BỘ
NỘI VỤ-BỘ GIÁO DỤC-BỘ TÀI CHÍNH
******
|
VIỆT
NAM
DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
46-TT/LB
|
Hà
Nội, ngày 26 tháng 09 năm 1959
|
THÔNG TƯ LIÊN BỘ
VỀ CHẾ ĐỘ ĐỐI VỚI THỰC TẬP SINH, LƯU HỌC SINH, NGHIÊN CỨU
SINH LÀ CÁN BỘ, NHÂN VIÊN, CÔNG NHÂN Ở TRONG BIÊN CHẾ ĐƯỢC CƠ QUAN, XÍ NGHIỆP
CHỌN RA NƯỚC NGOÀI HỌC TẬP
Trong mấy năm qua, thi hành chủ
trương của Trung ương và Chính phủ, các Bộ đã đưa nhiều thực tập sinh, lưu học sinh,
nghiên cứu sinh ra ngoài nước học tập để đào tạo cán bộ, công nhân, phục vụ nhiệm
vụ xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Số người chọn đi học và thực tập
phần lớn là cán bộ, nhân viên, công nhân ở trong biên chế các cơ quan và xí
nghiệp của Nhà nước. Riêng đối với các đoàn thực tập sinh lại có cán bộ phiên dịch
cùng đi để phục vụ công việc thực tập.
Căn cứ Nghị quyết của Hội nghị
Thường vụ Hội đồng Chính phủ trong phiên họp ngày 09-09-1959, Liên Bộ Nội vụ -
Tài chính – Giáo dục quy định chế độ sau đây đối với thực tập sinh, lưu học
sinh, nghiên cứu sinh và cán bộ phiên dịch nhằm khuyến khích anh chị em yên tâm
phấn khởi học tập:
- Tất cả những thực tập sinh,
lưu học sinh, nghiên cứu sinh kể cả cán bộ phiên dịch đều được Chính phủ đài thọ
để đảm bảo nhu cầu sinh hoạt cần thiết (bao gồm ăn, mặc, tiêu…) tùy theo đặc điểm
từng nước, từng ngành học tập trong suốt thời gian ở ngoài nước.
- Tất cả những thực tập sinh,
lưu học sinh, nghiên cứu sinh kể cả phiên dịch trước khi ra ngoài nước đã ở
trong biên chế cơ quan và xí nghiệp, đều được giữ 100% lương chính bậc đã xếp
năm 1958 và trợ cấp con (nếu có) trong suốt thời gian ở ngoài nước. Nếu đối chiếu
100% lương chính và trợ cấp con (nếu có) này với sinh hoạt phí hay học bổng
Chính phủ đài thọ ở ngoài nước (tính theo giá hối đoái phí mậu dịch) mà cao hơn
thì được hưởng khoản chênh lệch, nếu thấp hơn sẽ được Chính phủ trợ cấp cho đủ.
Riêng đối với những người có gia
đình gồm cha mẹ đẻ, vợ con khi còn công tác ở trong nước phải trực tiếp nuôi dưỡng
thì được chiếu cố thích đáng nhưng vẫn đảm bảo tương quan đãi ngộ với cán bộ
công tác ở trong nước.
Căn cứ vào 2 nguyên tắc trên,
Liên Bộ quy định những điểm cụ thể sau đây:
I. QUYỀN
LỢI Ở NGOÀI NƯỚC
1. Tất cả mọi người khi được chọn
ra ngoài nước học tập và thực tập, kể cả phiên dịch, được đài thọ tiền tàu xe,
công tác phí, trang phục, cước phí hành lý cần thiết theo chế độ hiện đang thi
hành.
2. Học bổng, sinh hoạt phí của
thực tập sinh, lưu học sinh, nghiên cứu sinh ở Liên Xô, các nước Trung Đông Âu,
Triều Tiên, vẫn giữ nguyên như hiện cấp.
3. Đối với thực tập sinh ở Trung
Quốc, thi hành hiệp định thư vừa ký kết giữa Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng
hòa và Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, nay định sinh hoạt phí là:
a) 35 đồng Nhân dân tệ một tháng
cho công nhân, nhân viên, cán bộ kỹ thuật sơ cấp, cán bộ kỹ thuật trung cấp mới
ra trường và cán bộ phiên dịch, bao gồm:
- Công nhân từ bậc 5/8 trở xuống.
- Nhân viên Hành chính từ bậc
8/21 trở xuống.
- Cán bộ kỹ thuật từ bậc 5/14 trở
xuống.
- Phiên dịch từ bậc 6/12 trở xuống.
b) 40 đồng Nhân dân tệ cho cán bộ
lãnh đạo xí nghiệp, kỹ sư, cán bộ trung cấp lâu năm và các loại cán bộ tương
đương bao gồm:
- Công nhân từ bậc 6/8 trở lên.
- Nhân viên Hành chính từ bậc
9/21 trở lên.
- Cán bộ kỹ thuật từ bậc 6/14 trở
lên.
- Phiên dịch từ bậc 7/12 trở
lên.
Ngoài sinh hoạt phí hàng tháng định
trên, tùy theo vùng khí hậu, sinh hoạt đắt đỏ, tùy theo ngành học tập (như mỏ,
luyện kim, tàu bể, vũ kịch, quay phim…) Đại sứ quán Việt Nam tại Trung Quốc sẽ
căn cứ tình hình thực tế mà đề nghị tỷ lệ phụ cấp thêm hàng tháng để Liên Bộ
quyết định.
Các bộ quản lý thực tập sinh sẽ
sắp xếp và tuyên bố rõ mức sinh hoạt phí của từng người trước khi ra ngoài nước.
Đối với thực tập sinh hiện nay đang ở Trung Quốc thì những người đã hưởng sinh
hoạt phí 65 đồng Nhân dân tệ, 55 đồng Nhân dân tệ một tháng nay hưởng 40 đồng
Nhân dân tệ; những người đang hưởng 45 đồng Nhân dân tệ nay hưởng 35 đồng Nhân
dân tệ một tháng, cán bộ phiên dịch thì hưởng 35 đồng Nhân dân tệ một tháng.
II. QUYỀN LỢI Ở TRONG NƯỚC
1. Những thực
tập sinh, nghiên cứu sinh, lưu học sinh trước khi ra ngoài nước, đã ở trong
biên chế cơ quan, xí nghiệp Nhà nước đã có bậc lương xếp năm 1958 và trợ cấp
con (nếu có) được hưởng khoản tiền chênh lệch (nếu có) giữa tổng số lương chính
và trợ cấp con (nếu có) và sinh hoạt phí hay học bổng, bao gồm những người kể
sau đây:
- Những người có cha mẹ đẻ có
công ăn việc làm, không phải trực tiếp nuôi dưỡng.
- Những người chưa có vợ hay có
vợ mà chưa có con.
- Những người có vợ con nhưng hiện
ở miền Nam.
- Những người có vợ con, nhưng
con đã được Chính phủ đảm bảo sinh hoạt (đài thọ học bổng ở các trường học sinh
miền Nam,
các trường chuyên nghiệp…).
- Những người
có vợ tuy có con nhưng công tác ở cơ quan hay xí nghiệp, lương bản thân đã xếp
từ bậc 8 thang lương 21 bậc hoặc mức lương tương đương trở lên (trường hợp này
nếu trước đây trợ cấp con tính cho chồng thì nay được chuyển sang cho vợ lĩnh.
Cứ mỗi con là 5 đồng, tính từ con thứ 3 trở đi từ tháng sau ngày người chồng
lên đường ra ngoài nước).
- Những người
có vợ con ở nông thôn hay thành thị có công ăn việc làm, đảm bảo đời sống,
không phải trực tiếp nuôi dưỡng.
Khoản tiền chênh lệch trên đây sẽ
trả hàng tháng cho người do anh chị em ủy quyền, hay gửi vào Ngân hàng đến khi về
nước, anh chị em sẽ lĩnh.
2. Những người
có gia đình (cha mẹ đẻ, vợ con) phải trực tiếp nuôi dưỡng trước khi ra nước
ngoài, nay do đời sống gia đình gặp khó khăn (cha mẹ già yếu, mất sức lao
động, vợ ốm đau, con đông…) nếu Công đoàn đề nghị, Thủ trưởng cơ quan quyết định,
được chiếu cố mỗi tháng chỉ nộp cho công quỹ một số tiền định như sau, còn bao
nhiêu được để lại trợ cấp cho gia đình hàng tháng:
- Những người hưởng lương từ bậc
1 đến bậc 6 thang lương 21 bậc, hoặc các mức lương tương đương, nộp vào công quỹ
mỗi tháng 18 đồng Ngân hàng.
- Những người hưởng lương từ bậc
7 đến bậc 10 thang lương 21 bậc, hoặc các mức lương tương đương, nộp vào công
quỹ 24 đồng Ngân hàng.
- Những người hưởng lương từ bậc
11 thang lương 21 bậc trở lên, hoặc các mức lương tương đương, nộp vào công quỹ
mỗi tháng 30 đồng Ngân hàng.
Một số cán bộ, nhân viên, công
nhân đã đi học và thực tập trước đây và còn đang ở nước ngoài cũng được hưởng
chế độ này; nếu người nào chưa có bậc lương 1958 thì các Bộ quản lý họ sẽ căn cứ
vào chức vụ công tác trước khi đi mà tạm định bậc lương để có cơ sở thực hiện.
Đối với quân nhân chuyển ngành
được cho ra ngoài nước học tập, nếu còn ở trong thời hạn 6 tháng, tối đa 9
tháng thì dựa trên lương chức vụ (đối với sĩ quan) hay dựa trên sinh hoạt phí
(đối với hạ sĩ quan) mà tính khoản chênh lệch hoặc tính số tiền phải nộp vào
công quỹ còn được để lại trợ cấp cho gia đình tùy theo từng trường hợp cụ thể
đã nói ở các điểm trên. Sau 6 tháng hay 9 tháng các Bộ quản lý sẽ tạm định bậc
lương theo chế độ lương 1958 để thi hành thống nhất như những người khác.
Liên Bộ lưu ý các Bộ khi quyết định
đối tượng được chiếu cố vì hoàn cảnh gia đình, cần đảm bảo nguyên tắc không vì
đi ra ngoài học tập mà bình quân của gia đình ấy tăng lên quá đáng so với cán bộ
chung quanh và so ngay với bình quân bình thường của gia đình người cán bộ khi
còn ở nhà. Có như vậy mới đảm bảo tương quan đãi ngộ, đoàn kết giữa người công
tác trong nước với người đi học ngoài nước.
3. Đối với cán bộ phiên dịch đi
phục vụ các đoàn thực tập sinh là đi công tác, đời sống tuy gắn liền với các thực
tập sinh nhưng không phân biệt có gia đình phải trực tiếp nuôi dưỡng hay không,
các Bộ sử dụng sẽ căn cứ mức lương hiện hưởng của anh chị em đối với các bậc
lương định ở điểm 2 trên mà thu vào công quỹ 18 đồng, 24 đồng hay 30 đồng, còn
bao nhiêu trả cho gia đình anh chị em, hoặc gửi vào Ngân hàng để khi về nước
anh chị em sẽ lĩnh.
Trên đây là nội dung cụ thể của chế độ đối với
cán bộ, nhân viên, công nhân ở trong biên chế được chọn đi ra nước ngoài học và
thực tập. Đối với những người ở ngoài biên chế thì chỉ được hưởng quyền lợi định
ở ngoài nước (Mục I).
Các Bộ chịu trách nhiệm thi hành
chế độ đối với thực tập sinh do Bộ mình chọn gửi đi và quản lý, Bộ giáo dục chịu
trách nhiệm thi hành chế độ đối với nghiên cứu sinh, lưu học sinh. Các khoản
chi phí trên đây sẽ thanh toán vào quỹ đào tạo cán bộ công nhân của các Bộ.
Thông tư này thi hành kể từ ngày
01/10/1959.
KT. BỘ TRƯỞNG
BỘ NỘI VỤ
THỨ TRƯỞNG
Tô Quang Đẩu
|
BỘ TRƯỞNG
BỘ GIÁO DỤC
Nguyễn Văn Huyên
|
KT. BỘ TRƯỞNG
BỘ TÀI CHÍNH
THỨ TRƯỞNG
Trịnh Văn Bính
|