BỘ
NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
-----
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
-------
|
Số:
1415/CT-BNN-NTTS
|
Hà
Nội, ngày 22 tháng 5 năm 2008
|
CHỈ THỊ
VỀ VIỆC TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG TÔM SÚ, TÔM HE GIỐNG
VÀ ĐIỀU KIỆN VÙNG NUÔI TÔM
Năm 2008 thời tiết có nhiều diễn
biến phức tạp, đầu năm phía Bắc rét đậm, rét hại kéo dài, các tỉnh phía Nam hạn
hán làm cho nuôi trồng thuỷ sản ở nước ta bị ảnh hưởng không nhỏ. Mặc dù đến cuối
tháng 3 mới là thời vụ thả tôm giống thích hợp, nhưng một số nơi ngay từ tháng
1, tháng 2 đã tiến hành thả tôm giống nuôi sớm vụ. Theo thống kê 5 tỉnh trọng
điểm nuôi tôm ở ven biển Nam bộ diện tích đã thả giống nuôi là 335.503 ha trong
đó: Cà Mau là 207.831/248.000ha, Bạc Liêu 102.154/123.500 ha, Sóc Trăng
17.552/48.642ha, Trà Vinh 16.766/24.783, Bến Tre 11.200/28.000 ha. Vì thế, mới
bước vào đầu vụ nhưng tôm nuôi đã chết nhiều ở các tỉnh ven biển Nam bộ
(62.390ha/355.503 ha đã thả giống chiếm 17%) gây thiệt hại cho người sản xuất
và ảnh hưởng đến kế hoạch của ngành.
Kết quả khảo sát của Cục Nuôi trồng
thuỷ sản cho thấy một số nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tôm nuôi bị chết như sau:
người nuôi tôm chưa tuân thủ khung mùa vụ, nhiều cơ sở thả giống sớm gặp điều
kiện thời tiết thay đổi (nắng nóng, mưa trái vụ, môi trường thay đổi đột ngột)
làm cho tôm nuôi bị nhiễm bệnh; chất lượng con giống từ nơi sản xuất kém, người
nuôi tham giá rẻ mua thả nên tỷ lệ hao hụt cao; việc tuân thủ điều kiện nuôi
còn nhiều bất cập (ao nuôi không đảm bảo độ sâu, mức nước thấp, nhiệt độ nước
thay đổi ngày/đêm lớn) dẫn đến tôm bị sốc và bị bệnh; chưa tuân thủ nghiêm túc
quy trình xử lý nước cấp, nước thải; hệ thống thuỷ lợi nội đồng chưa được cải
thiện nên hiện tượng thiếu nước, sử dụng nước tù đọng còn phổ biến; việc tuân
thủ quy trình công nghệ nuôi tôm chưa nghiêm túc; tính cộng đồng của người dân
chưa cao nên có hiện tượng tôm nuôi bị bệnh chết lại xả nước ra kênh mương cấp
nước chung làm lây nhiễm bệnh cho toàn vùng.
Để phát triển nuôi tôm bền vững,
duy trì thế mạnh sản phẩm tôm nuôi của Việt Nam và đảm bảo hoàn thành chỉ tiêu
kế hoạch của năm 2008 và các năm sau về nuôi trồng thuỷ sản, Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn yêu cầu:
1. Chủ tịch Uỷ
ban nhân dân các tỉnh, thành phố ven biển nam Trung bộ và Nam bộ chỉ đạo Sở Thuỷ
sản, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với các Sở, Ban, Ngành,
các huyện/thị trong tỉnh nghiêm túc thực hiện các nhiệm vụ sau:
1.1. Về sản xuất giống tôm
a) Tập trung tối đa nguồn lực kiểm
soát chặt chẽ chất lượng nguồn tôm bố mẹ nhập nội và khai thác ở các vùng biển
trong nuớc theo đúng các quy định tại Tiêu chuẩn ngành 28 TCN 99 : 1996; vận động
tuyên truyền, chỉ đạo và giám sát các cơ sở sản xuất giống chỉ cho tôm mẹ đẻ tối
đa 3 lần;
b) Tăng cường kiểm tra và giám
sát các cơ sở sản xuất giống tuân thủ điều kiện sản xuất theo đúng các quy định
tại Tiêu chuẩn ngành 28 TCN 92 : 1994; những cơ sở không đảm bảo điều kiện vật
chất, kỹ thuật cho sản xuất thì cương quyết đình chỉ sản xuất;
c) Kiểm tra, giám sát về điều kiện
an toàn vệ sinh môi trường, hệ thống nhà xưởng; mật độ ương và sử dụng các loại
thức ăn sống để ương nuôi ấu trùng tôm ở giai đoan Zoea, Mysis và P1-5.
Các cơ sở sản xuất giống tôm chỉ được sử dụng các loại thuốc, hoá chất, chế phẩm
sinh học có trong Danh mục của Bộ, các loại thức ăn đảm bảo chất lượng;
d) Tăng cường quản lý chất lượng
tôm giống trong trại sản xuất, chú ý đến kích cỡ tôm và đảm bảo không nhiễm bệnh
theo đúng các quy định tại Tiêu chuẩn ngành 28 TCN 124 : 1998; tôm giống đưa ra
khỏi trại giống phải được kiểm tra chất lượng, dán nhãn mác và thực hiện công bố
chất lượng theo quy định; xử phạt nghiêm hoặc đình chỉ sản xuất các cơ sở xuất
bán tôm giống không đạt tiêu chuẩn quy định.
1.2. Về nuôi tôm thương phẩm
a) Kiểm soát chặt chẽ chất lượng
con giống tôm trước khi thả xuống ao nuôi; hướng dẫn người nuôi phải ương dưỡng
con giống từ 2-3 ngày để kiểm tra bệnh và thuần hoá thích nghi với điều kiện
môi trường nơi thả nuôi; những cơ sở nuôi theo hình thức quảng canh với mô hình
tôm - lúa, tôm - rừng thì trước khi thả phải ương lớn thành tôm giống có kích
thước 30 - 40mm theo đúng các quy định tại Tiêu chuẩn ngành 28 TCN 125 : 1998.
b) Tổ chức thả giống rải vụ
trong khung mùa vụ để tránh áp lực về con giống, nguồn nước và khó khăn trong
khâu tiêu thụ sản phẩm khi thu hoạch.
c) Đối với các cơ sở nuôi tôm sú
bán thâm canh và thâm canh yêu cầu tuân thủ quy trình kỹ thuật theo Tiêu chuẩn
Ngành 28 TCN 110:1998; Tiêu chuẩn Ngành 28 TCN 171:2001 và Tiêu chuẩn Ngành 28
TCN 190 : 2004 về quy định điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm; cương quyết
đình chỉ sản xuất đối với những cơ sở không đủ điều kiện.
d) Quản lý tốt chất lượng thức
ăn; tuân thủ kỹ thuật cho ăn để hạn chế thức ăn dư thừa trong ao; hạn chế sử dụng
thức ăn tươi sống; tuyệt đối không sử dụng thức ăn ươn thối, thức ăn kém chất
lượng và không rõ nguồn gốc.
đ) Nghiêm cấm việc dùng các loại
hoá chất, thuốc cấm sử dụng; tăng cường sử dụng chế phẩm sinh học trong việc xử
lý nước cấp, nước thải và giảm thiểu độ béo của nước trong ao nuôi.
g) Thường xuyên thu gom, loại bỏ,
xử lý chất thải rắn; tuân thủ chế độ sục khí và đảo nước để làm tăng lượng oxy
hoà tan trong ao; tuân thủ quy trình xử lý môi trường ao nuôi khi có mưa, lũ lụt;
tuân thủ quy trình xử lý nước cấp vào ao nuôi và nước thải.
h) Theo dõi tình hình sức khoẻ của
tôm nuôi để sớm phát hiện bệnh, nếu ao tôm bị nhiễm bệnh phải thực hiện chế độ
cách ly, nếu có hiện tượng lây lan thành dịch phải báo ngay với cơ quan thú y
thuỷ sản địa phương để khoanh vùng dập dịch, tuyệt đối không được xả nước trực
tiếp ra ngoài làm lây lan dịch bệnh ra toàn vùng.
i) Với những ao, đầm nuôi tôm độc
canh liên tục nhiều năm tồn đọng nhiều chất thải rắn, tiềm ẩn tác nhân gây bệnh
dẫn đến môi trường suy thoái, tôm nuôi bị bệnh thì ngừng nuôi tôm, chuyển sang
nuôi luân canh các loài cá ăn thực vật, nhuyễn thể có giá trị kinh tế hoặc rong
biển.
1.3. Đối với tôm he chân trắng:
- Uỷ Ban nhân dân các tỉnh,
thành phố ven biển tiếp tục chỉ đạo thực hiện nghiêm Chỉ thị 228/CT-BNN ngày
25/ 1/ 2008 về phát triển nuôi tôm he chân trắng.
- Các sở Nông nghiệp & Phát
triển nông thôn và sở Thuỷ sản chủ động rà soát các vùng qui hoạch nuôi tôm nói
chung, tôm sú nói riêng điều chỉnh hợp lý cho việc phát triển nuôi tôm chân trắng
phù hợp Chỉ thị 228/CT-BNN ngày 251/2008. Không để tự phát, phát triển theo kiểu
“da báo” ảnh hưởng đến cả 2 đối tượng nuôi.
2. Các đơn vị
thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn:
2.1. Cục Nuôi trồng thủy sản:
a) Phối hợp với Viện Nghiên cứu
NTTS II, III để hướng dẫn chỉ đạo, kiểm tra giám sát việc thực hiện nội dung của
Chỉ thị này và kịp thời tháo gỡ những tồn tại về công nghệ, dịch bệnh và môi
trường;
b) Phối hợp với Sở Thuỷ sản, Sở
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các cơ quan chức năng ở địa phương để hướng
dẫn, chỉ đạo nhằm kiểm soát chặt chẽ con giống, thức ăn, thuốc chữa bệnh và chế
phẩm sinh học; tổ chức tạo cầu nối gắn kết giữa cơ sở sản xuất con giống và cơ
sở nuôi tôm thương phẩm;
c) Nhanh chóng hoàn chỉnh dự thảo
quy chế quản lý giống; phối hợp với Viện Nghiên cứu NTTS I, II, III biên soạn
tài liệu “Hướng dẫn quy trình công nghệ ương giống tôm sú và tôm he chân trắng;
Hướng dẫn quy trình công nghệ nuôi thâm canh tôm sú đảm bảo an toàn vệ sinh thực
phẩm”, để phổ biến cho các cơ sở sản xuất;
d) Chỉ đạo các Trung tâm Quốc
gia quan trắc, cảnh báo môi trường và phòng ngừa dịch bệnh thuỷ sản tăng cường
hoạt động và thực hiện chế độ báo cáo thường xuyên để phục vụ kịp thời cho sản
xuất, xử lý những sự cố phát sinh.
2.2. Cục Kinh tế hợp tác và Phát
triển nông thôn: Triển khai phối hợp với Cục Nuôi trồng thủy sản xây dựng mô
hình quản lý sản xuất giống và nuôi tôm thương phẩm có sự tham gia quản lý cộng
đồng;
2.3. Cục Thú y: tăng cường kiểm
soát dịch bệnh con giống tôm he chân trắng, tôm sú nhập qua các cửa khẩu Móng
Cái; và xây dựng danh mục những bệnh nguy hiểm ở tôm sú và tôm he chân trắng cần
kiểm dịch.
2.4. Trung tâm Khuyến nông-Khuyến
ngư Quốc gia: phối hợp với địa phương tăng cường công tác tập huấn, hướng dẫn kỹ
thuật về nuôi tôm an toàn vệ sinh thực phẩm, phòng trị bệnh, quản lý môi trường,
thức ăn cho người nuôi tôm.
2.5. Vụ Khoa học, Công nghệ và
Môi trường: rà soát và điều chỉnh các Tiêu chuẩn ngành về sản xuất giống và
nuôi tôm thương phẩm hiện nay không còn phù hợp.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn yêu cầu các Cục, Vụ, Viện, Thanh tra, Văn phòng, Sở Thuỷ sản, Sở Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn và các cơ sở sản xuất giống, nuôi tôm thương phẩm
thực hiện nghiêm Chỉ thị này và thường xuyên gửi báo cáo tình hình thực hiện về
Bộ theo địa chỉ Cục Nuôi trồng thuỷ sản, số 10 Nguyễn Công Hoan, Ba Đình, Hà Nội.
Chỉ thị có hiệu lực sau kể từ
ngày ký./.
|
KT.
BỘ TRƯỞNG
THỨ TRƯỞNG
Nguyễn Việt Thắng
|