giới hoá các khâu sản xuất, thu hoạch, bảo quản, trước
hết là các khâu nặng nhọc, độc hại, thời vụ khẩn trương; phát triển các cơ sở
công nghiệp chế biến gắn với vùng nguyên liệu.
Đối với chăn nuôi : Khuyến khích
phát triển chăn nuôi theo hướng công nghiệp, chủ yếu theo hình thức trang trại
với quy mô phù hợp, hình thành các vùng sản xuất hàng hoá tập trung, an toàn
dịch bệnh. Nâng cấp và đầu tư xây dựng mới các cơ sở giết mổ, chế biến sản phẩm
chăn nuôi có trang bị hiện đại đạt yêu cầu chất lượng và vệ sinh an toàn thực
phẩm, phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Nhà nước ưu tiên đầu
tư và có chính sách khuyến khích áp dụng công nghệ hiện đại trong sản xuất
giống, thức ăn công nghiệp, thú y và kiểm tra chất lượng sản phẩm.
Đối với lâm nghiệp : Tập trung
bảo vệ vốn rừng hiện có và làm giàu rừng, nhất là rừng đặc dụng, rừng phòng hộ.
Quy hoạch để hình thành các vùng rừng nguyên liệu gắn với các cơ sở chế biến;
ứng dụng công nghệ nuôi cấy mô, hom và những phương pháp nhân giống tiên tiến
khác, cung ứng đủ giống có chất lượng cho trồng rừng. Có chính sách để người
trồng, chăm sóc rừng bảo đảm được cuộc sống và làm giầu từ nghề rừng; khuyến
khích các hộ nông dân, các lâm trường mua máy móc, thiết bị, thực hiện cơ giới
hoá các khâu trồng, khai thác, vận chuyển và chế biến gỗ, lâm sản; phát triển
các cơ sở sản xuất giấy, bột giấy, ván nhân tạo, đồ gia dụng và thủ công mỹ
nghệ bằng gỗ.
Đối với thủy sản : Đầu tư đồng
bộ cho chương trình nuôi trồng và đánh bắt thủy sản gắn với chế biến hiện đại,
bảo đảm chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm. Nhà nước hỗ trợ quy hoạch và
hướng dẫn nông dân khai thác tốt diện tích mặt nước, bao gồm cả những diện tích
đất nông nghiệp chuyển đổi, để nuôi trồng thủy sản, phát triển các hình thức
nuôi công nghiệp, bán công nghiệp và nuôi sinh thái phù hợp với điều kiện tự
nhiên ở vùng nước biển, nước lợ, nước ngọt; tổ chức sản xuất và cung cấp giống
tốt, phòng chống các loại bệnh, bảo đảm cho nông dân nuôi trồng có hiệu quả.
Đối với ngành muối : Quy hoạch
và từng bước đầu tư hiện đại hoá các đồng muối, sản xuất bằng công nghệ tiên
tiến, để đạt năng suất và chất lượng cao, hạ giá thành sản phẩm; nâng cao năng
lực chế biến muối, bảo đảm đủ cho tiêu dùng trong nước, kể cả muối cho sản xuất
công nghiệp và xuất khẩu, thay thế nhập khẩu.
- Về nông thôn :
Nhà nước hỗ trợ, khuyến khích
phát triển mạnh các ngành công nghiệp ở nông thôn, nhất là công nghiệp chế biến
nông, lâm, thuỷ sản và các ngành sử dụng nguyên liệu tại chỗ, cần nhiều lao
động như sản xuất vật liệu xây dựng, công nghiệp khai thác mỏ, dệt may, da
giày, cơ khí lắp ráp, sửa chữa...để thu hút và thực hiện phân công lao động
ngay trên địa bàn. Hình thành các khu công nghiệp ở nông thôn, gắn kết ngay từ
đầu lợi ích kinh tế giữa người sản xuất nguyên liệu với các nhà máy chế biến
công nghiệp.
Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi
trong việc cấp đất, hướng dẫn, khuyến khích và hỗ trợ các cơ sở ngành nghề nông
thôn sử dụng máy móc, công cụ cải tiến, thực hiện cơ khí hoá các khâu sản xuất,
nâng cao năng suất lao động, chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm
trên thị trường; hỗ trợ, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển nhiều
loại hình dịch vụ ở nông thôn, trước hết là các dịch vụ kỹ thuật, tín dụng,
thương mại, đời sống... để tạo nhiều việc làm, tăng thu nhập cho nông dân.
Quy hoạch và tổ chức lại hệ
thống các cơ sở công nghiệp cơ khí, hoá chất, phân bón, thuốc trừ sâu phục vụ
nông, lâm, ngư nghiệp trên phạm vi cả nước và từng vùng; có chính sách ưu tiên
để hiện đại hoá các cơ sở sản xuất, khuyến khích các cơ sở sản xuất đầu tư
nghiên cứu, cải tiến, chế tạo các loại máy móc, thiết bị, sản xuất phân bón,
hoá chất, vật tư nông nghiệp thay thế nhập khẩu.
2- Xây dựng quan hệ sản xuất phù
hợp
Kinh tế hộ nông dân tồn tại lâu
dài trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Nhà
nước khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế hộ, kinh tế trang trại
phát triển sản xuất hàng hoá với quy mô ngày càng lớn.
Kinh tế tư nhân là lực lượng
quan trọng có khả năng thu hút vốn và nhiều lao động để phát triển sản xuất,
kinh doanh ngành nghề đa dạng, tăng năng lực chế biến, tiêu thụ nông sản, làm
dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống ở nông thôn. Nhà nước có chính sách khuyến
khích, hỗ trợ, hướng dẫn kinh tế tư nhân phát triển.
Khuyến khích, hỗ trợ và tạo điều
kiện phát triển kinh tế hợp tác và hợp tác xã trên cơ sở liên kết, hợp tác tự
nguyện, bình đẳng, cùng có lợi giữa các hộ, các trang trại bằng nhiều hình
thức, quy mô, cấp độ để nâng cao hiệu quả kinh tế hộ và kinh tế - xã hội nông
thôn. Hợp tác xã tập trung làm dịch vụ đầu vào và đầu ra cho sản xuất nông
nghiệp; tổ chức thực hiện tốt việc quy hoạch, hướng dẫn nông dân ứng dụng khoa
học, công nghệ mới, chuyển đổi cơ cấu sản xuất; liên kết với doanh nghiệp thuộc
các thành phần kinh tế để bán vật tư, tiêu thụ nông sản hàng hoá cho nông dân.
Nhà nước hỗ trợ hợp tác xã đào tạo cán bộ; có chính sách thuế phù hợp đối với
các hoạt động dịch vụ. Phát triển các quỹ tín dụng nhân dân ở xã để phục vụ
phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Doanh nghiệp nhà nước tập trung thực
hiện những việc mà các thành phần kinh tế khác chưa làm được; hỗ trợ các thành
phần kinh tế khác cùng phát triển. Tổ chức sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp
nhà nước, để doanh nghiệp nhà nước thực hiện tốt vai trò nòng cốt trong kinh
doanh lúa gạo, phân bón, phát triển chế biến nông, lâm, thuỷ sản quy mô lớn, kỹ
thuật cao và liên kết kinh tế có hiệu quả với các hộ nông dân, hợp tác xã sản
xuất nguyên liệu; giữ vai trò chủ yếu trong việc thực hiện các nhiệm vụ công
ích. Đối với khu vực miền núi, doanh nghiệp nhà nước phải đi đầu trong việc hỗ
trợ sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông, lâm, thuỷ sản; làm tốt việc xây dựng
các khu kinh tế - quốc phòng ở các địa bàn quan trọng.
Thực hiện tốt sự liên kết giữa
các khâu sản xuất, chế biến, tiêu thụ và giữa các thành phần kinh tế; tạo điều
kiện để nông dân và hợp tác xã mua cổ phần của các doanh nghiệp, tham gia cổ
phần ngay từ đầu với các doanh nghiệp; khuyến khích doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế ký hợp đồng với nông dân (qua các hợp tác xã); hỗ trợ vốn,
chuyển giao kỹ thuật, tiêu thụ sản phẩm do nông dân làm ra với giá cả hợp lý.
3- Phát triển kết cấu hạ tầng và
đô thị hoá nông thôn
Ưu tiên đầu tư phát triển hệ
thống thuỷ lợi theo hướng sử dụng tổng hợp tài nguyên nước để cấp nước cho sản
xuất nông nghiệp, công nghiệp, nước sinh hoạt và cải thiện môi trường, phòng
chống, hạn chế và giảm nhẹ thiên tai. áp dụng các công nghệ tiên tiến, công
nghệ tưới - tiêu tiết kiệm nước trong việc xây dựng và quản lý công trình thuỷ
lợi. Phát triển các tổ chức hợp tác dùng nước và quản lý thuỷ nông của nông
dân.
Phát triển mạnh mẽ mạng lưới
giao thông trong cả nước, Nhà nước có chính sách hỗ trợ thoả đáng, cùng với các
địa phương và đóng góp của nhân dân để phát triển nhanh hệ thống giao thông
nông thôn; nâng cấp các tuyến đường đã có, từng bước cứng hoá mặt đường, xây
dựng cầu, cống vĩnh cửu và xoá bỏ "cầu khỉ", phục vụ cho vận chuyển
hàng hoá và đi lại của nhân dân.
Phát triển hệ thống điện nhằm
cung cấp có hiệu quả, chất lượng cao điện cho nhu cầu sản xuất và sinh hoạt ở
nông thôn. Đối với các vùng không có điều kiện cấp điện lưới quốc gia, Nhà nước
có chính sách đầu tư, hỗ trợ phát triển các nguồn điện năng tại chỗ, bảo đảm
đến năm 2010 tất cả các xã đều có điện sử dụng.
Phát triển các dịch vụ bưu
chính, viễn thông và các điểm văn hoá đến tất cả các xã. Nhà nước có chính sách
đầu tư phát triển hệ thống thông tin nông nghiệp hiện đại; từng bước ứng dụng
công nghệ thông tin trong nông nghiệp và nông thôn.
Phát triển các thị tứ, thị trấn
trên địa bàn nông thôn để thực hiện chức năng trung tâm công nghiệp, ngành
nghề, dịch vụ, văn hoá - xã hội, hỗ trợ cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông thôn.
Đầu tư thoả đáng cho các vùng
nghèo, nhất là miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số để đạt được mục tiêu
công bằng xã hội.
4- Xây dựng đời sống văn hoá -
xã hội và phát triển nguồn nhân lực
Đẩy mạnh phong trào xây dựng
làng, xã văn hoá, phục hồi và phát triển văn hoá truyền thống, phát huy tình
làng, nghĩa xóm, sự giúp đỡ và hỗ trợ nhau phát triển trong cộng đồng dân cư
nông thôn.
Nâng cao chất lượng, hiệu quả
các thiết chế văn hoá, bảo vệ và tôn tạo các di tích lịch sử, di sản văn hoá,
danh lam thắng cảnh, đáp ứng yêu cầu hưởng thụ và phát huy tiềm năng sáng tạo
của nhân dân.
Phát triển công tác thông tin
đại chúng và các hoạt động văn hoá, khuyến khích, động viên những nhân tố mới,
kịp thời phê phán các hiện tượng tiêu cực trong xã hội, xây dựng lối sống lành
mạnh, bảo vệ thuần phong mỹ tục ở nông thôn.
Đổi mới và nâng cao chất lượng
hệ thống giáo dục, y tế phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ở nông thôn.
Tăng ngân sách cho giáo dục -
đào tạo, đặc biệt vùng sâu, vùng xa, tạo điều kiện để người nghèo ở nông thôn
được học tập, phát triển trường nội trú cho con em dân tộc thiểu số, có chính
sách tuyển chọn người giỏi để đào tạo cán bộ, công nhân phục vụ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
B- Về giải pháp
1- Công tác quy hoạch
Quy hoạch phát triển nông
nghiệp, nông thôn phải đặt trong tổng thể quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội
cả nước, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, sự phát triển mạnh mẽ của
khoa học, công nghệ và thị trường; đồng thời phải căn cứ vào lợi thế kinh tế,
khả năng cạnh tranh của từng vùng. Quản lý, cập nhật thông tin và kịp thời điều
chỉnh quy hoạch. Chú trọng làm tốt quy hoạch những vùng sản xuất hàng hoá tập
trung (cây, con, sản phẩm, ngành nghề,...); quy hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội; quy hoạch phát triển khu dân cư, xây dựng làng, xã, thị trấn;
gắn kết chặt chẽ với an ninh - quốc phòng, phòng chống, hạn chế, giảm nhẹ thiên
tai, bảo vệ môi trường và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc.
2- Khoa học, công nghệ
Đẩy mạnh việc nghiên cứu ứng dụng
và chuyển giao khoa học, công nghệ cho sản xuất, coi đây là khâu đột phá quan
trọng nhất để thúc đẩy phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn; trước hết
cần tập trung vào công nghệ sinh học, chương trình giống cây trồng, vật nuôi,
công nghệ bảo quản và công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản. Dành kinh phí
để nhập khẩu công nghệ cao, thiết bị hiện đại, các loại giống tốt. Đầu tư hiện
đại hoá hệ thống viện, trường, nâng cao năng lực đào tạo cán bộ khoa học,
nghiên cứu và tiếp thu khoa học, công nghệ tiên tiến, đáp ứng yêu cầu phát
triển bền vững của nông nghiệp và nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện
đại hoá. Đổi mới cơ chế quản lý khoa học, nhất là cơ chế quản lý tài chính,
nhân sự nâng cao hiệu quả nghiên cứu và chuyển giao khoa học, công nghệ cho
nông dân.
Nhà nước có chính sách khuyến
khích, hỗ trợ các thành phần kinh tế tham gia nghiên cứu phát triển khoa học,
công nghệ phục vụ nông nghiệp, nông thôn và thực hiện xã hội hoá để mở rộng hệ
thống khuyến nông đến cơ sở.
3- Các chính sách
- Về đất đai : Nhà nước tạo điều
kiện thuận lợi để nông dân thực hiện đầy đủ, đúng pháp luật các quyền về sử
dụng đất đai; khuyến khích nông dân thực hiện "dồn điền, đổi thửa" trên
cơ sở tự nguyện; nông dân được sử dụng giá trị quyền sử dụng đất để góp vốn cổ
phần tham gia phát triển sản xuất, kinh doanh, liên doanh, liên kết... Tạo điều
kiện thuận lợi cho việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất theo quy hoạch và
chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Khẩn trương tổng
kết tình hình quản lý, sử dụng đất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp làm cơ sở bổ
sung, sửa đổi Luật đất đai và sớm thể chế hoá thành các quy định cụ thể để thực
hiện một cách chặt chẽ.
- Về tài chính, tín dụng : Nhà
nước cân đối các nguồn vốn để ưu tiên đầu tư thích đáng cho phát triển nông,
lâm, ngư, diêm nghiệp và điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo hướng phục vụ cho chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
Các tổ chức tín dụng (ngân hàng
thương mại quốc doanh, ngân hàng cổ phần...) hoạt động dưới nhiều hình thức đa
dạng ở nông thôn với lãi suất thoả thuận; tăng mức cho vay và tạo thuận lợi về
thủ tục cho vay đối với người sản xuất và các tổ chức kinh tế ở nông thôn.
Người sản xuất, các tổ chức kinh tế ở nông thôn được thế chấp bằng tài sản hình
thành từ vốn vay để vay vốn ngân hàng, được vay vốn bằng tín chấp và vay theo
dự án sản xuất, kinh doanh có hiệu quả. Khuyến khích phát triển quỹ tín dụng
nhân dân ở các xã, hạn chế tới mức thấp nhất tình trạng cho vay nặng lãi ở nông
thôn.
Thực hiện chính sách hỗ trợ các
doanh nghiệp mở rộng các hình thức bán trả góp vật tư, máy móc, thiết bị nông
nghiệp cho nông dân; ứng vốn cho dân vay sản xuất nguyên liệu phục vụ cho công
nghiệp chế biến và ngành nghề nông thôn. Khuyến khích người sản xuất, các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia xây dựng quỹ bảo hiểm ngành hàng
để trợ giúp nhau khi gặp rủi ro.
Miễn thuế sử dụng đất nông
nghiệp trong hạn điền cho nông dân đến năm 2010. Điều chỉnh, bổ sung các chính
sách thuế nhằm khuyến khích doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đầu tư
phát triển kinh tế nông thôn.
- Về lao động và việc làm : Dành
vốn ngân sách đầu tư nâng cấp các cơ sở dạy nghề của Nhà nước, đồng thời có cơ
chế, chính sách khuyến khích xã hội hoá, phát triển các hình thức dạy nghề đa
dạng, bảo đảm hàng năm đào tạo nghề cho khoảng 1 triệu lao động, đưa tỉ lệ được
đào tạo nghề lên khoảng 30% vào năm 2010. Có chính sách thu hút những người
được đào tạo về làm việc ở nông thôn, nhất là miền núi và vùng sâu, vùng xa.
Nhà nước có chính sách khuyến
khích các thành phần kinh tế đầu tư khai hoang mở thêm đất mới, trồng rừng,
trồng cây công nghiệp, cây ăn quả, phát triển chăn nuôi, nuôi trồng và đánh bắt
thuỷ sản, chế biến nông, lâm, thuỷ sản, phát triển ngành nghề và dịch vụ nhằm
tạo thêm nhiều việc làm cho nông dân.
- Về thương mại và hội nhập kinh
tế : Thực hiện chính sách hỗ trợ và bảo hộ hợp lý một số ngành hàng có triển
vọng nhưng còn khó khăn, như : chăn nuôi, rau quả... bằng nhiều hình thức
(thông tin thị trường, giống, thú y, bảo vệ thực vật, chế biến...) để nông dân
phát triển sản xuất và hạn chế được những rủi ro trong quá trình thực hiện các
cam kết hội nhập kinh tế quốc tế.
Nhà nước hỗ trợ một phần và có
chính sách thích hợp huy động các nguồn vốn để đầu tư phát triển kết cấu hạ
tầng phục vụ thương mại (bến cảng, kho tàng, chợ bán buôn, bán lẻ...); tăng
cường thông tin thị trường, xúc tiến thương mại, tổ chức quản lý chất lượng,
xây dựng và bảo vệ thương hiệu hàng hoá của Việt Nam; khuyến khích hình thành
các hiệp hội ngành hàng, các quỹ hỗ trợ xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản. Tăng
cường mở rộng hợp tác quốc tế tranh thủ vốn đầu tư, công nghệ, thiết bị và thị
trường nhằm thúc đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông
thôn.