BỘ
NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
--------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số:
1140/CT-BNN-TT
|
Hà
Nội, ngày 28 tháng 4 năm 2008
|
CHỈ THỊ
VỀ VIỆC PHÁT TRIỂN CÀ PHÊ, CAO SU, SẮN BỀN VỮNG
TRONG THỜI GIAN TỚI
Trong những năm gần
đây, do giá tăng và thị trường tiêu thụ tương đối thuận lợi nên một số loại cây
trồng như cà phê, cao su và sắn phát triển khá mạnh.
Một số địa phương
đã xây dựng và thực hiện quy hoạch phát triển các vùng nguyên liệu gắn với chế
biến, xuất khẩu theo Quyết định số 150/2005/QĐ-TTg ngày 20 tháng 6 năm 2005 của
Thủ tướng Chính phủ về quy hoạch chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông lâm nghiệp, thủy
sản cả nước đến năm 2010 và tầm nhìn 2020. Do đó đã tạo được bước chuyển biến
rõ rệt về cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa tập trung.
Năm 2007, giá trị xuất khẩu cà phê đã đạt trên 1,85 tỷ USD tăng 52,3% so với
2006 và gấp 4,7 lần so năm 2001; cao su 1,4 tỷ USD tăng 8,8% so năm 2006 và gấp
8,4 lần so năm 2001. Diện tích sắn năm 2007 gấp 1,5 lần so năm 2002.
Tuy nhiên sản xuất
cây cà phê, cao su và sắn hiện nay còn nhiều hạn chế:
- Tình trạng phát
triển tự phát không theo quy hoạch đang có xu hướng gia tăng. Theo số liệu thống
kê năm 2007 diện tích cà phê đã lên tới 506 ngàn ha, tăng 10 ngàn ha so với năm
2006 (2,0%), năm 2008 giá cà phê tăng cao nên xu hướng tự phát mở rộng diện
tích trồng cà phê vẫn đang gia tăng mạnh. Diện tích sắn năm 2007 đã lên tới 497
ngàn ha, tăng 4,7 % so với năm 2006. Nhiều nơi nông dân tự ý phá bỏ mía trồng sắn,
cà phê trên đất đã quy hoạch trồng rừng, thậm chí một số nơi ở Tây Nguyên đang
diễn ra tình trạng phá rừng trái phép để trồng sắn, cà phê. Tình trạng
phát triển tự phát trên không chỉ phá vỡ quy hoạch phát triển các loại cây trồng
khác, gây tác động xấu đến môi trường sinh thái mà còn tăng nguy cơ cung vượt
quá cầu, dẫn đến những rủi ro về giá cả và thị trường tiêu thụ cho nguời sản xuất;
Đối với cây cao
su: khu vực Tây Nguyên còn nhiều tiềm năng đất đai để phát triển cao su,
nhưng tốc độ phát triển chậm, việc chuyển đổi đất rừng sản xuất sang phát
triển cao su ở khu vực này còn nhiều lúng túng; việc phát triển cao su ở Tây bắc
là vấn đề mới, kết quả nghiên cứu và kinh nghiệm thực tiễn còn ít, nhưng một
số địa phương còn tư tưởng chủ quan, nóng vội.
- Trong sản xuất
nhiều nơi chưa thực hiện đúng các kỹ thuật canh tác bền vững. Tình trạng trồng
sắn quảng canh nhiều năm trên đất có độ dốc lớn, không có biện pháp để hạn chế
xói mòn; sử dụng phân hóa học, thuốc bảo vệ thực vật và nước tưới quá mức trong
canh tác cà phê còn khá phổ biến, không những làm tăng giá thành sản xuất mà
còn gây tác động xấu đến môi trường sinh thái.
- Cơ cấu giống và
chất lượng giống cây trồng còn nhiều bất cập. Diện tích trồng các giống sắn mới
có năng suất cao mới chiếm khoảng 30%, các giống cà phê chọn lọc mới đạt dưới
20% diện tích; việc xác định giống cao su thích hợp cho khu vực Tây bắc
còn hạn chế.
Công tác quản lý
nhà nước về giống cây trồng ở nhiều địa phương còn buông lỏng, tình trạng sản
xuất và kinh doanh giống cà phê, giống cao su tiểu điền nhưng không có vườn giống
cây đầu dòng còn khá phổ biến; việc kiểm tra, giám sát chất lượng cây giống tại
các vườn ươm chưa được chặt chẽ.
- Chất lượng cà
phê nhân xuất khẩu chưa được cải thiện rõ rệt, đặc biệt tình trạng thu hoạch lẫn
nhiều quả xanh, phơi sấy bảo quản không đúng kỹ thuật, chưa thực hiện tốt việc
phân loại cà phê nhân xuất khẩu theo tiêu chuẩn mới, phù hợp với quy định của
quốc tế, làm ảnh hưởng xấu đến chất lượng, giá bán và uy tín của cà phê Việt
Nam trên thị trường thế giới.
Để phát triển cây
cà phê, cao su, sắn có hiệu quả cao, bền vững, Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn yêu cầuThủ trưởng các cơ quan chức năng thuộc Bộ,Chủ tịch Ủy ban nhân
dân các tỉnh có trồng cà phê, cao su, sắn, các doanh nghiệp sản xuất, kinh
doanh cà phê, cao su, sắn tập trung chỉ đạo, thực hiện tốt một số nội dung sau:
1.
Căn cứ Quyết định số 150/2005/QĐ-TTg ngày 20 tháng 6 năm 2005 của Thủ tướng
Chính phủ:
- Cục Trồng trọt
chủ trì phối hợp với các cơ quan liên quan thuộc Bộ khẩn trương chỉ đạo rà
soát, điều chỉnh quy hoạch tổng quan phát triển cà phê, cao su trình Bộ phê duyệt
trong năm 2008; xây dựng quy hoạch tổng quan phát triển sắn cả nước đến 2015 và
tầm nhìn 2020 trình Bộ phê duyệt trong năm 2009, làm cơ sở để các địa phương điều
chỉnh quy hoạch chi tiết và các dự án đầu tư phát triển cụ thể.
- UBND các tỉnh có
trồng sắn, cà phê, cao su khẩn trương kiểm tra, rà soát diện tích trồng cà phê,
sắn hiện nay để có biện pháp chỉ đạo kịp thời, kiên quyết nhằm phát triển cao
su, cà phê và sắn có hiệu quả, bền vững trên địa bàn.
2.
Một số nhiệm vụ cấp bách:
a) Đối với cây cà
phê
- Cục Chế biến,
Thương mại nông lâm thuỷ sản và Nghề muối chủ trì phối hợp với các đơn vị liên
quan hoàn thiện Đề án "Nâng cao sức cạnh tranh của cà phê Việt Nam"
trình Bộ phê duyệt tháng 6/2008 và triển khai thực hiện.
Trước mắt tập
trung triển khai các biện pháp nâng cao chất lượng cà phê, tăng cường hướng dẫn
và có cơ chế hỗ trợ, khuyến khích nông dân thực hiện chuyển đổi giống mới, sử dụng
phân bón, nước tưới tiết kiệm để hạ giá thành sản phẩm và đạt hiệu quả cao; thực
hiện thu hái và phơi sấy, bảo quản cà phê đúng kỹ thuật, tăng cường các biện
pháp bảo vệ sản xuất, ngăn chặn tình trạng trộm cắp cà phê trên nương rẫy; các
doanh nghiệp có cơ chế giá thu mua hợp lý để khuyến khích việc thu hái chọn quả
chín, hạn chế tối đa tình trạng hái chạy, hái tuốt cành lẫn quả xanh, quả non.
- Cục Trồng trọt
hoàn thiện Lộ trình áp dụng Tiêu chuẩn TCVN: 4193 - 2005 đối với cà phê nhân xuất
khẩu trình Bộ ban hành và triển khai thực hiện trong tháng 6/2008.
- Vụ Khoa học,
Công nghệ và Môi trường chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan trong và
ngoài Bộ, xây dựng và trình Bộ ban hành và hướng dẫn thực hiện Quy chuẩn quốc
gia về trồng, thu hoạch, sơ chế, bảo quản, phân loại cà phê nhân xuất khẩu
trình Bộ Ban hành và triển khai trước tháng 11/2008.
- UBND các tỉnh tiếp
tục quán triệt và thực hiện tốt Chỉ thị số 1341/CT-BNN-TT ngày 17 tháng 5 năm
2007 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về việc phát triển,
nâng cao chất lượng cà phê. Trước mắt cần khẩn trương kiểm tra, ngăn chặn tình
trạng tự phát mở rộng diện tích trồng mới cà phê hiện nay ở Tây nguyên và Tây bắc.
Trong năm 2008 - 2010 không mở thêm diện tích trồng cà phê, chỉ trồng tái canh
đối với các diện tích cà phê già cỗi, diện tích bị sâu bệnh năng suất thấp hoặc
cải tạo, trồng thay thế các vườn cà phê giống cũ bằng các giống mới đã được Bộ
công nhận. Kiên quyết xử lý nghiêm các trường hợp phá rừng trồng mới cà phê;
tăng cường quản lý chất lượng giống cà phê, không để tình trạng lợi dụng nhu cầu
giống tăng cao để kinh doanh giống kém chất lượng.
b) Đối với cao su
- Tại Tây Nguyên:
khẩn trương hoàn thành việc quy hoạch mở rộng phát triển cao su theo kết luận của
Thủ tướng Chính phủ tại Thông báo số 125/TB-VPCP ngày 14 tháng 8 năm 2006. Căn
cứ kết quả rà soát 3 loại rừng và các Thông tư số: 76/2007/TT-BNN ngày 21
tháng 8 năm 2007, số 07/2008/TT-BNN của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
các địa phương trong vùng tích cực chỉ đạo quy hoạch và tạo điều kiện thuận lợi
cho các doanh nghiệp được giao, thuê các diện tích đất chưa sử dụng và liên kết
với các hộ dân chuyển đổi một phần diện tích đất cây hàng năm và cây công nghiệp
lâu năm khác kém hiệu quả sang trồng cao su; đồng thời chỉ đạo chặt chẽ việc
chuyển rừng và đất lâm nghiệp sang trồng cao su theo đúng quy định của pháp luật,
ngăn chặn tình trạng lợi dụng chuyển đổi để phá rừng tự phát trồng cao su.
- Tại Tây Bắc: việc
phát triển cao su phải quán triệt và thực hiện tốt chủ trương của Chính phủ tại
Thông báo số 178/VPCP ngày 08 tháng 01 năm 2008 của Văn phòng Chính phủ thông
báo ý kiến chỉ đạo của Phó thủ tướng Hoàng Trung Hải và hướng dẫn của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn nêu tại Thông báo số 3492/BNN-TT ngày 20 tháng
12 năm 2007 và Công văn số 1020/BNN-TT ngày 17 tháng 4 năm 2008. Trước hết phải
khẩn trương kiểm tra đánh giá lại tình hình sinh trưởng, mức độ thiệt hại của đợt
rét đậm rét hại trong vụ Đông xuân 2007 - 2008 đối với diện tích cao su đã trồng,
trên cơ sở đó tiếp tục rà soát kỹ, quy hoạch cụ thể các tiểu vùng có điều
kiện sinh thái, có các giải pháp đồng bộ về kỹ thuật, cơ chế chính sách, tổ chức
sản xuất và có bước đi phù hợp để đảm bảo phát triển vững chắc, tránh tư tưởng
chủ quan nóng vội, phát triển theo phong trào.
c) Đối với cây sắn
Tiếp tục quán triệt
và thực hiện Chỉ thị số 750/CT-BNN-TT ngày 30 tháng 3 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ
Nông nghiệp và PTNT về việc sản xuất và chế biến sắn, tập trung chỉ đạo các nội
dung quan trọng dưới đây:
- Hạn chế tối đa
việc mở rộng diện tích trồng sắn, đặc biệt cần đẩy mạnh tuyên truyền thuyết phục
nông dân không trồng sắn tự phát trên các khu vực đã quy hoạch hoạch cho cây trồng
khác, hoặc các diện tích có độ dốc lớn (trên 200); Tăng cường kiểm tra, phát hiện
và xử lý nghiêm các trường hợp phá rừng trồng sắn.
- Đẩy mạnh công
tác khuyến nông, hướng dẫn nông dân áp dụng kỹ thuật canh tác sắn bền vững và đạt
hiệu quả cao, đặc biệt là: mở rộng nhanh các giống sắn mới có năng suất cao, chịu
hạn tốt và phù hợp với công nghiệp chế biến như: KM60, KM94, KM95-3, HN124,
NA1…; thực hiện các biện pháp trồng nương bậc thang hoặc trồng luống theo đường
đồng mức, trồng xen canh, luân canh các cây họ đậu (lạc, đậu tương), tăng bón
phân hữu cơ và phân vi sinh.
- Về chế biến sắn:
Cục Chế biến, Thương mại nông lâm thuỷ sản và Nghề muối chỉ đạo các địa phương
tiến hành rà soát, đánh giá các cơ sở chế biến trên địa bàn. Trước mắt từ nay đến
năm 2010, không chấp nhận xây dựng mới các nhà máy chế biến sắn chưa có vùng
nguyên liệu khả thi, ưu tiên phân vùng nguyên liệu và tạo điều kiện thuận lợi
cho các cơ sở chế biến có công nghệ tiên tiến thu mua sắn lát khô đưa vào chế
biến các sản phẩm có giá trị cao như tinh bột, cồn, ethanol, thức ăn gia súc, hạn
chế tối đa việc xuất khẩu nguyên liệu sắn thô; giám sát chặt chẽ việc xử lý môi
trường của các cơ sở chế biến sắn, kiên quyết xử lý những cơ sở vi phạm để giảm
thiểu tối đa nguồn ô nhiễm.
Việc thực hiện
phát triển cây cà phê, cao su và sắn bền vững là vấn đề cấp bách, đảm bảo phát
triển ổn định trước mắt cũng như lâu dài. Bộ Nông nghiệp và PTNT yêu cầu Thủ
trưởng các cơ quan thuộc Bộ, Chủ tịch UBND các tỉnh, các doanh nghiệp khẩn
trương chỉ đạo thực hiện tốt các nội dung nêu trên./.