BAN
CHẤP HÀNH
TRUNG ƯƠNG ĐẢNG
ĐẢNG ĐOÀN HỘI NÔNG DÂN
VIỆT NAM
--------
|
ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM
---------------
|
Số
01-ĐA/ĐĐHND
|
Hà
Nội, ngày 13 tháng 11 năm 2009
|
ĐỀ ÁN
NÂNG CAO VAI TRÒ, TRÁCH NHIỆM CỦA HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM
TRONG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP, XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI VÀ XÂY DỰNG GIAI CẤP NÔNG
DÂN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2010-2020
SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ ÁN
Ngay từ khi ra đời (03/2/1930), Đảng ta đã có chủ trương
tiến hành xây dựng các tổ chức cách mạng của quần chúng. Ngày 14-10-1930, Hội
nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương (Đảng Cộng
sản Việt Nam ngày nay) đã quyết định thành lập Tổng Nông hội Đông Dương (nay là
Hội Nông dân Việt Nam) nhằm tập hợp giai cấp nông dân trong cuộc đấu tranh kiên
cường vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trải qua các thời kỳ cách mạng,
tổ chức Hội với những tên gọi khác nhau, đã luôn thực hiện tốt nhiệm vụ của
mình; tuyên truyền, vận động, tập hợp rộng rãi giai cấp nông dân - một lực
lượng đông đảo và hùng hậu trong khối liên minh công nhân, nông dân và trí thức
đi theo con đường của cách mạng Việt Nam mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn; xứng
đáng là người đại diện cho lợi ích chính đáng của giai cấp nông dân, cầu nối
vững chắc giữa giai cấp nông dân với Đảng, chỗ dựa tin cậy của chính quyền nhân
dân ở nông thôn; góp phần to lớn vào lịch sử vẻ vang của dân tộc, đưa đất nước
bước vào kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội, thời đại mới - Thời đại Hồ Chí Minh. Trong sự nghiệp đổi mới đất nước,
dưới sự lãnh đạo của Đảng, Hội Nông dân Việt Nam đã có bước phát triển mới về
mọi mặt trong việc tập hợp, tuyên truyền, vận động hội viên, nông dân thực hiện
các chủ trương, đường lối của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước, tổ chức
các phong trào nông dân, góp phần quan trọng vào thực hiện thắng lợi các mục
tiêu kinh tế- xã hội, phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới.
Đất nước đang bước vào giai đoạn cách mạng mới - giai
đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế thế giới có tác động rất lớn,
nhiều mặt tới tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế-xã hội; vừa tạo ra thời
cơ to lớn, vừa đặt ra những thách thức lớn lao đối với sự phát triển toàn diện
của đất nước, trong đó có nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Những đòi hỏi đối
với sản xuất và tiêu thụ sản phẩm đang trở lên gay gắt. Không chỉ các sản phẩm
xuất khẩu mà cả các sản phẩm nông sản tiêu thụ trong nước cũng gặp phải sự cạnh
tranh quyết liệt của các sản phẩm nhập khẩu. Các vấn đề chênh lệch trong phát
triển cũng như thu nhập, khoảng cách giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn;
vấn đề thừa lao động, thiếu việc làm; vấn đề đô thị hóa và những bất cập trong
chính sách thu hồi đất đai; vấn đề vệ sinh môi trường nông thôn… cũng ngày càng
bức xúc. Trong bối cảnh ấy, Đảng ta khẳng định: “Nông nghiệp, nông dân, nông
thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế
- xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm an ninh, quốc phòng; giữ
gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất
nước” (Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X)
về nông nghiệp, nông dân, nông thôn).
Là tổ
chức chính trị - xã hội của giai cấp nông dân, Hội Nông dân Việt Nam có vai trò
quan trọng trong việc tổ chức vận động hội viên, nông dân tích cực tham gia góp
phần thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Nghị quyết
Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) đã xác định: “Hội
Nông dân là trung tâm và nòng cốt cho phong trào nông dân và công cuộc xây dựng
nông thôn mới”.
Tuy nhiên, hiện nay các cấp Hội Nông dân Việt Nam còn có nhiều bất cập cả về tổ chức bộ máy, cán bộ cũng như nội dung và phương thức hoạt
động. Hệ thống tổ chức còn thiếu đồng bộ. Đội ngũ cán bộ còn hạn chế về chất
lượng và nhất là chưa có qui định thống nhất và hướng dẫn của cấp có thẩm quyền
về tổ chức, bộ máy, biên chế cho cấp tỉnh và
huyện. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8B (khóa VI) nêu quan điểm: “Động lực
thúc đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân và
kết hợp hài hòa các lợi ích, thống nhất quyền lợi với nghĩa vụ công dân”,
nhưng do Hội chưa tích cực đổi mới nội dung và phương thức hoạt động và nhất là
chưa có được cơ chế, chính sách trực tiếp tham gia thực hiện các hoạt động phát
triển kinh tế - xã hội cho nên cả nội dung và phương thức hoạt động vẫn chung
chung, hình thức. Tình trạng tuyên truyền, vận động “chay” còn rất phổ biến,
chưa đáp ứng được những nhu cầu bức thiết của hội viên, nông dân về vốn; vật
tư, máy móc, thiết bị; khoa học kỹ thuật; thị trường tiêu thụ sản phẩm… để phát
triển sản xuất, kinh doanh.
Nhằm
tiếp tục đổi mới tổ chức bộ máy, cán bộ, nội dung và phương thức hoạt động, đáp
ứng chủ trương của Đảng trong Nghị quyết Trung ương 7 (khóa X) về nông nghiệp,
nông dân, nông thôn: “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước,
phát huy sức mạnh của các đoàn thể chính trị - xã hội ở nông thôn, nhất là Hội
Nông dân” và “Tạo cơ chế và điều kiện thuận lợi cho Hội Nông dân Việt Nam trong
việc trực tiếp thực hiện một số chương trình, dự án phục vụ sản xuất và nâng
cao đời sống của nông dân, hướng dẫn phát triển các hình thức kinh tế tập thể
trong nông nghiệp”, thực hiện nhiệm vụ của Bộ Chính trị giao (Công văn 6419-CV/VPTW
ngày 24/12/2008 của Văn phòng Trung ương Đảng),
Đảng đoàn Hội Nông dân Việt Nam xây dựng Đề án
"Nâng cao vai trò, trách nhiệm của Hội Nông dân Việt Nam trong
phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới và xây dựng giai cấp nông dân
Việt Nam giai đoạn 2010-2020”.
Phần thứ nhất
THỰC
TRẠNG VAI TRÒ, TRÁCH NHIỆM CỦA HỘI NÔNG DÂN TRONG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP, XÂY
DỰNG NÔNG THÔN MỚI VÀ XÂY DỰNG GIAI CẤP NÔNG DÂN VIỆT NAM
I - THỰC TRẠNG VAI TRÒ, TRÁCH NHIỆM CỦA HỘI TRONG
PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP
Từ
sau Đại hội đại biểu nông dân toàn quốc lần thứ nhất (tháng 3/1988), Hội đã
phát động “Phong trào nông dân thi đua sản xuất kinh doanh giỏi, đoàn kết
giúp nhau xoá đói giảm nghèo và làm giàu” trong hội viên, nông dân cả nước.
Phong trào đã thu hút, tập hợp, vận động nông dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng,
vật nuôi phù hợp với từng vùng, từng địa phương; ứng dụng các tiến bộ khoa học
kỹ thuật vào sản xuất, phát triển kinh tế hộ. Sau hơn 20 năm triển khai thực
hiện, đã có hàng triệu hộ đăng ký phấn đấu và hàng triệu hộ nông dân đạt danh
hiệu sản xuất kinh doanh giỏi các cấp. Để thúc đẩy phong trào phát triển, Hội
Nông dân các cấp đã chủ động liên kết, phối hợp với các bộ, ngành, chính quyền,
các đoàn thể địa phương, các nhà khoa học, các doanh nghiệp hỗ trợ, giúp đỡ
nông dân thông qua các hoạt động cụ thể sau:
1. Hỗ trợ nông dân vay vốn và hướng dẫn sử dụng vốn
vay có hiệu quả trong phát triển sản xuất, kinh doanh
Nhu
cầu có vốn cho phát triển sản xuất, kinh doanh dịch vụ nhằm xóa đói giảm nghèo
và làm giàu là một đòi hỏi chính đáng và trở nên bức xúc của nông dân. Để đáp
ứng nguyện vọng của nông dân, trong những năm vừa qua các cấp Hội Nông dân Việt
Nam đã tập trung có các biện pháp hỗ trợ giải quyết vốn cho nông dân.
Được
sự đồng ý của Thủ tướng Chính phủ, Hội Nông dân Việt Nam đã thành lập Quỹ Hỗ
trợ nông dân. Từ năm 1996 đến nay, Quỹ được xây dựng ở 4 cấp Hội gồm: Quỹ Hỗ
trợ nông dân Trung ương, Quỹ Hỗ trợ nông dân ở 52 tỉnh, 370 huyện, 420 xã. Đến
nay, nguồn vốn của Quỹ trong toàn hệ thống đạt 509 tỷ đồng. Trong 10 năm, Quỹ
đã hỗ trợ trên 1,5 triệu lượt hộ vay vốn, doanh số cho vay đạt 1,6 nghìn tỷ
đồng.
Năm
1999, Hội Nông dân Việt Nam và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã
ký Nghị quyết liên tịch số 2308 giúp nông dân vay vốn không phải thế chấp tài
sản thông qua các tổ vay vốn do Hội thành lập. Doanh số cho vay qua tổ trong 10
năm (1999-2009) đạt 40 nghìn tỷ đồng với trên 7 triệu lượt hộ vay.
Năm
2003, Ngân hàng Chính sách xã hội được thành lập, Hội Nông dân Việt Nam đã phối
hợp và cùng ký văn bản số 235/VB-LT ngày 15/4/2003 để tổ chức thực hiện ủy thác
cho hộ nghèo và đối tượng chính sách khác vay vốn. Đến nay, Hội đã nhận ủy thác
số tiền dư nợ trên 20,8 nghìn tỷ đồng với 2,4 triệu lượt hộ vay.
Hội
đã tích cực, chủ động tham gia Chương trình vay vốn Quốc gia hỗ trợ việc làm
(Chương trình 120), từ năm 2000 - 2008, số vốn kế hoạch và vốn đến hạn thu hồi
cho quay vòng là 102 tỷ đồng, giải quyết cho 29.000 lao động có việc làm. Vốn
cho vay được bảo toàn và phát triển tốt.
Hội
đã phối hợp với các bộ, ngành triển khai các Chương trình, dự án Quốc gia như:
khuyến nông, khuyến ngư; phát triển ngành nghề nông thôn; nước sạch, vệ sinh
môi trường v.v… với số tiền 3.281,37 tỷ đồng xây dựng các mô hình trình diễn,
tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật cho hội viên, nông dân.
Thông
qua hoạt động đối ngoại, Hội Nông dân Việt Nam đã hợp tác với các tổ chức phi
chính phủ và các nước, tranh thủ được nguồn vốn đầu tư, tài trợ từ các dự án
12,6 triệu USD (tương đương 192 tỷ VNĐ) để tổ chức các hoạt động chuyển giao
tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ mới cho nông dân ứng dụng vào sản xuất
các sản phẩm nông nghiệp hữu cơ, chuyển giao KHKT và xây dựng thương hiệu nông
sản v.v…
Đồng
thời, Hội Nông dân các cấp đã vận động nông dân tương trợ, giúp đỡ nhau tại
cộng đồng về vật tư, giống, vốn… để phát triển sản xuất, kinh doanh trị giá
trên 2.000 tỷ đồng (giai đoạn 2000 - 2008).
2. Phối hợp với các doanh nghiệp giúp nông dân mua
vật tư, máy nông nghiệp theo phương thức trả chậm
Trong
những năm qua, Hội Nông dân đã chủ động phối hợp với các doanh nghiệp sản xuất
phân bón như Công ty super phốtphát và Hoá chất Lâm Thao, Công ty phân bón Bình
Điền, Công ty Phân lân nung chảy Văn Điển… cung ứng hàng chục vạn tấn phân bón
cho nông dân (trả sau chu kỳ sản xuất) đảm bảo chất lượng, giá cả, tạo điều
kiện cho các hộ nông dân thiếu vốn sản xuất kịp thời vụ. Hội đã phối hợp với
các công ty của Tổng Công ty Máy động lực và máy nông nghiệp Việt Nam bán cho
nông dân theo phương thức trả chậm, trả góp, tạo điều kiện cho nông dân đưa cơ
giới hoá vào sản xuất.
3. Phối hợp với các bộ, ngành, doanh nghiệp, các
nhà khoa học tư vấn, hỗ trợ hội viên, nông dân trong việc ứng dụng tiến bộ khoa
học kỹ thuật phục vụ sản xuất và đời sống
Các
cấp Hội đã tích cực tổ chức tham gia công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến
công, khuyến ngư. Năm năm qua (2003-2008), Hội Nông dân đã mở được gần 300
nghìn lớp tập huấn kỹ thuật cho hội viên và nông dân.
Tổ
chức ứng dụng, chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ mới cho
nông dân, xây dựng mô hình trình diễn để nông dân tham quan và học tập. Thành
lập các Câu lạc bộ nông dân nhằm thu hút, tập hợp nông dân để các hộ sản xuất
kinh doanh giỏi phổ biến kinh nghiệm, kỹ năng sản xuất, giúp đỡ các hộ nghèo;
là nơi trao đổi, cung cấp thông tin về sản xuất, thị trường, … giúp nông dân
định hướng sản xuất.
Thực
hiện các dự án “Hướng dẫn người nghèo cách làm ăn ở một số xã đặc biệt khó
khăn” theo cách “cầm tay chỉ việc”.
4. Tuyên truyền, vận động nông dân tham gia xây
dựng và phát triển kinh tế hợp tác, xây dựng hợp tác xã ở nông thôn
Quán
triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về
tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể, các cấp Hội
đã có nhiều hình thức tuyên truyền Luật Hợp tác xã, vận động hội viên, nông dân
tham gia củng cố các hợp tác xã hiện có, hình thành các tổ liên kết, liên
doanh, tổ hợp tác và thành lập các hợp tác xã mới theo Luật.
Ở
nhiều nơi, nhất là khu vực Nam bộ, Hội đã đứng ra thành lập các tổ hợp tác, tổ
liên kết sản xuất giúp nhau trong các khâu sản xuất như thuỷ lợi, vật tư, tín
dụng, thu hoạch, vận tải và tiêu thụ sản phẩm...
Việc
xây dựng, hoạt động của các hợp tác xã tuy còn gặp một số khó khăn do tư duy và
hiệu quả của mô hình hợp tác xã từ thời kỳ bao cấp, mặc dầu vậy, qua hoạt động
đã xuất hiện một số hợp tác xã điển hình, hoạt động có hiệu quả, bước đầu đã
tạo niềm tin cho nông dân khi tham gia vào hợp tác xã.
II - THỰC TRẠNG VAI TRÒ, TRÁCH NHIỆM CỦA HỘI TRONG
XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
“Phong trào nông dân thi đua xây dựng nông thôn mới” được phát động và tổ chức thực hiện từ rất sớm và
là một trong ba phong trào thi đua lớn, trọng tâm của Hội. Phong trào đã tập
trung vào các nội dung:
1. Vận động hội viên, nông dân tham gia xây dựng cơ
sở hạ tầng phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội nông thôn
Với
phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, các cấp Hội đặc biệt là cấp cơ sở
đã vận động nông dân tham gia đóng góp ngày công, tiền, vật liệu, hiến đất...
trị giá hàng ngàn tỷ đồng xây dựng các công trình đường giao thông liên thôn,
liên xã, đường điện, kênh mương, trường học, trạm xá, nhà văn hoá thôn, bản…
Năm
năm qua (nhiệm kỳ 2003-2008) hội viên, nông dân cả nước đã đóng góp 2,84 ngàn
tỷ đồng, trên 60 triệu ngày công để làm mới và sửa chữa 462 ngàn km đường giao
thông nông thôn, 271 ngàn km kênh mương nội đồng, 40.600 cầu, cống, 27.280
phòng học, trạm xá, nhà văn hóa xã, thôn, ấp, bản, ...
Đồng
thời, vận động hội viên, nông dân tích cực tham gia xóa đói giảm nghèo. Xây
dựng mô hình xoá đói, giảm nghèo bền vững ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số,
vùng sâu, vùng xa góp phần quan trọng vào thành tựu xóa đói, giảm nghèo ở nước
ta trong những năm vừa qua.
2. Vận động hội viên, nông dân tham gia cuộc vận
động “Toàn dân tham gia xây dựng đời sống văn hóa”, xây dựng gia đình văn hoá,
tham gia xây dựng làng, xã văn hoá
Những
đóng góp và thành tích nổi bật của Hội Nông dân các cấp trong hoạt động này là:
Tuyên
truyền nâng cao nhận thức, kiến thức cho nông dân về bảo vệ môi trường nông
thôn; tham gia xây dựng mô hình điểm về cấp nước sạch, công trình hợp vệ sinh,
tổ tự quản thu gom xử lý chất thải, nước thải nông thôn và mô hình về sản xuất
nông nghiệp sạch để tuyên truyền học tập nhân rộng.
Vận
động hội viên, nông dân xoá bỏ tập quán, hủ tục lạc hậu. Tổ chức các hoạt động văn hoá văn nghệ, thể dục thể
thao, tổ chức các giải bóng đá, bóng chuyền, giải vật, đua ghe thuyền,... Xây
dựng 14 nghìn Câu lạc bộ dân số - phát triển và các Câu lạc bộ nông dân về
phòng chống tệ nạn xã hội, HIV/AIDS.
Bình
quân hàng năm có trên 8 triệu hộ nông dân đăng kí phấn đấu, trong đó có trên 4
triệu hộ đạt danh hiệu “Gia đình văn hóa”.
3. Vận động hội viên, nông dân
thực hiện Qui chế dân chủ ở cơ sở, tham gia giải quyết khiếu nại, tố cáo của
nông dân
Thực
hiện Chỉ thị 26/2001/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, các cấp Hội đã tích cực
tham gia công tác phổ biến, giáo dục, tư vấn pháp luật góp phần nâng cao nhận
thức và ý thức chấp hành pháp luật của nông dân, hạn chế khiếu kiện sai, khiếu
kiện vượt cấp. Tuyên truyền, vận động thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở gắn với
thực hiện hòa giải mâu thuẫn trong nội bộ nông dân; tham gia giải quyết khiếu
kiện kéo dài liên quan đến đền bù, giải phóng mặt bằng, tranh chấp đất đai ở
nông thôn. Trong 5 năm qua (2003-2008) các Trung tâm tư vấn pháp luật đã được
thành lập ở Trung ương Hội và một số tỉnh, thành Hội. Hệ thống Câu lạc bộ nông
dân với pháp luật ngày càng phát triển và hoạt động có hiệu quả ở các cơ sở
Hội. Các cấp Hội đã tổ chức gần 500 ngàn buổi tuyên truyền, phổ biến pháp luật,
trợ giúp pháp lý cho hơn 200 ngàn hội viên, nông dân, hòa giải thành trên 300
ngàn vụ việc...
III - THỰC TRẠNG VAI TRÒ, TRÁCH NHIỆM CỦA HỘI TRONG
XÂY DỰNG GIAI CẤP NÔNG DÂN VIỆT NAM
Giai
cấp nông dân Việt Nam là lực lượng hùng hậu có ý nghĩa quan trọng đến thắng lợi
của cách mạng Việt Nam. Để xây dựng, củng cố và phát triển giai cấp nông dân trong
khối liên minh, những năm qua Hội Nông dân Việt Nam đã chú trọng:
1. Chăm lo củng cố, xây dựng
tổ chức Hội ngày càng vững mạnh
Từ
sau Đại hội đại biểu lần thứ nhất (tháng 3/1988), công tác chăm lo xây dựng tổ chức
Hội Nông dân Việt Nam xứng đáng với vai trò là người tổ chức, hướng dẫn và đại
diện cho quyền và lợi ích chính đáng của hội viên, nông dân luôn luôn được xác
định là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Trải qua 5 kỳ đại hội, các cấp Hội Nông
dân Việt Nam đã không ngừng được củng cố, xây dựng và ngày càng vững mạnh cả về
chính trị, tư tưởng và tổ chức, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhiệm vụ được giao.
Đến nay, tổ chức Hội có hệ thống 4 cấp từ trung ương đến cơ sở với 63 Ban Chấp
hành Hội Nông dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; 655 Ban Chấp hành Hội
Nông dân huyện, quận, thị, thành phố thuộc tỉnh; 10.474 Ban Chấp hành Hội Nông
dân cơ sở (xã, phường, thị trấn...); 92.417 chi hội; 182.924 tổ hội và gần 10
triệu hội viên, 100% xã, phường, thị trấn có nông dân có tổ chức Hội; 100% thôn,
ấp, bản có chi, tổ hội.
2. Tổ chức tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường
lối của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước cho hội viên, nông dân
Các
cấp Hội thường xuyên tổ chức tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối của
Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước bằng nhiều hình thức phong phú, đa
dạng phù hợp với trình độ của nông dân. Báo và Tạp chí của Hội đã phát hành
hàng triệu ấn phẩm, tiếp cận với nông dân trên tất cả các vùng miền của cả
nước. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về nông nghiệp, nông dân,
nông thôn được tuyên truyền sâu rộng, có ý nghĩa thiết thực trong vận động nông
dân tham gia sản xuất và xây dựng nông thôn mới. Công tác tuyên truyền đã cổ
vũ, khơi dậy tinh thần yêu nước, đoàn kết, ý chí tự lực, tự cường vươn lên của
nông dân; tạo nên sự đồng thuận, củng cố niềm tin của nông dân với Đảng, với
chế độ.
3. Thành lập trường và các trung tâm Dạy nghề và Hỗ
trợ việc làm nông dân; tổ chức đào tạo, tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ, kiến
thức khoa học kỹ thuật, pháp lý và dạy nghề cho cán bộ, hội viên, nông dân
Cùng
với việc tập hợp, vận động hội viên, nông dân tham gia ba phong trào thi đua
lớn, trọng tâm để bồi dưỡng, xây dựng hàng vạn nông dân sản xuất, kinh doanh
giỏi và các chủ trang trại, hình thành lực lượng nòng cốt trong phong trào nông
dân. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Hội đã góp phần nâng cao nhận thức
và trình độ chuyên môn cho cán bộ, hội viên.
Đến
nay, Hội đã xây dựng được Trường Đào tạo cán bộ; 49 trung tâm Dạy nghề và Hỗ
trợ việc làm ở trung ương và địa phương phục vụ cho công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, hội viên. Đồng thời, Hội đã phối hợp với các Trường Chính trị tỉnh,
thành phố và các Trung tâm Chính trị quận, huyện hàng năm tổ chức bồi dưỡng,
tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức khoa học kỹ thuật, pháp lý cho cán
bộ, hội viên, nông dân. Tổ chức dạy nghề tại chỗ, ngắn hạn cho trên 500.000
nông dân; giới thiệu và hỗ trợ việc cho trên 104.000 lao động; đưa gần 9.000
lao động đi làm việc ở nước ngoài.
4. Tổ chức cho hội viên, nông dân tham gia công tác
xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền vững mạnh; bồi dưỡng để hội viên, nông dân
có đủ điều kiện và tiêu chuẩn gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam
Để
tham gia công tác xây dựng Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị trong sạch,
vững mạnh, các cấp Hội và cán bộ, hội viên, nông dân đã có nhiều ý kiến tham
gia đóng góp với cấp ủy, chính quyền các cấp; đồng thời, tổ chức bồi dưỡng,
giới thiệu 83.400 cán bộ, hội viên nông dân ưu tú với cấp uỷ Đảng để chi bộ
đảng xem xét, kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam.
IV - ĐÁNH GIÁ CHUNG
1. Những kết quả đạt được
-
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Hội đã chủ động tập hợp nông dân xây dựng
các phong trào thi đua, tổ chức các hoạt động dịch vụ, tư vấn, hỗ trợ nông dân;
phát huy tiềm năng to lớn về sức sáng tạo và ý chí vươn lên của nông dân để
khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên đất đai và lao động; xoá đói giảm nghèo,
cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho nông dân; góp phần quan trọng vào
phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, xây dựng giai cấp nông dân và
củng cố khối liên minh công nhân - nông dân - trí thức vững mạnh. Thông qua
công tác xây dựng tổ chức Hội và chỉ đạo phong trào nông dân Hội đã kiến nghị
với Đảng và Nhà nước bổ sung, hoàn thiện một số chủ trương, chính sách liên
quan đến vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn.
- Từ phong trào nông dân thi đua sản xuất kinh doanh
giỏi, đoàn kết giúp nhau xóa đói giảm nghèo và làm giàu chính đáng do Hội phát
động và tổ chức thực hiện, đã tập hợp được hàng triệu nông dân phát huy tiềm
năng, lợi thế về đất đai, lao động, phát triển mạnh sản xuất, tăng thu nhập;
tập hợp những nông dân tiên tiến thành lực lượng nòng cốt, đi tiên phong trong
phát triển nông nghiệp theo hướng sản
xuất hàng hoá lớn; đã hình thành các mô hình kinh tế trang trại có hiệu quả,
các nhà doanh nghiệp ở nông thôn.
-
Trong phong trào xây dựng nông thôn mới, Hội đã vận động nông dân đóng góp một
phần quan trọng vào xây dựng kết cấu hạ tầng ở nông thôn. Thông qua nhiều hình
thức tổ chức các hoạt động phù hợp với trình độ nhận thức, phong tục tập quán
vùng miền như: tổ chức các cuộc thi, thành lập các Câu lạc bộ nông dân… đã nâng
cao nhận thức của nông dân, khơi dậy tinh thần tự chủ, tự lực tự cường, phát
huy sức mạnh của cộng đồng, đoàn kết, chia sẻ kinh nghiệm sản xuất, tương trợ
giúp đỡ nhau trong xoá đói giảm nghèo,… góp phần xây dựng đời sống văn hoá, giữ
gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn nông thôn.
-
Bước đầu Hội đã tổ chức được một số hoạt động dịch vụ có hiệu quả, thiết thực,
giúp nông dân nghèo không có tài sản thế chấp tháo gỡ được khó khăn, nhất là
khâu đầu vào của sản xuất như: vốn, vật tư nông nghiệp, đưa tiến bộ khoa học kỹ
thuật và công nghệ mới vào sản xuất, làm tăng năng suất, sản lượng, hạ giá
thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh hàng hoá nông sản, làm tăng thu nhập,
xoá đói giảm nghèo, cải thiện đời sống nông dân.
-
Đã tập hợp được đông đảo nông dân vào tổ chức Hội. Thông qua các hoạt động Hội,
chất lượng hội viên được nâng lên về nhận thức chính trị, củng cố và tăng cường
lòng tin của nông dân với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội.
-
Tổ chức Hội các cấp được củng cố, đội ngũ cán bộ đã có bước trưởng thành cả về
trình độ chuyên môn và năng lực vận động quần chúng. Sự phối hợp giữa Hội với
các bộ, ngành chức năng với chính quyền, các đoàn thể, tổ chức xã hội ở địa
phương được tăng cường và ngày càng chặt chẽ.
2. Những thiếu sót, hạn chế
-
Những đóng góp của Hội trong phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới và
xây dựng giai cấp nông dân Việt Nam còn chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh
của Hội. Hệ thống tổ chức của Hội từ Trung ương đến thôn, ấp, bản, với số lượng
Ủy viên Ban Chấp hành các cấp đến chi Hội là hơn 720.000 người và gần 10 triệu
hội viên, nhưng chưa phát huy hết tiềm năng và tính chủ động, sáng tạo. Tuy có
đóng góp quan trọng vào thành tựu phát triển nông nghiệp nhưng vai trò của Hội
Nông dân trong việc xây dựng các mô hình kinh tế hợp tác, liên kết sản xuất,
kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn
mờ nhạt.
-
Nội dung, phương thức hoạt động còn chậm đổi mới, nhiều nơi hoạt động Hội còn
mang tính hành chính. Hoạt động Hội chưa thể hiện rõ vai trò tập hợp, tổ chức
nông dân tham gia có hiệu quả vào các chương trình phát triển kinh tế - xã hội
ở nông thôn; đại diện chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nông dân;
chưa phản ánh kịp thời những khó khăn, vướng mắc, bức xúc trong nông dân để
tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền có biện pháp giải quyết kịp thời. Tình trạng
“hành chính hoá” trong hoạt động của một bộ phận cán bộ Hội ở các cấp chưa
giảm; còn thụ động, phụ thuộc, trông chờ vào sự chỉ đạo của cấp uỷ và sự điều
hành của chính quyền.
-
Vai trò giám sát, phản biện và các kiến nghị, đề xuất với Đảng, Nhà nước về các
vấn đề lên quan đến nông nghiệp, nông dân, nông thôn còn hạn chế.
-
Số lượng các chương trình, dự án quốc gia và quốc tế do Hội Nông dân làm chủ và
tham gia còn quá ít. Hoạt động tuyên truyền của Hội Nông dân các cấp chủ yếu là
vận động "chay" nên sức cuốn hút bị hạn chế. Quyền lợi của nông dân
khi trở thành hội viên Hội Nông dân chưa đủ mạnh để cuốn hút nông dân tích cực
tham gia các phong trào do Hội phát động.
3. Nguyên nhân của những thiếu sót, hạn chế
-
Hội Nông dân là một tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp nông dân, hội viên
của Hội là nông dân sống trên địa bàn nông thôn tự nguyện tham gia tổ chức Hội.
Hội hoạt động không vì mục tiêu kinh tế, nhưng lại giúp nông dân phát triển
kinh tế. Để việc tuyên truyền, vận động hội viên có hiệu quả thì cần có những
chương trình, dự án cụ thể nhằm xây dựng mô hình, đào tạo và chuyển giao cho
nông dân mới có tính thuyết phục. Do chưa có cơ chế chính sách cụ thể nên các
hoạt động dịch vụ, hỗ trợ nông dân phát triển sản xuất, kinh doanh của Hội
trong thời gian qua chủ yếu dựa vào cơ chế “xin - cho” thông qua các chương
trình phối hợp. Để có điều kiện hoạt động Hội đã ký chương trình phối hợp, nghị
quyết liên tịch với hơn 40 bộ, ngành, doanh nghiệp .... Các hoạt động đó tuy có
hiệu quả rất rõ rệt, thiết thực đối với nông dân, nhưng mới chỉ ở phạm vi hẹp.
Các hoạt động của Hội vẫn bị hạn chế do thiếu tính chủ động và những điều kiện
cần thiết, nhất là về kinh phí.
-
Một số cấp uỷ Đảng, chính quyền, bộ, ban, ngành ở Trung ương và địa phương nhận
thức chưa đầy đủ về vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của Hội, chưa tạo điều
kiện thuận lợi cho Hội hoạt động, đã góp phần làm hạn chế sự chủ động, sáng tạo
của đội ngũ cán bộ và hội viên.
-
Năng lực của đội ngũ cán bộ Hội còn nhiều bất cập, hạn chế cả về trình độ
chuyên môn và kỹ năng vận động quần chúng, nhất là ở cơ sở trước yêu cầu của
thực tiễn phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn trong tình hình mới.
-
Việc nghiên cứu, tổng kết thực tiễn để hình thành lý luận về xây dựng giai cấp
nông dân, xây dựng nông thôn mới, xây dựng tổ chức Hội chưa được quan tâm đúng
mức để rút kinh nghiệm làm cơ sở cho đổi mới các hoạt động.
Phần thứ hai
QUAN
ĐIỂM, MỤC TIÊU CỦA HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM TRONG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP, XÂY DỰNG
NÔNG THÔN MỚI VÀ XÂY DỰNG GIAI CẤP NÔNG DÂN VIỆT NAM
I - QUAN ĐIỂM
1. Nâng cao vai trò, trách nhiệm của Hội Nông dân
Việt Nam trong phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới và xây dựng giai
cấp nông dân Việt Nam phải trên cơ sở các quan điểm của Đảng và Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá X) về nông nghiệp, nông dân,
nông thôn
Hội
Nông dân Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp nông dân, đại diện
cho ý chí và nguyện vọng của giai cấp nông dân. "Mọi hoạt động của Hội
Nông dân phải hướng về cơ sở, đem lại lợi ích thiết thực cho nông dân nhất là
nông dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số"1. Hội
Nông dân hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, vì vậy những
quan điểm của Đảng trong các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về phát triển nông nghiệp,
nông dân, nông thôn là tiền đề, là điều kiện tiên quyết để Hội Nông dân Việt
Nam nâng cao vai trò, trách nhiệm của mình trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
2. Hội Nông dân Việt Nam là trung tâm và nòng cốt
trong phong trào nông dân và xây dựng nông thôn mới. Hội đại diện và bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của giai cấp nông dân Việt Nam
Trong
giai đoạn hiện nay, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là một
trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Hội nghị Trung ương 7 (khóa X) đã có chủ trương xây dựng các quy hoạch
phát triển nông thôn và thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới; xây dựng
các làng, xã, thôn, ấp, bản có cuộc sống no đủ, văn minh, môi trường lành mạnh;
hình thành các khu dân cư đô thị với kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ.
Gắn phát triển kinh tế với xây dựng nông thôn mới, giải quyết tốt hơn mối quan
hệ giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng miền, góp phần giữ vững ổn định
chính trị - xã hội.
Hiện
nay kinh tế nông thôn đã chuyển dịch theo hướng công nghiệp, dịch vụ thương mại
và nông nghiệp. Bộ mặt nhiều vùng nông thôn đã đổi mới. Đời sống vật chất và
tinh thần của dân cư hầu hết các vùng nông thôn ngày càng được cải thiện, dân
chủ cơ sở được phát huy. Vì vậy, phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn
mới, xây dựng giai cấp nông dân là một trong những định hướng quan trọng của
Đảng trong sự nghiệp đổi mới.
Hội
Nông dân là tổ chức đại diện cho giai cấp nông dân, không chỉ đại diện về mặt
chính trị mà còn đại diện cả về lĩnh vực kinh tế, xã hội. Vì vậy Hội Nông dân
cần được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và cần được Nhà nước tạo điều
kiện để Hội thật sự là trung tâm, là nòng cốt trong các phong trào nông dân và
xây dựng nông thôn mới.
3. Xây dựng dựng tổ chức Hội Nông dân vững mạnh
phải gắn với xây dựng giai cấp nông dân Việt Nam, củng cố khối liên minh công
nhân - nông dân - trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng
Nông
dân nước ta là lực lượng to lớn nhất đã góp phần quan trọng xây đắp nên lịch sử
hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc. Trong suốt quá trình cách
mạng, giai cấp nông dân luôn luôn một lòng sắt son đi theo con đường mà Đảng,
Bác Hồ và toàn dân tộc ta đã lựa chọn, đó là "độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội". Ngày nay vị thế chính trị của giai cấp nông dân; vị
trí, vai trò của Hội Nông dân ngày càng được nâng cao.
Trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Hội Nông dân cần phải
vững mạnh hơn nữa, đáp ứng vai trò tổ chức các phong trào nông dân và hoạt động
của Hội hiện nay. Hội phải kiện toàn hệ thống tổ chức bộ máy các cấp để đủ sức
tổ chức thực hiện các chương trình, dự án thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 7 (khoá X) của Đảng về nông nghiệp, nông dân, nông thôn mà Hội xây dựng và
đề xuất.
Hội
nghị Trung ương 7 (khoá X) của Đảng về nông nghiệp, nông dân, nông thôn nhấn
mạnh việc chăm lo củng cố khối liên minh công nhân - nông dân - trí thức là
nhiệm vụ của toàn Đảng và của cả hệ thống chính trị. Vì vậy, Hội phải đóng góp
tích cực vào củng cố khối liên minh công nhân- nông dân- trí thức dưới sự lãnh
đạo của Đảng để phát huy vai trò của giai cấp nông dân trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn.
4. Hội Nông dân Việt Nam trực tiếp tham gia một số
chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn
Trước
đây và trong cả những năm vừa qua, hoạt động của Hội chủ yếu là tuyên truyền,
vận động, giác ngộ nông dân theo Đảng, theo cách mạng. Trong giai đoạn phát
triển kinh tế hiện nay, những nội dung đó vẫn cần, nhưng nếu chỉ dừng lại như
vậy thì hoạt động của Hội sẽ kém hiệu quả. Hoạt động của Hội cần phải gắn với
các hoạt động kinh tế thì mới tăng sức thuyết phục trong phong trào nông dân.
Các hoạt động gắn với kinh tế sẽ tạo ra sức lan tỏa mạnh, trên cơ sở đó nông
dân thấy lợi ích và quyền lợi của chính họ. Để làm được việc đó, Hội Nông dân
phải trực tiếp tham gia một số chương trình dự án phát triển kinh tế- xã hội ở
nông thôn.
Công
nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong
thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Các chương trình, dự án thực
hiện chủ trương này đã và đang được tất cả các cấp, các ngành từ Trung ương đến
địa phương triển khai thực hiện với mục tiêu tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong
sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn; xây dựng nông thôn mới; nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nông dân.
Một
trong những chức năng của Hội Nông dân Việt Nam là : "Chăm lo, bảo vệ
quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của nông dân; tổ chức các hoạt động dịch
vụ, tư vấn, hỗ trợ nông dân trong sản xuất và đời sống"1. Để làm tốt nhiệm
vụ này, Hội phải đề xuất với Đảng, Nhà nước những điều kiện và cơ chế cụ thể
nhằm thực hiện và đưa Nghị quyết Trung ương 7 (khoá X) vào đời sống của nông
dân.
II - MỤC TIÊU
1. Mục tiêu tổng quát
Phấn đấu đến năm 2020, xây dựng Hội Nông dân Việt Nam vững
mạnh toàn diện cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thực sự là trung tâm và
nòng cốt trong phong trào nông dân và công cuộc xây dựng nông thôn mới; góp
phần không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của cư dân nông thôn,
xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững và
xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại. Nông dân
được đào tạo có trình độ sản xuất ngang bằng với các nước tiên tiến trong khu
vực và đủ bản lĩnh chính trị, đóng vai trò làm chủ nông thôn mới.
2. Mục tiêu cụ thể
Để
thực hiện mục tiêu tổng quát trên đây, Hội Nông dân Việt Nam đặt ra những mục
tiêu phấn đấu cụ thể từ nay đến 2020 theo các giai đoạn như sau:
a) Mục tiêu đến năm 2015:
Góp
phần nâng cao thu nhập của cư dân nông thôn gấp 2 lần so với năm 2008.
Phấn
đấu có 25% số hộ nông dân đạt danh hiệu hộ sản xuất kinh doanh giỏi các cấp (có
thu nhập bình quân đầu người/hộ đạt mức bình quân GDP/đầu người của Quốc gia
trở lên).
Hội
phấn đấu tham gia dịch vụ chuyển tải vốn cho 50% số hộ nông dân để đầu tư phát
triển sản xuất, kinh doanh.
Phấn
đấu mỗi xã có một mô hình kinh tế tập thể (tổ hợp tác, tổ liên kết, tổ tương hỗ…)
kiểu mới có hiệu quả do Hội hướng dẫn tổ chức.
Phát
triển hệ thống trung tâm Dạy nghề và Hỗ trợ nông dân đến cấp tỉnh, nơi có điều
kiện thuận lợi có thể phát triển đến cấp huyện. Phấn đấu có 60% hội viên được
tập huấn kỹ thuật nông nghiệp. Mỗi năm dạy nghề cho 200.000 nông dân, trong đó:
2.000 trình độ trung cấp, 60.000 trình độ sơ cấp, 138.000 được dạy nghề ngắn
hạn tại chỗ (dưới 3 tháng).
Phấn
đấu 50% cán bộ chủ chốt ở cơ sở có trình độ chuyên môn đạt chuẩn theo quy định.
Tuyên
truyền vận động để 70% chủ hộ sản xuất nông nghiệp tham gia hội viên Hội Nông dân
Việt Nam.
b) Mục tiêu đến năm 2020:
Góp
phần nâng cao thu nhập của cư dân nông thôn gấp 2,5 lần so với năm 2008.
Phấn
đấu có 40% số hộ nông dân đạt danh hiệu "hộ sản xuất kinh doanh giỏi"
các cấp, Hội đáp ứng một phần các dịch vụ chủ yếu hỗ trợ về vốn, vật tư sản
xuất và dịch vụ tiêu thụ sản phẩm hàng hóa cho nông dân.
Phấn
đấu 50% số hộ nông dân tham gia các hình thức hợp tác, liên kết sản xuất và tiêu
thụ nông sản hàng hóa.
Phát
triển hệ thống trung tâm Dạy nghề và Hỗ trợ nông dân đến hầu hết các huyện, góp
phần nâng tỷ lệ lao động nông thôn qua đào tạo đạt trên 50%. Mỗi năm dạy nghề
cho 210.000 nông dân, trong đó: 3.000 trình độ trung cấp, 70.000 trình độ sơ
cấp, 137.000 được dạy nghề ngắn hạn tại chỗ (dưới 3 tháng). Bình quân hàng năm
có 2/3 số hộ sống trên địa bàn nông thôn đăng ký trong đó có 1/2 số hộ đạt danh
hiệu "Gia đình văn hóa"; góp phần thực hiện mục tiêu 50% số xã đạt
tiêu chuẩn nông thôn mới mà Nghị quyết Trung ương 7 (khóa X) đã xác định.
Phấn
đấu 100% cán bộ chủ chốt ở cơ sở Hội có trình độ chuyên môn đạt chuẩn theo quy
định.
Tuyên
truyền, vận động để 75% chủ hộ sản xuất nông nghiệp tham gia hội viên Hội Nông
dân Việt Nam.
Phần thứ ba
GIẢI
PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ, TRÁCH NHIỆM CỦA HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM TRONG PHÁT TRIỂN
NÔNG NGHIỆP, XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI VÀ XÂY DỰNG GIAI CẤP NÔNG DÂN VIỆT NAM
Để
thực hiện chức năng tập hợp, vận động, giáo dục hội viên, nông dân; đại diện
cho giai cấp nông dân tham gia xây
dựng Đảng, Nhà nước và khối đại đoàn kết toàn dân tộc; chăm lo, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của nông dân, tổ chức các hoạt động dịch vụ, tư vấn, hỗ trợ
nông dân trong sản xuất và đời sống, công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục
cho cán bộ, hội viên, nông dân có vị trí hết sức quan trọng xuyên suốt trong
mọi hoạt động của các cấp hội. Trong giai đoạn cách mạng mới, các cấp Hội Nông
dân Việt Nam tiếp tục nâng cao năng lực truyền thông, đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, vận động hội viên, nông dân nắm vững và thực hiện tốt các chủ trương,
đường lối của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước; góp phần nâng cao vai
trò của Hội trong phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới và xây dựng
giai cấp nông dân Việt Nam.
I - GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ, TRÁCH NHIỆM CỦA HỘI
NÔNG DÂN VIỆT NAM TRONG PHÁT TRIỂN NÔNG
NGHIỆP
Tiếp
tục nâng cao chất lượng và hiệu quả “Phong trào nông dân thi đua sản xuất
kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau xóa đói giảm nghèo và làm giàu chính đáng”.
Phấn đấu để phong trào có bước phát triển mới về chất, làm xuất hiện ngày
càng nhiều hộ nông dân sản xuất kinh doanh giỏi với các tố chất mới. Đó là: sản
xuất kinh doanh có hiệu quả trên cơ sở nâng cao chất lượng hàng hóa nông sản,
bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm, đáp ứng khả năng cạnh tranh hàng hóa trong
thời kỳ hội nhập; tạo được nhiều việc làm cho người lao động trên cơ sở người
lao động được bảo đảm quyền lợi về vật chất và tinh thần; liên kết, liên doanh,
tham gia cổ phần vào các doanh nghiệp, phát triển kinh tế hợp tác, xây dựng hợp
tác xã ở nông thôn. Để nâng cao chất lượng và hiệu quả phong trào, trong
những năm tới, các cấp Hội Nông dân Việt Nam tập trung thực hiện tốt các giải
pháp sau:
1. Tổ chức mở rộng các hoạt động dịch vụ, tư vấn hỗ
trợ nông dân
a) Dịch vụ về vốn:
Đổi
mới, phát triển và
nâng cao hiệu quả hoạt động Quỹ Hỗ trợ nông dân trên cơ sở đề nghị Nhà nước
tiếp tục bổ sung kinh phí và huy động từ nhiều nguồn. Tiếp tục xây dựng Quỹ Hỗ
trợ nông dân ở các tỉnh, huyện, xã còn lại chưa thành lập Quỹ. Thí điểm đầu tư
Quỹ vào việc xây dựng mô hình sản xuất, kinh doanh theo hướng qui mô sản xuất
lớn, mô hình kinh tế tập thể.
Tiếp
tục phối hợp chặt chẽ với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân
hàng Chính sách xã hội giúp nông dân vay vốn và sử dụng vốn vay có hiệu quả
thông qua các tổ vay vốn do Hội Nông dân thành lập. Mở rộng qui mô và sử dụng
có hiệu quả nguồn vốn Quỹ quốc gia giải quyết việc làm.
Các cấp hội (đặc biệt
là cấp xã) chủ động giúp nông dân xây dựng các dự án khả thi để tổ chức sản
xuất có hiệu quả, làm cơ sở để huy động các nguồn vốn phát triển sản xuất. Hỗ
trợ giúp nông dân về trình tự thủ tục để người dân tiếp cận các nguồn vốn theo
quy định.
b) Dịch vụ hỗ trợ nông dân tiếp cận với khoa học kỹ thuật
và công tác quản lý trong sản xuất, kinh doanh:
- Xây dựng mô hình trình diễn để nông dân tham quan học
tập. Nông dân Việt Nam nói chung có trình độ văn hóa thấp, do
vậy việc tiếp thu kiến thức khoa học kỹ thuật qua sách báo, tài liệu và các
phương tiện thông tin đại chúng còn hạn chế. Cách tiếp cận tốt nhất đối với nông
dân là học tập qua các mô hình trình diễn cụ thể bằng phương pháp “cầm tay chỉ
việc”. Thông qua mô hình, nông dân mắt thấy, tai nghe và làm theo. Nông dân
Việt Nam với đức tính cần cù, sáng tạo sẽ từng bước thay đổi cách nghĩ, cách
làm để có hiệu quả kinh tế. Vấn đề là các mô
hình trình diễn phải điển hình, có sức thuyết phục, có hiệu quả và có khả năng
nhân rộng trong địa phương. Đây là cách làm thiết thực, hiệu quả mà Hội Nông
dân có thể chủ động triển khai trên diện rộng.
-
Mở rộng quy mô tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật cho nông dân. Ngày nay khoa học kỹ thuật có vị trí quan trọng trong quá
trình sản xuất. Người dân rất cần được hỗ trợ chuyển giao khoa học kỹ thuật.
Chuyển giao khoa học kỹ thuật cho nông dân phải gắn liền với hoạt động sản xuất
của họ và được xuất phát từ những khâu đơn giản: Kỹ thuật chọn giống, kỹ thuật
canh tác, kỹ thuật bảo quản sau thu hoạch, kỹ thuật chế biến nông sản,... Cách chuyển
giao khoa học kỹ thuật cho nông dân tốt nhất là bằng mô hình và thực tế trên
đồng ruộng, chuồng trại.
Trên cơ sở Nghị quyết Trung ương 7 (khoá
X) của Đảng về nông nghiệp, nông dân, nông thôn và cơ chế, chính sách tạo điều kiện
của Chính phủ cho Hội, các cấp Hội chủ động
xây dựng các chương trình, dự án trình cấp có thẩm quyền phê duyệt để Hội trực
tiếp thực hiện việc chuyển giao khoa học kỹ thuật cho hội viên, nông dân.
Tiếp tục phối hợp với các bộ, ngành, các nhà khoa học
tham gia vào các chương trình, dự án liên quan
đến công tác tuyên truyền, phổ biến, ứng dụng, chuyển giao khoa học kỹ thuật nhằm
phát triển sản xuất, cải thiện và nâng cao đời sống nông dân.
c) Dịch vụ cung ứng thiết bị, vật tư
nông nghiệp và tiêu thụ sản phẩm hàng hóa cho nông dân:
Hiện
nay, vấn đề cơ khí hoá nông nghiệp, nông thôn vẫn diễn ra chậm, chưa đáp ứng
được yêu cầu trong tình hình mới. Một phần do nông dân thiếu vốn đầu tư, một
phần do dịch vụ cung ứng vật tư, máy nông nghiệp chỉ phát triển ở khu vực có hệ
thống giao thông thuận lợi. Hội Nông dân cần có chương trình, kế hoạch cụ thể
để phối hợp với các doanh nghiệp cung ứng vật tư nông nghiệp, máy móc cho nông
dân đảm bảo chất lượng theo phương thức trả chậm không tính lãi.
Cả
nước hiện có 837.500 tổ hợp tác, đáp ứng một phần nhu cầu dịch vụ sản xuất và
tiêu thụ sản phẩm cho nông dân. Tuy vậy, nhiều nơi nông dân vẫn phải bán sản
phẩm với giá rẻ ngay sau khi thu hoạch, nhất là nông dân ở đồng bằng sông Cửu
Long. Hội Nông dân cần có các hoạt động hỗ trợ như hỗ trợ tín dụng để nông dân,
các chủ trang trại, hợp tác xã thu mua kịp thời nông sản do nông dân làm ra.
Xây dựng mạng lưới tham gia tiêu thụ sản phẩm cho nông dân thông qua hệ thống
các Trung tâm Dạy nghề và Hỗ trợ nông dân, thí điểm xây dựng một số kho bảo
quản nông sản...
d) Dịch vụ hỗ trợ thông tin:
Trong
thời đại ngày nay, thông tin đóng vai trò quan trọng trong công cuộc phát triển
kinh tế và nâng cao đời sống người dân. Nâng cao năng lực truyền thông của Hội,
mở rộng dịch vụ thông tin giúp nông dân tiếp cận thông tin về đường lối, chính sách,
các qui định của pháp luật liên quan tới nông nghiệp, nông dân, nông thôn;
thông tin về khoa học kỹ thuật và công nghệ, thị trường, giá cả vật tư nông
nghiệp, nông sản hàng hóa…
Ngoài
việc tiếp cận thông tin qua các phương tiện truyền thông như báo hình, báo nói
và báo viết thì việc tiếp cận thông tin qua mạng internet đã làm thay đổi mạnh
mẽ các hoạt động của sản xuất và đời sống của nông dân. Tuy nhiên, hiện nay
việc tiếp cận với hình thức thông tin này còn rất hạn chế so với nhu cầu, cho
nên Hội phải xây dựng các chương trình, dự án hỗ trợ tập huấn để nông dân tiếp
cận với công nghệ thông tin và khai thác sử dụng mạng Internet phục vụ phát
triển sản xuất kinh doanh, nâng cao đời sống văn hóa tinh thần.
e) Dịch vụ hỗ trợ nông dân xây dựng thương hiệu sản phẩm hàng hoá:
Sản
phẩm nông nghiệp do nông dân sản xuất ra rất đa dạng và phong phú. Tuy nhiên,
phần lớn nông sản chưa có thương hiệu, mẫu mã bao bì chưa phù hợp, đặc biệt
nông sản xuất khẩu chủ yếu ở dạng sơ chế, sản phẩm có giá trị gia tăng thấp.
Chỉ số cạnh tranh của các ngành hàng nông lâm, thuỷ sản chỉ ở mức trung bình hoặc
dưới trung bình của thế giới. Hội Nông dân cần tuyên truyền và hỗ trợ nông dân
xây dựng thương hiệu sản phẩm hàng hoá để tăng tính canh tranh trong nước cũng
như trên thị trường thế giới.
2. Vận động, hướng dẫn nông dân tham
gia “liên kết 4 nhà”, các hình thức kinh tế tập thể, hợp tác, liên kết sản xuất và tiêu
thụ hàng hóa trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Trong
nền kinh tế hội nhập thì việc liên kết là tất yếu, và chính liên kết đã tạo ra
sức mạnh tổng hợp để hỗ trợ giúp nhau cùng phát triển. Ngày 24/6/2002, Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg về chính sách khuyến
khích tiêu thụ nông sản hàng hóa thông qua hợp đồng làm cơ sở trong liên kết từ
sản xuất tới tiêu thụ sản phẩm cho nông dân. Trong “liên kết 4 nhà" thì
nhà nông có lực lượng đông đảo nhất và là trung tâm của mối liên kết. Trong
những năm tới, Hội Nông dân Việt Nam cần tập trung vận động, hướng dẫn hội
viên, nông dân tham gia “liên kết 4 nhà” thực hiện quyết định của Thủ tướng
Chính phủ.
Kinh
tế tập thể là hình thức tổ chức sản xuất mang tính xã hội hóa và tính cạnh
tranh cao hơn sản xuất cá thể, bởi nó tích tụ, tập trung được đất đai, tiền
vốn, năng lực quản lý. Kinh tế tập thể giúp cho quá trình đầu tư mở rộng sản
xuất, đầu tư trang bị kỹ thuật, áp dụng khoa học công nghệ... kinh tế tập thể
có khả năng tiếp cận các nguồn tài trợ của Chính phủ, thực hiện tích lũy, tái
sản xuất mở rộng, cải thiện thu nhập và đời sống nông dân, xây dựng nông thôn
mới. Lựa chọn hình thức kinh tế hợp tác nào là do trình độ phát triển của kinh
tế hộ quyết định. Hợp tác xã là tổ chức kinh tế có đủ tư cách pháp nhân tổ chức
các hoạt động dịch vụ đầu vào và đầu ra cho sản phẩm hàng hóa của nông dân. Để
phát triển các mô hình hợp tác, Hội tập trung vào một số hoạt động:
-
Tuyên truyền, phổ biến để nông dân hiểu rõ những thời cơ cũng như những thách
thức trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và
hội nhập kinh tế thế giới; con đường tất yếu của các hộ nông dân là liên kết,
hợp tác với nhau trong qui trình sản xuất - tiêu thụ sản phẩm để sản xuất hàng
hóa có năng suất, chất lượng, hiệu quả và tăng sức cạnh tranh trên thị trường
trong nước và thế giới.
- Vận
động nông dân liên kết sản xuất theo hướng phát triển kinh tế tập thể, phát
triển quan hệ liên kết giữa các hộ sản xuất với các cơ sở chế biến, doanh
nghiệp thương mại, dịch vụ, cơ sở nghiên cứu khoa học, ứng dụng chuyển giao
công nghệ; khuyến khích nông dân mua cổ phần trong các nhà máy chế biến nông
sản, doanh nghiệp thương mại, dịch vụ nông nghiệp để hỗ trợ nông dân vươn lên
trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Hội
phối hợp với Liên minh các hợp tác xã Việt Nam nghiên cứu, tổng kết thực tiễn
một số loại mô hình kinh tế tập thể hoạt động có hiệu quả về sản xuất, tiêu thụ
sản phẩm hàng hoá trong nông nghiệp, đặc biệt là loại mô hình hợp tác, liên kết
trong sản xuất nông nghiệp và dịch vụ mà Hội tham gia, phát triển phù hợp với
tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và đặc thù các
vùng miền để định hướng chỉ đạo các hoạt động của Hội trong công tác vận động,
hướng dẫn nông dân vào các hình thức kinh tế tập thể.
3. Vận động nông dân đẩy nhanh quá
trình tích tụ ruộng đất, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, tạo ra sản
phẩm nông nghiệp có giá trị và khả năng cạnh tranh cao hơn; hình thành những
vùng sản xuất hàng hoá tập trung.
Tích
tụ ruộng đất là đòi hỏi tất yếu của quá trình đi lên sản xuất lớn của nền nông
nghiệp nước ta và hiện nay đang trở thành yêu cầu bức thiết. Vì vậy, trên cơ sở
các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các cấp Hội phải đóng vai trò là
nòng cốt trong việc tuyên truyền, vận động nông dân đẩy nhanh quá trình tích tụ
ruộng đất, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, tạo ra sản phẩm nông nghiệp
có giá trị và khả năng cạnh tranh cao hơn, hình thành những vùng sản xuất có
quy mô đủ lớn, tập trung.
II - GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ, TRÁCH NHIỆM CỦA HỘI
NÔNG DÂN VIỆT NAM TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN
MỚI
Chương
trình xây dựng nông thôn mới hiện nay là cuộc vận động lớn, có ý nghĩa quan
trọng trong cả trước mắt và lâu dài, Hội Nông dân Việt Nam tập trung đẩy mạnh
“Phong trào nông dân thi đua xây dựng nông thôn mới” theo tinh thần Nghị quyết
Đại hội V của Hội với những nội dung sau:
1. Hội Nông dân các cấp tham gia xây dựng và tổ chức
giám sát việc thực hiện quy hoạch tại địa phương
Vấn
đề quy hoạch có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng nông thôn mới, ảnh hưởng
đến đất sản xuất, môi trường sinh thái, văn hóa xã hội, đến việc làm của người
dân. Với vai trò là người đại diện cho dân, các cấp Hội chủ động tham gia tích
cực trong việc xây dựng và giám sát quá trình thực thi quy hoạch để bảo vệ
quyền lợi chính đáng của nông dân và góp phần tạo ra môi trường nông thôn mới
bền vững.
2. Phổ biến, tuyên truyền rộng rãi trong hội viên,
nông dân Chương trình xây dựng nông thôn mới của Chính phủ và Bộ tiêu chí quốc
gia về nông thôn mới
Tuyên
truyền để hội viên, nông dân hiểu rõ mục đích, ý nghĩa, nội dung Chương trình
xây dựng nông thôn mới trên cơ sở nội dung cơ bản của Bộ tiêu chí quốc gia về
nông thôn mới. Từ yêu cầu thực tiễn về xây dựng nông thôn mới, Hội xây dựng
chương trình nhiệm vụ nhằm định hướng cho nông dân xây dựng nông thôn mới.
3. Tổ chức tham gia thực hiện
một số tiêu chí trong nội dung Chương trình xây dựng nông thôn mới
- Về xây dựng hạ tầng kinh tế - xã hội:
Vận động nông dân đóng góp
công sức tham gia xây dựng và duy tu, bảo dưỡng cơ sở hạ tầng nông thôn. Tham
gia tổ chức thực hiện xây dựng đường giao thông liên thôn, nội thôn; công trình
thuỷ lợi nội đồng quy mô nhỏ và xây dựng các mô hình cấp nước sạch, thu gom xử
lý rác thải. Thực hiện chức năng tham gia giám sát các công trình Nhà nước đầu
tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội tại địa phương; làm nòng cốt trong
công tác dân số - gia đình - trẻ em, xây dựng các câu lạc bộ dân số - phát
triển… ở nông thôn.
- Về tiêu chí kinh tế và tổ chức sản xuất:
Hội
tiếp tục tổ chức các hoạt động hỗ trợ, giúp đỡ nông dân nghèo có hiệu quả và
bền vững ở những vùng đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn, vùng sâu,
vùng xa, vùng bãi ngang ven biển theo phương thức “Cầm tay, chỉ việc”, “nông
dân dạy nông dân”. Tiến hành tổng kết thực
tiễn, đánh giá các mô hình xóa đói giảm nghèo do Hội hướng dẫn, tổ chức thực
hiện. Với sự hỗ trợ và tạo điều kiện của Chính phủ, Hội tiếp tục vận động nông
dân phát huy nguồn lực và sức mạnh của cộng đồng để nhân rộng mô hình xóa đói
giảm nghèo ở nông thôn, quan tâm đế vùng đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
- Về tiêu chí văn hóa - xã hội:
Tiếp
tục tuyên truyền, vận động nông dân xây dựng đời sống văn hóa mới, xóa bỏ các
hủ tục lạc hậu, mê tín, dị đoan; tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể
dục thể thao; tham gia đóng góp xây dựng thiết chế văn hóa ở nông thôn và tổ
chức một số hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao quần chúng của nông
dân.
- Về tiêu chí bảo vệ môi trường nông
thôn:
Quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hoạt động của các làng nghề, sử
dụng các hóa chất trong sản xuất nông nghiệp dẫn đến lượng các chất gây ô nhiễm
môi trường gia tăng mạnh. Nhiều vùng nông thôn thiếu nước sạch để dùng trong
sinh hoạt, các điều kiện vệ sinh, chất thải, rác thải nông thôn chưa được thu
gom xử lí; nhận thức của người dân và cộng đồng về lợi ích bảo vệ môi trường
còn hạn chế làm cho môi trường nông thôn ngày càng ô nhiễm và trở thành vấn đề
bức xúc. Vấn đề trái đất nóng lên, nước biển dâng cao và khí hậu đang biến đổi
một cách khắc nghiệt đang đe dọa trực tiếp đến Việt Nam: lũ lụt, hạn hán, triều
cường ngày càng nặng nề hơn, ảnh hưởng trực tiếp đến sự an toàn của con người
và cả nền kinh tế. Hội Nông dân phải thực hiện vai trò trung tâm trong việc bảo
vệ môi trường nông thôn. Tích cực tuyên truyền, giáo dục vận động nâng cao kiến
thức bảo vệ môi trường, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động trong
các cấp Hội và cán bộ, hội viên nông dân về bảo vệ môi trường nông thôn; tham gia
vào các Chương trình mục tiêu Quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn,
Chương trình mục tiêu Quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu…
- Về
góp phần xây dựng hệ thống chính trị xã hội vững mạnh:
Xây
dựng Hội Nông dân Việt Nam vững mạnh toàn diện cả về chính trị, tư tưởng và tổ
chức; thực sự là trung tâm và nòng cốt trong phong trào nông dân và công cuộc
xây dựng nông thôn mới; góp phần xây dựng hệ thống chính trị xã hội vững mạnh.
III - GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ, TRÁCH NHIỆM CỦA
HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM TRONG XÂY DỰNG GIAI CẤP NÔNG DÂN VIỆT NAM
1. Phối hợp với các cơ quan chức năng tổ chức
nghiên cứu lý luận về giai cấp nông dân trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,
nông thôn và hội nhập kinh tế quốc tế
Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cương
lĩnh khẳng định: “Xây dựng giai cấp nông dân về mọi mặt để xứng đáng là một
lực lượng cơ bản trong việc xây dựng nông thôn mới, góp phần đắc lực vào sự
nghiệp công nghiệp hóa”.
Từ khi Đảng ta thực hiện đường lối đổi mới, đời sống vật
chất, tinh thần và vị thế chính trị của giai cấp nông dân được nâng cao. Việc giao quyền sử dụng đất ổn định lâu dài, đổi
mới cơ chế quản lý kinh tế, nâng cao tính tự chủ của kinh tế hộ gia đình, thực
thi cơ chế dân chủ ở nông thôn đã đem lại những thay đổi to lớn trong đời sống
chính trị ở nông thôn. Người nông dân đã được tạo điều kiện làm chủ cuộc sống
của mình. Nhiều hộ đã vươn lên trong cơ chế thị trường, nắm bắt khoa học kỹ
thuật, phát triển sản xuất hàng hoá có hiệu quả. Niềm tin vào Đảng, Nhà nước,
chế độ được củng cố và tăng cường.
Trong
sự nghiệp đổi mới và công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thì
nông dân đóng vai trò vô cùng quan trọng. Những đặc thù của giai cấp nông dân
Việt Nam cần được nghiên cứu để hình thành lý luận về giai cấp nông dân nhằm
định hướng phát triển giai cấp nông dân đúng quy luật và phù hợp với định hướng
của Đảng trong thời kỳ mới. Hội Nông dân Việt Nam cần phối hợp và tham gia với
Hội đồng Lý luận Trung ương tổ chức nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về
giai cấp nông dân trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn và hội
nhập kinh tế quốc tế.
2. Nghiên cứu đề xuất và tổ chức thực hiện chiến
lược hành động của Hội tham gia xây dựng mẫu hình "Người nông dân thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn"
Nghị
quyết Trung ương 7 (khóa X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn khẳng định rõ chủ trương của
Đảng ta là: "Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông
nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội
nông thôn ổn định, giầu bản sắc văn hoá dân tộc; dân trí được nâng cao, môi
trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo
của Đảng được tăng cường".
Nông dân là chủ thể ở nông thôn, xây
dựng nông thôn mới thì tất yếu phải xây dựng người nông dân mới. Để phong trào nông dân thi đua
xây dựng nông thôn mới có ý nghĩa thiết thực, phát triển cả chiều rộng và chiều
sâu, Hội Nông dân Việt Nam chủ động
xây dựng tiêu chí và chiến lược hành động xây dựng mẫu hình "Người nông dân thời kỳ công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nông nghiệp, nông thôn".
Tiêu chí cụ thể về "Người nông dân thời kỳ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn" sẽ thể hiện rõ phẩm chất yêu nước,
yêu chủ nghĩa xã hội, toàn tâm toàn ý đi theo con đường cách mạng Việt Nam mà
Đảng, Bác Hồ và toàn dân tộc Việt Nam đã chọn; lấy tư tưởng "Đoàn kết,
đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công" của Chủ
tịch Hồ Chí Minh là tư tưởng chủ đạo trong mọi hành động. Có kiến thức về khoa học – kỹ thuật trong lĩnh vực
sản xuất để đảm bảo trình độ sản xuất
tiên tiến, ngang bằng với các nước trong khu vực. Hiểu biết về pháp luật và
thực hiện tốt chủ trương "Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật".
Biết sản xuất hàng hoá, có thu nhập cao từ sản xuất hàng hoá và giúp đỡ những
nông dân khác cũng có nguồn thu nhập cao, ổn định.
Hội
Nông dân Việt Nam tổ chức phổ biến, quán triệt, tuyên truyền các chủ trương,
đường lối của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đào tạo, tập huấn
chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức khoa học kỹ thuật, kỹ năng quản lý trong các
hoạt động kinh tế cho đội ngũ cán bộ, hội viên nông dân và nhất là những nông
dân trẻ. Trực tiếp tham gia tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý cho nông dân.
3. Tham gia đào tạo nguồn nhân lực và tổ chức dạy
nghề cho nông dân
Phát huy những kết quả đã đạt được, Hội Nông dân Việt Nam
tiếp tục tham gia tích cực vào công tác đào
tạo nguồn nhân lực ở nông thôn. Hoàn thiện xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết
bị, bộ máy tổ chức của hệ thống trung tâm Dạy nghề và Hỗ trợ nông dân từ trung
ương đến các tỉnh, thành phố và cấp huyện.
Hội
trực tiếp tham gia tổ chức dạy nghề cho hội viên, nông dân; đồng thời tham gia
vào công tác tuyên truyền, giám sát công tác dạy nghề cho nông dân ở địa
phương, cơ sở, thông qua một số nội dung, giải pháp sau:
-
Tuyên truyền, vận động, tư vấn học nghề và việc làm giúp cho lao động nông thôn
nắm được các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về dạy nghề; đồng thời
tích cực tham gia học nghề, tạo việc làm, tăng thu nhập, nâng cao đời sống.
- Điều
tra, khảo sát nắm bắt nhu cầu học nghề của lao động nông thôn theo từng nghề,
từng khu vực và từng cấp trình độ đào tạo; xác định nhu cầu sử dụng lao động
nông thôn qua đào tạo nghề (số lượng, chất lượng, cơ cấu của các ngành kinh tế,
của các doanh nghiệp và thị trường lao động); đề ra kế hoạch dạy nghề cho lao
động nông thôn, phù hợp với thực tế của từng vùng, từng khu vực, từng đối tượng.
- Xây
dựng, nâng cấp hệ thống trung tâm Dạy nghề và Hỗ trợ nông dân của Hội Nông dân
cấp tỉnh và cấp huyện; tăng cường đầu tư trang thiết bị dạy nghề để nâng cao
chất lượng, hiệu quả đào tạo và mở rộng qui mô dạy nghề cho lao động nông thôn.
- Phát
triển đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học nhằm nâng
cao chất lượng dạy nghề cho lao động nông thôn.
- Xây
dựng chương trình, giáo trình, học liệu dạy nghề sát với yêu cầu của thị trường
lao động và phù hợp với trình độ học vấn của lao động nông thôn.
-
Kiểm tra, giám sát, đánh giá chất lượng dạy nghề cho lao động nông thôn, đề
xuất cơ chế, chính sách nhằm nâng cao chất lượng dạy nghề và hỗ trợ nông dân,
phục vụ yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
4. Tham gia phản biện xã hội và tham mưu cho cấp ủy
đảng, chính quyền các cấp để góp phần hoàn
thiện cơ chế, chính sách phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới
Thực
hiện việc tham gia giám sát và phản biện xã hội theo quy định của Đảng và Nhà
nước. Tổ chức nắm bắt và phản ánh kịp thời tâm tư, nguyện vọng nông dân với
Đảng và Nhà nước trên cơ sở bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của
hội viên, nông dân. Tích cực góp phần xây dựng và đề xuất cơ chế, chính sách
của Đảng và Nhà nước liên quan đến phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn
mới và khối đại đoàn kết toàn dân tộc, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội; chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các tệ nạn xã hội.
5. Xây dựng, củng cố tổ chức Hội Nông dân các cấp
vững mạnh
Trong
quá trình xây dựng giai cấp nông dân Việt Nam, công tác chăm lo xây dựng tổ
chức Hội luôn luôn được xác định là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Để Hội thực
sự là trung tâm, là nòng cốt của phong trào nông dân, các cấp Hội cần được củng
cố kiện toàn, được nâng cao năng lực từ Trung ương đến cấp cơ sở theo tinh thần
Nghị quyết Đại hội V của Hội Nông dân Việt Nam.
- Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho hội viên, nông dân. Tuyên truyền các chủ trương,
đường lối của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước để nâng cao nhận thức
cho cán bộ, hội viên, nông dân trong thời kỳ đất nước đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
- Tập trung củng cố, xây dựng tổ chức Hội ở cơ sở. Cơ sở Hội là đầu mối, trực tiếp tổ chức thực hiện
toàn bộ các hoạt động của công tác Hội và phong trào nông dân. Đây là các tổ
chức hành động của Hội.
- Phát triển và nâng cao số lượng, chất lượng hội viên. Hội viên được tổ chức sinh hoạt thường xuyên với
những nội dung sinh hoạt phong phú, thiết thực có sức hấp dẫn hội viên tự giác
tham gia. Phấn đấu thực hiện mục tiêu 100% các thôn, ấp, bản, làng có nông dân
đều có tổ chức Hội.
- Quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng, năng cao năng
lực đội ngũ cán bộ các cấp, nhất
là đội ngũ cán bộ cơ sở để đáp ứng được đòi hỏi của nhiệm vụ công tác Hội và
phong trào nông dân trong giai đoạn cách mạng mới.
- Tăng cường công tác kiểm tra để nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Ban Chấp hành các cấp,
việc thực hiện Điều lệ Hội, các chỉ thị, nghị quyết, chương trình công tác
Hội...
Phần thứ tư
CÁC DỰ
ÁN NHẰM NÂNG CAO VAI TRÒ, TRÁCH NHIỆM CỦA HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM TRONG PHÁT
TRIỂN NÔNG NGHIỆP, XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI VÀ XÂY DỰNG GIAI CẤP NÔNG DÂN VIỆT
NAM GIAI ĐOẠN 2010-2020
Đề án này đặt ra những vấn đề quan trọng liên quan đến
nông nghiệp, nông dân và nông thôn; vì vậy, để thực hiện được đề án cần phải
xây dựng các dự án chuyên đề có tính khả thi. Trên cơ sở những nội dung cần đổi
mới nâng cao vai trò nhiệm vụ của Hội Nông dân, đề án đề xuất các dự án do Hội
giữ vai trò chủ trì xây dựng, tổ chức thực hiện và các dự án Hội phối hợp tham
gia thực hiện sau đây:
I - CÁC DỰ ÁN DO HỘI CHỦ TRÌ
XÂY DỰNG VÀ THỰC HIỆN
1. Dự án “Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động Quĩ
Hỗ trợ nông dân”
Mục tiêu: Mở
rộng qui mô vốn, đổi mới nội dung hoạt động của Quỹ hỗ trợ nông dân. Xây dựng
hệ thống Quỹ HTND chuyên nghiệp đảm bảo chuyển tải vốn an toàn, thuận lợi ngày
càng thỏa mãn nhu cầu vốn của Hội viên, nông dân, nguồn vốn được bảo toàn và
phát triển.
Nội dung đề án:
-
Tăng nguồn vốn trên cơ sở đề nghị tăng thêm vốn cấp của ngân sách Nhà nước
(chiếm trên 55% trong tổng cơ cấu nguồn vốn), đồng thời tiếp tục huy động sự
đóng góp của các tổ chức, cá nhân.
-
Nguồn vốn của Quỹ được sử dụng hỗ trợ nông dân xây dựng các mô hình, điển hình
về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, sản xuất nông sản an toàn; xây dựng thương hiệu
và tiêu thụ nông sản hàng hoá...
-
Hỗ trợ đào tạo nghề, chuyển nghề, giải quyết việc làm cho hội viên và lao động
nông thôn.
2. Dự án Vai trò, nhiệm vụ của Hội Nông dân Việt
Nam trong xây dựng “Mẫu người nông dân thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn”
Mục tiêu: Phấn
đấu đến năm 2020, nông dân được đào tạo có trình độ sản xuất ngang bằng với các
nước tiên tiến trong khu vực; sản xuất kinh doanh có hiệu quả trên cơ sở nâng
cao chất lượng hàng hóa nông sản, bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm, đáp ứng
khả năng cạnh tranh hàng hóa; tham gia phát triển các hình thức kinh tế tập thể
trong nông nghiệp và đủ bản lĩnh chính trị, đóng vai trò làm chủ nông thôn mới.
Nội dung của đề án:
-
Tổ chức nghiên cứu lý luận về giai cấp nông dân trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.
-
Nghiên cứu, xây dựng tiêu chí "Người nông dân mới"
-
Xây dựng chiến lược hành động và các hoạt động cụ thể của Hội tham gia xây dựng
"Người nông dân mới".
3. Dự án “Tổ chức dạy nghề và hỗ trợ nông dân đến
năm 2020”
Mục tiêu: Xây
dựng hệ thống các Trung tâm Dạy nghề và Hỗ trợ nông dân và xác định các mục
tiêu, nhiệm vụ để trực tiếp tổ chức các hoạt động hỗ trợ, dịch vụ và dạy nghề
cho nông dân.
Nội dung của đề án: Phát triển hệ thống Trung tâm Dạy nghề và Hỗ trợ nông dân
đến cấp tỉnh, nơi có điều kiện thuận lợi có thể phát triển đến cấp huyện. Các
Trung tâm này là đơn vị sự nghiệp thuộc Hội Nông dân cấp tỉnh, huyện trực tiếp
tổ chức các hoạt động chuyển giao khoa học kỹ thuật, khuyến nông, khuyến lâm,
khuyến ngư, dịch vụ vốn, vật tư, máy nông nghiệp, dạy nghề tại chỗ, ngắn hạn
cho nông dân.
4. Dự án “Đào
tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ Hội giai đoạn 2010-2020”
Mục tiêu: Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ
Hội Nông dân các cấp đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới.
Nội dung đề án:
-
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong hệ thống Hội Nông dân các cấp theo qui hoạch,
có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức, có kiến thức và năng lực
quản lí, điều hành; có kỹ năng hoạt động thực tiễn về công tác Hội.
-
Tập trung đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ Hội ở cơ sở bảo đảm tiêu chuẩn công
chức theo chức danh, đáp ứng các yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới.
-
Đổi mới nội dung và hình thức đào tạo, kết hợp các loại hình đào tạo chính qui,
tập trung với đào tạo bồi dưỡng ngắn hạn tại chỗ, theo đợt và đa dạng hóa các
hình thức tổ chức đào tạo bồi dưỡng theo từng đối tượng cán bộ, theo độ tuổi
-
Thực hiện sự phân cấp đào tạo, bồi dưỡng trong hệ thống Hội.
-
Xây dựng, kiện toàn đội ngũ giảng viên; hệ thống cơ sở vật chất đào tạo.
5. Dự án “Nâng cao năng lực truyền thông của Hội Nông dân
Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn”
Mục
tiêu: Phấn đấu đến năm 2020, năng lực truyền thông của Hội ngày
càng vững mạnh toàn diện cả về lực lượng cũng như thiết chế tổ chức, cơ sở vật
chất, góp phần xây dựng Hội Nông dân Việt Nam thực sự là trung tâm và nòng cốt
trong phong trào nông dân và công cuộc xây dựng nông thôn mới; người nông dân thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn được đào tạo có trình độ sản xuất
ngang bằng với các nước tiên tiến trong khu vực và đủ bản lĩnh chính trị, đóng vai
trò làm chủ nông thôn mới.
Nội
dung đề án:
-
Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng chuyên ngành cho 45- 50% cán bộ trực tiếp làm công
tác tuyên huấn.
-
Xây dựng Chương trình Truyền hình Nông dân của Hội Nông dân Việt Nam trên sóng
Đài Truyền hình Việt Nam .
-
Xây dựng Chương trình Phát thanh Nông dân của Hội Nông dân trên sóng Đài Tiếng
nói Việt Nam.
-
Xây dựng Cổng thông tin Hội Nông dân Việt Nam.
-
Phát triển Website của Hội Nông dân 63 tỉnh, thành.
-
Nghiên cứu, xây dựng và đề xuất Đề án Hỗ trợ nông dân tiếp cận và ứng dụng công
nghệ thông tin trong phát triển sản xuất, cải thiện và nâng cao đời sống.
-
Nghiên cứu đề xuất việc thành lập Nhà xuất bản Nông dân (ấn phẩm, băng đĩa hình,
tiếng), Nhà in Hội Nông dân.
II - CÁC DỰ ÁN HỘI NÔNG DÂN
PHỐI HỢP THỰC HIỆN
1. Dự án “Hội Nông dân tham gia bảo vệ môi trường
nông thôn”
Mục tiêu: Hội
Nông dân tham gia đề án bảo vệ và cải thiện môi trường nông thôn đến năm 2020.
Nội dung của đề án: Hội Nông dân Việt Nam tham gia tổ chức triển khai thực hiện
các hoạt động sau:
-
Nâng cao nhận thức, kiến thức về bảo vệ môi trường nông thôn cho cán bộ, hội
viên nông dân và cộng đồng dân cư nông thôn để thay đổi hành vi, thái độ, ứng
xử và hành động tham gia cải thiện và bảo vệ môi trường nông thôn. Do đó, người
nông dân phải được tập huấn nâng cao nhận thức, phải có đủ thông tin và không
chỉ có thêm những hiểu biết cần thiết về nước sạch và vệ sinh môi trường mà còn
biết vận dụng những giải pháp, kinh nghiệm vào giải quyết những vấn đề môi
trường cụ thể diễn ra trên đồng ruộng, trong đời sống làng, bản. Xây dựng những
mô hình điểm về bảo vệ môi trường phù hợp với vùng mềm để tuyên truyền nhân
rộng.
-
Xây dựng mô hình nông dân thu gom, phân loại xử lý chất thải, rác thải trong
sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt nông thôn nhằm huy động mọi nguồn lực trong
việc bảo vệ môi trường nông thôn, đẩy mạnh xã hội hóa công tác bảo vệ môi
trường.
-
Nâng cao năng lực cho nông dân trong việc ứng phó với biến đổi khí hậu. Tham
gia Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu.
(Tham
gia Đề án số 10: “Đề án bảo vệ và cải thiện môi trường nông thôn” trong Chương
trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (khoá X) về
nông nghiệp, nông dân, nông thôn do Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì).
2. Dự án “Xây dựng và nhân rộng mô hình xoá đói
giảm nghèo bền vững vùng đặc biệt khó khăn”
Mục tiêu: Góp
phần tạo sự chuyển biến nhanh về đời sống vật chất, tinh thần của người nghèo,
đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng đặc biệt khó khăn, vùng bãi ngang ven biển.
Trang bị cho nông dân nghèo những kiến thức khoa học kỹ thuật, cách làm ăn,
phương pháp áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất, kinh
doanh nhằm nâng cao năng suất cây trồng, vật nuôi, tạo việc làm, tăng thu nhập,
góp phần xoá đói, giảm nghèo và bảo vệ môi trường sinh thái.
Nội dung của đề án:
-
Xây dựng mô hình xoá đói giảm nghèo quy mô xã.
-
Chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi gắn với sản xuất hàng hóa và phát triển
kinh tế thị trường.
-
Tổ chức chuyển giao KHKT về thâm canh cây trồng, vật nuôi chất lượng cao.
-
Phát triển sản xuất cây con chất lượng cao gắn với bảo vệ an ninh biên giới.
(Tham
gia Đề án số 13: “Đề án cơ chế chính sách hỗ trợ giảm nghèo bền vững cho các
huyện có tỷ lệ nghèo cao” trong Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện
Nghị quyết Trung ương 7 (khoá X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn do Bộ Lao
động – Thương binh và Xã hội chủ trì).
3. Dự án “Xây dựng và nhân rộng mô hình hợp tác, liên kết
trong sản xuất và tiêu thụ nông sản”
Mục
tiêu: Xây dựng và nhân rộng một số mô hình
hợp tác, liên kết sản xuất của nông dân
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nội
dung của đề án:
Xây
dựng các mô hình nhóm nông dân liên kết với các thành phần kinh tế trong sản
xuất và tiêu thụ sản phẩm, từ đó nhân ra diện rộng. Người nông dân căn cứ vào
thị trường để sản xuất hàng hóa tập trung và có đơn vị chế biến tiêu thụ sản
phẩm tin cậy theo các hợp đồng được ký kết.
Các
giải pháp để thực hiện mục tiêu phấn đấu đến năm 2015 có 25% và đến năm 2020 có
50% số hộ nông dân trong cả nước thực hiện được liên kết sản xuất giữa các hộ
nông dân với các thành phần kinh tế, để sản xuất hàng hóa, chế biến nông sản
phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
(Tham
gia Đề án số 16: “Đề án phát triển mô hình liên kết sản xuất giữa hộ nông dân
với các thành phần kinh tế ở nông thôn” do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì; Đề án
số 7: “Đề án phát triển thương mại nông thôn” do Bộ Công thương chủ trì trong Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị
quyết Trung ương 7 (khoá X) về nông nghiệp,
nông dân, nông thôn).
4. Dự án Tổ chức các hoạt động khuyến nông, khuyến lâm,
khuyến ngư
Mục
tiêu: Giúp hội viên, nông dân nắm bắt và
áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ mới vào sản xuất. Nâng cao
kiến thức và tay nghề trong sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất và
chất lượng sản phẩm; xây dựng thương hiệu và quảng bá sản phẩm ra thị trường.
Xây dựng và phát triển các loại hình kinh tế hiệu quả cao nhân ra diện rộng.
Nội
dung đề án:
- Tổ
chức tuyên truyền phổ biến về tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ mới trong
sản xuất kinh doanh.
- Tổ
chức các lớp tiểu giáo viên, các lớp tập huấn nâng cao kiến thức sản xuất kinh
doanh cho hội viên nông dân.
- Xây
dựng các mô hình sản xuất kinh doanh có hiệu quả để tuyên truyền phổ biến và
nhân rộng.
- Xây
dựng các mô hình câu lạc bộ nông dân giúp nhau phát triển sản xuất kinh doanh.
(Tham
gia Đề án số 20: “Đề án khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư” trong Chương trình
hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (khoá X) về nông
nghiệp, nông dân, nông thôn do Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì).
5. Dự án Hội Nông dân Việt Nam tham gia xây dựng và
phát triển văn hóa nông thôn
Mục tiêu: Tuyên
truyền, vận động và tổ chức nông dân tham gia giữ gìn, xây dựng và phát triển
đời sống văn hóa mới ở nông thôn.
Nội dung của đề án:
- Đề
xuất các giải pháp tiếp tục tuyên truyền, vận động và tổ chức nông dân thực
hiện xây dựng đời sống văn hóa mới xóa
bỏ các hủ tục lạc hậu, mê tín, dị đoan. Tổ chức bồi dưỡng, tập huấn kiến thức
và kỹ năng cho các tuyên truyền viên văn hóa ở nông thôn.
-
Tổ chức và phối hợp tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao
quần chúng; gia đình, du lịch ở nông thôn.
-
Vận động hội viên, nông dân tham gia đóng góp xây dựng thiết chế, cơ sở vật
chất phát triển văn hóa ở nông thôn. Xây dựng các đội văn nghệ, thể thao nông
dân…
-
Xây dựng các câu lạc bộ Gia đình nông dân văn hóa ở nông thôn, phấn đấu đạt chỉ
tiêu Gia đình văn hóa Đại hội V của Hội đã đề ra. Xây dựng các Chi hội nông dân
thực hiện tốt việc cưới, việc tang, lễ hội, không có tệ nạn xã hội.
-
Hội chủ trì thí điểm xây dựng mô hình phát triển văn hóa nông thôn toàn diện ở
một số thôn, bản đại diện cho 7 vùng kinh tế cả nước.
(Tham
gia Đề án số 12: “Đề án phát triển văn hóa nông thôn” trong Chương trình hành
động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (khoá X) về nông nghiệp,
nông dân, nông thôn do Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch chủ trì).
Phần thứ năm
TỔ
CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ ÁN
I- Trung ương Hội
-
Chủ trì xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện Đề án; đồng thời tổ chức chỉ đạo
xây dựng các tiểu đề án để thực hiện Đề án này.
-
Phối hợp với các bộ, ban, ngành, đoàn thể trong việc thực hiện đề án.
-
Phát động phong trào thi đua của nông dân cả nước tích cực hưởng ứng, tham gia
phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, thực hiện Nghị quyết Trung ương
7 (khoá X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Chỉ đạo, hướng dẫn, đôn
đốc Hội Nông dân các tỉnh, thành phố triển khai thực hiện.
-
Tổng kết các mô hình dịch vụ, hỗ trợ nông dân ở các vùng, miền để rút kinh
nghiệm và nhân rộng những mô hình có hiệu quả thiết thực với nông dân.
-
Xây dựng các chương trình, dự án trình Chính phủ phê duyệt.
II- Hội Nông dân các cấp
-
Tổ chức phổ biến, quán triệt sâu sắc những nội dung cơ bản của Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 7 (khoá X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn và Đề án
này đến cán bộ, hội viên, nông dân, tạo sự chuyển biến thực sự trong nhận thức
của hội viên, nông dân về vai trò, trách nhiệm của tổ chức Hội để tham gia phát
triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới và xây dựng giai cấp nông dân Việt
Nam.
- Tổng kết thực tiễn, đánh giá đúng thực trạng vai trò,
trách nhiệm của các cấp Hội ở địa phương, nhất là ở cấp cơ sở. Rút ra được
những bài học kinh nghiệm; xác định được những mô hình hoạt động của Hội về:
hợp tác, liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm; dịch vụ hỗ trợ nông dân; xóa đói
giảm nghèo; đào tạo nghề cho nông dân; bảo vệ môi trường nông thôn…
-
Chủ động phối hợp với chính quyền, các sở, ban, ngành, doanh nghiệp và nhà khoa
học… xây dựng và triển khai các chương trình, dự án liên quan đến phát triển
nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới; tư vấn, hỗ trợ, giúp đỡ nông dân phát
triển sản xuất, tiêu thụ sản phẩm.
-
Xây dựng nội dung hoạt động thiết thực nhằm tổ chức, vận động, triển khai Đề án
có hiệu quả.
III - Các Bộ, ban, ngành liên quan
-
Đề nghị các bộ: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Lao động - Thương binh và
Xã hội; Tài chính; Kế hoạch và Đầu tư; Tài nguyên và Môi trường, Công Thương;
Giáo dục và Đào tạo; Khoa học và Công nghệ; Thông tin và Truyền thông; Văn hóa
- Thể thao và Du lịch; Ngân hàng Nhà nước Việt Nam... phối hợp với Hội Nông dân
Việt Nam thực hiện các chương trình, đề án liên quan trong Chương trình hành động
của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (khoá X) về nông nghiệp, nông
dân, nông thôn.
-
Đề nghị Ban Dân vận Trung ương, Ban Tổ chức Trung ương, Ban Tuyên giáo Trung
ương, Văn phòng Trung ương Đảng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể khác
theo chức năng, nhiệm vụ được giao phối hợp với Hội Nông dân Việt Nam thực hiện
Đề án này.
Phần thứ sáu
ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ
I - Kiến nghị với Đảng:
1. Đề nghị Ban
Bí thư phê duyệt và có Kết luận về Đề án "Nâng cao vai trò, trách nhiệm
của Hội Nông dân Việt Nam trong phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới và
xây dựng giai cấp nông dân Việt Nam giai đoạn 2010 - 2020”.
2. Đề nghị Ban
Bí thư có cơ chế để Hội Nông dân Việt Nam được trực tiếp tham gia ngay từ đầu trong
việc xây dựng các cơ chế, chính sách liên quan đến nông nghiệp, nông dân, nông
thôn.
3. Đề nghị Ban
Bí thư cho phép Hội Nông dân Việt Nam tiếp tục chuẩn bị Dự thảo Luật Nông dân
Việt Nam để trình Quốc hội vào thời điểm thích hợp nhằm tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng và sự quản lý của Nhà nước đối với giai cấp nông dân và tổ chức Hội
Nông dân Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông
thôn.
4. Đề nghị Ban
Bí thư cho phép thành lập các Trung tâm Dạy nghề và Hỗ trợ nông dân cấp tỉnh, huyện
là đơn vị sự nghiệp trực tiếp tổ chức các hoạt động hỗ trợ, dịch vụ và dạy nghề
cho nông dân.
5. Đề nghị Ban
Bí thư phê duyệt Đề án tổ chức, biên chế bộ máy của Hội Nông dân cấp tỉnh,
huyện đã trình Ban Tổ chức Trung ương năm 2008, (trong đó bổ sung có Trung tâm
Dạy nghề và Hỗ trợ nông dân).
6. Đề nghị Ban
Bí thư thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện Đề án. Thành phần gồm Ban Dân vận Trung ương
làm Trưởng ban, Trung ương Hội Nông dân Việt Nam là Phó ban thường trực, một số
bộ, ban, ngành liên quan là thành viên.
II - Kiến nghị với Chính phủ:
1. Đề nghị Chính phủ cho phép Hội Nông dân Việt Nam trực
tiếp thực hiện và phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài nguyên
và Môi trường, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội, Bộ
Thông tin và Truyền thông, Bộ Văn hoá- Thể thao và Du lịch, Bộ Công Thương,
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện một số chương trình, đề án trong Chương
trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (khoá X) về
nông nghiệp, nông dân, nông thôn như trong Đề án đã trình bày.
2. Đề nghị Thủ
tướng Chính phủ ban hành cơ chế, chính sách cụ thể cho Hội Nông dân Việt Nam
trực tiếp tham gia một số chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội nông
thôn giai đoạn 2010-2020 (Có dự thảo Quyết định của Thủ tướng kèm theo).
3. Đề nghị Thủ
tướng Chính phủ cho phép việc lập dự toán và phân bổ ngân sách hàng năm để Hội Nông
dân thực hiện các Chương trình mục tiêu Quốc gia qua các bộ, ngành chủ trì chương
trình, đề án.
4. Đề nghị Thủ
tướng Chính phủ xem xét bổ sung cho Quỹ Hỗ trợ nông dân do các cấp Hội Nông dân
Việt Nam quản lý vào từng thời điểm thích hợp (vì hiện nay, quy mô Quỹ tuy còn nhỏ
nhưng hoạt động hiệu quả tốt) để tăng nguồn lực giúp Hội Nông dân có thêm điều
kiện tổ chức và nhân rộng các mô hình xoá đói giảm nghèo, cải thiện đời sống
cho nông dân.
5. Đề nghị Thủ
tướng Chính phủ chỉ đạo các bộ, các cấp chính quyền tiếp tục thực hiện tốt hơn nữa
các Chương trình phối hợp với Hội Nông dân Việt Nam trên cơ sở tổng kết Quyết
định số 17/1998/QĐ-TTg ngày 24/01/1998 của Thủ tướng Chính phủ qui định về
trách nhiệm của các bộ, các cấp chính quyền trong việc tạo điều kiện để các cấp
Hội Nông dân Việt Nam hoạt động có hiệu quả và Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg,
ngày 24/06/2002 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách khuyến khích tiêu thụ
nông sản hàng hóa thông qua hợp đồng để bổ sung vai trò, vị trí của Hội Nông
dân trong "liên kết 4 nhà".
|
T/M. ĐẢNG ĐOÀN
BÍ THƯ
Nguyễn Quốc Cường
|