BỘ
NỘI VỤ
*******
Số
: 46-NV_CB
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
*******
Hà
Nội, ngày 03 tháng 07 năm 1958
|
THÔNG TƯ
HƯỚNG DẪN VIỆC SẮP XẾP CẤP BẬC CHO CÁN BỘ, NHÂN VIÊN, CÔNG
NHÂN CƠ QUAN THUỘC KHU VỰC HÀNH CHÍNH, SỰ NGHIỆP
Căn cứ nghị quyết Hội đồng
Chính phủ họp ngày 17, 18 tháng 3 năm 1958 ấn định các nguyên tắc, yêu cầu và
phương châm cải tiến chế độ tiền lương và tăng lương trong năm 1958 cho cán bộ,
công nhân và viên chức các cơ quan, xí nghiệp, Nhà nước Thủ tướng Chính phủ đã
ban hành nghị định số 182-TTg ngày 7-4-1958, Thông tư số 197-TTg ngày 17-4-1958
để thi hành trước đối với khu vực sản xuất.
Tiếp theo, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nghị định số 270-TTg ngày 31-5-1958
để thi hành đối với khu vực hành chính và sự nghiệp.
Trong thông tư này, Bộ Nội vụ hướng dẫn việc sắp xếp cấp bậc cho cán bộ, nhân
viên công tác ở các cơ quan hành chính và sự nghiệp.
I. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU CỦA VIỆC SẮP XẾP CẤP BẬC
Thi hành chủ
trương cải tiến chế độ tiền lương tháng 7-1955 của Đảng và Chính phủ, tất cả
cán bộ, nhân viên, công nhân công tác ở các cơ quan hành chính và sự nghiệp –
trừ công chức nguyên lương – đã được sắp xếp vào các thang lương thích hợp nên
bước đầu đã thống nhất chế độ đãi ngộ ở các cấp, các ngành và đã cải thiện một
phần đời sống cán bộ, công nhân và viên chức. Nhưng việc sắp xếp cấp bậc lần đầu
làm trong một phạm vi rộng, lại chưa có kinh nghiệm nên đã phạm phải nhiều khuyết
điểm, thiếu sót; lần điều chỉnh lương tháng 7-1956 đã giảm bớt những bất hợp
lý.
Hiện nay,
quan hệ cấp bậc ở mỗi cơ quan, ở mỗi địa phương đã tương đối hợp lý tuy còn một
số cán bộ, nhân viên trình độ khác nhau nhưng cùng xếp một bậc nên có người
cao, người thấp; quan hệ cấp bậc giữa cơ quan này với cơ quan khác, giữa địa
phương này với địa phương khác, giữa cấp này với cấp khác cũng còn có những trường
hợp chênh lệch nhau, chưa được tốt.
Sở dĩ có những
khuyết điểm trên vì các thang lương có những chỗ chưa hợp lý, tiêu chuẩn để xếp
bậc chưa thật sát và áp dụng chưa thống nhất, việc chỉ đạo sắp xếp cấp bậc có
thiếu sót.
Xuất phát từ
tình hình thực tế ấy, trong toàn bộ chủ trương cải tiến chế độ tiền lương và
tăng lương lần này có giải quyết vấn đề cải tiến chế độ cấp bậc lương nhằm giảm
bớt tinh thần bình quân, giảm bớt những điểm bất hợp lý còn tồn tại trong việc
sắp xếp lương vừa qua.
Vì vậy cần nhận
thức chu đáo nội dung của việc cải tiến chế độ cấp bậc lương để xác định yêu cầu
của việc sắp xếp cấp bậc lần này.
1. NỘI
DUNG CỦA VIỆC CẢI TIẾN CHẾ ĐỘ CẤP BẬC
Căn cứ vào
tình hình tổ chức và cán bộ hiện nay, chế độ lương ở các cơ quan hành chính, sự
nghiệp vẫn là chế độ lương chức vụ có nhiều bậc và nội dung cải tiến gồm các vấn
đề sau đây:
a) Các
thang lương:
Các thang
lương áp dụng trong các cơ quan hành chính và sự nghiệp đều thêm một bậc và một
số khung bậc được quy định lại cho thích hợp với tình hình tổ chức bộ máy, sự
phân công, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và tính chất công tác của các loại
cán bộ, nhân viên.
Thang lương
cán bộ, nhân viên cơ quan Nhà nước trước 17 bậc nay mở ra 21 bậc và khung bậc của
một số chức vụ được sửa đổi:
Ủy ban hành
chính khu, tỉnh, huyện trước đây mỗi cấp 3 bậc kế tiếp nhau thì nay có 4 hoặc 5
bậc gối lên nhau; Ủy ban hành chính thành phố Nam-định, khu vực Vĩnh-linh trước
cùng một khung bậc với Ủy ban hành chính tỉnh thì nay quy định riêng;
Chánh Phó
giám đốc ở trung ương trước bốn bậc, nay năm bậc;
Trưởng, Phó
phòng ở trung ương trước một khung nay chia ra hai khung: nghiên cứu, nghiệp vụ
riêng và hành chính, quản trị kế toán, văn thư riêng v.v…
Thang lương
cán bộ, nhân viên chuyên môn ngành Y tế, Giáo dục trước đây dựa theo thang
lương nhân viên kỹ thuật 11 bậc thì nay mở ra 16 bậc, bậc khởi điểm của các
khung bậc cũng được quy định lại: hộ lý, giáo viên cấp 1 trước cùng bậc khởi điểm
là bậc 11 thì nay khởi điểm khác nhau: giáo viên cấp 1 khởi điểm bậc 2, hộ lý
khởi điểm bậc 1.
Ngoài ra có
hai thang lương mới:
- Công nhân
cơ quan trước xếp theo thang lương công nhân tiêu biểu loại sản nghiệp 5, nay
tách riêng và xếp theo thang lương công nhân cơ quan 8 bậc;
- Cán bộ và
nhân viên phiên dịch trước xếp theo thang lương 17 bậc, nay xếp theo thang
lương riêng 12 bậc.
b) Mức
lương:
Mức lương thấp
nhất là 27.300đ một tháng như trước nhưng mức lương cao nhất của mỗi thang
lương được nâng lên.
- Mức lương
cao nhất của thang lương cán bộ, nhân viên cơ quan Nhà nước trước gấp 6,15 lần
lương thấp nhất nay gấp 7,3 lần;
- Mức lương
cao nhất của thang lương cán bộ, nhân viên chuyên môn ngành Giáo dục trước gấp
2,95 lần lương thấp nhất nay gấp 5,2 lần;
- Mức lương
cao nhất của thang lương cán bộ, nhân viên chuyên môn ngành Y tế trước gấp 2,92
lần lương thấp nhất, nay gấp 5,1 lần;
- Mức lương
cao nhất của thang lương công nhân cơ quan trước gấp 1,95 lần mức lương thấp nhất,
nay gấp 2,49 lần;
- Mức lương
cao nhất của thang lương cán bộ, nhân viên phiên dịch gấp 4 lần lương thấp nhất.
Do mức lương
cao nhất được nâng lên nên chênh lệch giữa các bậc lương cũng được khá hơn.
c) Tiêu
chuẩn để xếp bậc:
Mỗi cán bộ,
công nhân, viên chức được phân công vào chức vụ này hay chức vụ khác trong bộ
máy chính quyền là do trình độ đức, tài đã được rèn luyện nhiều hay ít, trong một
quá trình công tác dài hay ngắn; đức, tài là ý thức phục vụ, tinh thần trách
nhiệm, trình độ và khả năng chuyên môn, nghiệp vụ. Vì vậy, cần căn cứ vào chức
vụ hiện tại để xét đức, tài khi sắp xếp cấp bậc cho cán bộ, công nhân, viên chức.
Để tận dụng
tiêu chuẩn để sắp xếp cấp bậc được thống nhất, cần dựa vào những quy định cụ thể
sau đây:
- Ai đang làm
chức vụ gì thì xếp đúng khung bậc định cho chức vụ ấy:
Cấp dưỡng xếp
từ bậc 1 đến bậc 6 lương 21 bậc
Hộ lý xếp từ
bậc 1 đến bậc 4 thang lương Y tế 16 bậc, v.v...
- Mỗi khung
có nhiều bậc, muốn xét ai đáng xếp bậc nào cần xét đức, tài biểu hiện cụ thể
qua công tác thực tế thuộc chức vụ của người ấy.
Ví dụ:
Cùng cấp dưỡng như nhau người có khả năng nấu nướng giỏi, tinh thần phục vụ tốt
thì xếp bậc lương cao hơn người khả năng và tinh thần phục vụ kém chứ không phải
xếp cao vì số năm công tác nhiều hơn, chức vụ trước khi làm cấp dưỡng cao hơn.
- Căn cứ vào
chức vụ để xét đức tài không phải là xét biểu hiện trên một số việc, trong một
thời gian ngắn mà phải xét qua nhiều việc trên một quá trình công tác thì mới
được chính xác.
- Xét đức tài
phải căn cứ vào tính chất, đặc điểm công tác của mỗi loại chức vụ, mỗi loại cán
bộ, nhân viên, không nên xét chung chung, như nhau, đối với mọi loại chức vụ:
Đối với người
cấp dưỡng đức, tài là tinh thần phục vụ, khả năng chế biến món ăn biểu hiện
trên công tác nấu ăn ở tập đoàn;
Đối với người
cán bộ chỉ đạo, đức tài là tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật, trình
độ nắm chủ trương chính sách và khả năng tổ chức thực hiện biểu hiện trên thực
tế công tác chỉ đạo của người ấy;
Đối với người
giáo viên, đức tài là trình độ nắm chủ trương, chính sách, phương pháp giáo dục,
tinh thần và kết quả công tác giảng dạy biểu hiện trên sự tiến bộ của học sinh
về mọi mặt, v.v...
Trong việc vận
dụng tiêu chuẩn để xếp bậc cần tránh khuynh hướng lấy số năm dài hay ngắn, chức
vụ cũ cao hay thấp làm căn cứ, đồng thời cũng cần tránh chỉ xét khả năng nhanh
nhẹn tháo vát qua một sốt việc, trong một thời gian ngắn.
Tóm lại, việc
cải tiến chế độ cấp bậc lương lần này với nội dung như trên đều dựa vào nguyên
tắc phân phối theo lao động áp dụng cho thích hợp với tính chất và đặc điểm
công tác ở các cơ quan hành chính và sự nghiệp. Ba vấn đề trên đây liên quan mật
thiết với nhau và đều nhằm mục đích làm cho chế độ lương bớt bình quân, quan hệ
lương bớt bất hợp lý.
2. YÊU CẦU
CỦA VIỆC SẮP XẾP CẤP BẬC LẦN NÀY.
Chế độ cấp bậc
lương được cải tiến nên cần sắp xếp cán bộ, nhân viên, công nhân ở các cơ quan
hành chính và sự nghiệp vào các thang lương mới. Việc sắp xếp cấp bậc lần này dựa
vào quan hệ cấp bậc hiện nay mà chuyển từ khung bậc của thang lương cũ qua
khung bậc của thang lương mới, có điều chỉnh những trường hợp bất hợp lý cũ còn
tồn tại.
Yêu cầu cụ thể là:
Ở mỗi cơ quan cần chú ý giải quyết những trường hợp đã xếp cao, hoặc thấp
trong một số bậc để quan hệ nội bộ được tốt hơn; đó là vấn đề chủ yếu;
Ở mỗi cấp, mỗi địa phương cơ quan chỉ đạo chung việc sắp xếp cần cố gắng
giảm bớt tình trạng chênh lệch giữa cơ quan này và cơ quan khác, địa phương này
và địa phương khác, cấp này và cấp khác.
Tóm lại việc sắp xếp cấp bậc lấy tương quan ở mỗi cơ quan, mỗi địa
phương là chính và phải đảm bảo lương bình quân được phân phối.
Tuy vậy đối với một số loại cán bộ, nhân viên ở các cơ quan khác nhau
nhưng công tác chuyên môn, nghiệp vụ giống nhau và có liên quan mật thiết với
nhau thì các cơ quan cần tranh thủ trao đổi ý kiến để việc sắp xếp cấp bậc có
quan hệ tốt.
Đối với những loại cán bộ, nhân viên như phiên dịch, công nhân phục vụ
khách sạn v.v... lần này có thang lương riêng thì cần sắp xếp lại theo khung bậc
mới quy định.
Cần xác định yêu cầu của việc sắp xếp cấp bậc lần này để tránh những
khuynh hướng sau đây:
- Cho rằng việc sắp xếp cấp bậc vừa qua bất hợp lý cả, nay cần xóa đi,
xếp lại;
- Cho rằng trước đây sẽ xếp cùng một bậc thì nay cũng phải xếp cùng một
bậc trong thang lương mới;
- So sánh cá
nhân qua chức vụ cũ, thoát ly chức vụ hiện tại và quan hệ sắp xếp ở mỗi cơ
quan, mỗi cấp.
Những khuynh
hướng trên đây đều do tư tưởng bình quân, tư tưởng muốn công bằng hợp lý tuyệt
đối cho nên cần khắc phục để việc sắp xếp cấp bậc lần này đạt được kết quả tốt
II. NHỮNG ĐIỂM QUY ĐỊNH TRONG VIỆC SẮP XẾP CẤP BẬC
Để việc sắp xếp
cấp bậc ở các cơ quan hành chính và sự nghiệp được thống nhất, cần quy định những
điểm cụ thể sau đây:
1. ĐỐI TƯỢNG
SẮP XẾP LƯƠNG:
Cần định rõ
ai được sắp xếp lương và sắp xếp theo các thang lương nào.
a) Đối tượng
được sắp xếp cấp bậc lương lần này:
Nói chung thì
những cán bộ, nhân viên, công nhân ở trong biên chế 1958 các cơ quan hành chính
và sự nghiệp đều được sắp xếp cấp bậc lương, cụ thể là:
- Những người
ở trong biên chế đang công tác ở trong nước hay ở ngoài nước;
- Những người
ở trong biên chế trước đã xếp cấp bậc vì đau ốm phải nằm điều trị ở các bệnh viện,
các an dưỡng đường;
- Những người
ở trong biên chế được cử đi học phổ thông lao động, chính trị, bổ túc về chuyên
môn, nghiệp vụ.
- Những người
ở trong biên chế, trước đã sắp xếp cấp bậc hiện đang chờ đợi giải quyết công
tác mới.
- Những công
chức nguyên lương mà mức lương hiện lĩnh thấp hơn hoặc ngang mức lương bậc được
sắp xếp (kể cả phụ cấp khu vực nếu có).
Những trường
hợp sau đây thì không sắp xếp lương:
- Những người
đau ốm đã cắt biên chế ở cơ quan đi an dưỡng, điều dưỡng và đang hưởng chế độ
sinh hoạt phí ở các nơi an dưỡng, điều dưỡng.
- Những người
đã cắt biên chế ở cơ quan đi học văn hóa, kỹ thuật, chuyên môn và đang hưởng chế
độ sinh hoạt phí ở các trường văn hóa, kỹ thuật, chuyên môn.
- Những người
điều động công tác không đi, còn nằm chờ.
Còn những nhân viên phu động, tạm tuyển ngoài biên chế
thì không sắp xếp cấp bậc mà tùy theo trình độ được định mức lương ngang với một
bậc lương của những nhân viên cùng trình độ ở trong biên chế.
b) Đối tượng
sắp xếp vào các thang lương.
Cán bộ, nhân
viên, công nhân trong biên chế các cơ quan hành chính và sự nghiệp đều sắp xếp
theo thang lương chính sau đây:
- Thang lương
cán bộ, nhân viên cơ quan Nhà nước 21 bậc
- Thang lương
cán bộ, nhân viên chuyên môn Y tế 16 bậc.
- Thang lương
cán bộ, nhân viên chuyên môn Giáo dục 16 bậc
- Thang lương
cán bộ, nhân viên phiên dịch 12 bậc
- Thang lương
công nhân cơ quan 8 bậc
- Thang lương
cán bộ, nhân viên kỹ thuật 14 bậc.
Phải căn cứ
vào chức vụ, vào tính chất công tác của mỗi người để sắp xếp theo thang lương
thích hợp.
Thang
lương 21 bậc:
Tất cả cán bộ
nhân viên công tác ở các cơ quan chính quyền từ cấp huyện đến trung ương đều sắp
xếp theo thang lương 21 bậc.
Thang
lương y tế 16 bậc:
Cán bộ, nhân
viên chuyên môn y tế từ hộ lý đến bác sĩ đang làm đúng công tác chuyên môn ở
các cơ quan Y tế hoặc các cơ quan khác thì sắp xếp theo thang lương Y tế 16 bậc;
cũng những loại cán bộ, nhân viên trên nếu giữ các chức vụ như Trưởng, Phó Ty ở
tỉnh, Chánh, Phó Giám đốc ở khu, ở trung ương, Trưởng, Phó phòng chuyên môn ở
khu, ở trung ương, cán bộ nghiên cứu chuyên môn thì cũng xếp theo thang lương Y
tế; trường hợp sắp xếp theo thang lương 21 bậc mà mức lương được cao hơn thì xếp
theo thang lương ấy.
Thang lương Giáo dục 16 bậc:
Cán bộ nhân
viên chuyên môn Giáo dục như: giáo viên phổ thông cấp 1, cấp 2, cấp 3, cấp đại
học, Hiệu trưởng các trường, Giám đốc các trường Đại học thì sắp xếp theo thang
lương Giáo dục 16 bậc, Trưởng, Phó Ty ở tỉnh, Chánh, Phó giám đốc ở khu, ở
trung ương, cán bộ nghiên cứu ở khu, ở trung ương thì xếp theo thang lương 21 bậc
trừ một số trường hợp trước là giáo viên thì sắp xếp theo thang lương 16 bậc, nếu
mức lương được xếp cao hơn.
Ngành Y tế,
ngành Văn hóa dựa vào thang lương giáo dục để sắp xếp các loại giáo viên, giáo
sư ở các trường thuộc ngành mình.
Thang
lương kỹ thuật 14 bậc:
Những cán bộ,
nhân viên kỹ thuật như kỹ sư, kỹ thuật viên ở các cơ quan nếu yêu cầu công tác
cần sử dụng đúng khả năng kỹ thuật thì sắp xếp theo thang lương kỹ thuật. Những
loại cán bộ trên nếu giữ các chức vụ như Trưởng, Phó Ty, Chánh, Phó Giám đốc ở
khu, ở trung ương thuộc các ngành công nghiệp, thủy lợi, kiến trúc, nông lâm,
giao thông và bưu điện thì sắp xếp theo thang lương kỹ thuật hoặc thang lương
21 bậc nếu mức lương được xếp cao hơn.
Thang
lương côngnhân cơ quan 8 bậc:
Thợ chuyên
môn như lái xe, thợ điện, thợ sửa chữa, thợ nề, thợ mộc, thợ trồng cây, thợ in,
nấu ăn và phục vụ ở các khách sạn thì sắp xếp theo thang lương công nhân cơ quan
8 bậc.
Những cơ quan
có sử dụng công nhân kỹ thuật tổ chức thành một đơn vị riêng thì không sắp xếp
theo thang lương công nhân cơ quan mà sắp xếp theo các thang lương thích hợp
thi hành đối với công nhân ở khu vực sản xuất.
Công nhân dưỡng
lộ thủy thủ phà, lái canot kèm phà thì sắp xếp theo thang lương của Bộ Giao
thông Bưu điện đã hướng dẫn.
Thang lương
phiên dịch 12 bậc:
Cán bộ, nhân
viên được đào tạo ở các trường ngoại ngữ trong và ngoài nước hoặc biết ngoại ngữ
đang được sử dụng vào công tác dịch nói, dịch viết thì sắp xếp theo thang lương
cán bộ và nhân viên phiên dịch 12 bậc.
Còn những cán
bộ, nhân viên sự nghiệp văn hóa sẽ sắp xếp theo các thang lương riêng quy định
sau.
Trên đây là
những thang lương chính để sắp xếp tất cả các loại cán bộ, nhân viên trong biên
chế các cơ quan hành chính, sự nghiệp. Nếu trường hợp một số cán bộ, nhân viên
chuyên môn cần sắp xếp theo thang lương thuộc khu vực sản xuất cho thích hợp
thì Bộ, cơ quan sẽ thảo luận với Bộ Nội vụ để sắp xếp các thang lương ấy.
2. NGUYÊN TẮC
ĐỂ SẮP XẾP LƯƠNG
Việc sắp xếp
cấp bậc cho cán bộ, nhân viên công nhân ở các cơ quan hành chính và sự nghiệp cần
dựa vào những nguyên tắc cụ thể sau đây:
a) Việc chuyển
bậc phải bắt đầu từ bậc khởi điểm khung bậc thang lương cũ qua bậc khởi điểm mới
của khung bậc theo thang lương mới.
Ví dụ:
Bậc 13 thang
lương 17 bậc là bậc khởi điểm cũ của Ủy ban Hành chính huyện thì chuyển qua bậc
7 thang lương 21 bậc là bậc khởi điểm mới của khung bậc Ủy ban Hành chính huyện.
- Bậc 8 thang
lương 11 bậc Y tế, Giáo dục là bậc khởi điểm cũ của y sĩ trung cấp, giáo viên cấp
2 thì chuyển qua bậc 5 thang lương 16 bậc Y tế, Giáo dục là bậc khởi điểm mới của
khung bậc y sĩ trung cấp, giáo viên cấp 2.
b) Cán bộ,
nhân viên hiện được cơ quan quản lý cán bộ bổ nhiệm chính thức vào chức vụ nào
thì mới được sắp xếp theo khung bậc định cho chức vụ ấy.
Ví dụ:
Có được nghị
định của Thủ tướng phủ hoặc của Bộ bổ nhiệm là Chánh, Phó Giám đốc Nha, Sở, Vụ,
Cục thuộc Bộ, Thủ tướng phủ, Ban, mới sắp xếp theo khung bậc từ 12 đến bậc 16 của
thang lương 21 bậc;
- Có được
chính thức cử là ủy viên Ủy ban Hành chính tỉnh mới xếp lương theo khung bậc của
Ủy ban Hành chính tỉnh từ bậc 11 đến bậc 14 của thang lương 21 bậc;
- Có được
công nhận là kỹ thuật viên hết thời gian tập sự đã quy định thì mới sắp xếp vào
bậc 4 là bậc khởi điểm của kỹ thuật viên theo thang lương 14 bậc;
- Có được
công nhận chính thức là y sĩ trung cấp, giáo viên cấp 2, hết thời gian tập sự
đã quy định mới sắp xếp vào bậc 5 là bậc khởi điểm của y sĩ trung cấp, giáo
viên cấp 2 theo các thang lương Y tế, Giáo dục 16 bậc v.v…
Ngoài ra hiện
nay có một số cán bộ giữ các chức vụ điều khiển chưa có văn bản chính thức bổ
nhiệm, nên còn tạm quyền hay phụ trách thì xét đức, tài và căn cứ vào tương
quan ở cơ quan mà sắp xếp bậc, không nhất thiết phải xếp từ bậc khởi điểm của
khung bậc chức vụ đang tạm quyền hay phụ trách mà có thể xếp thấp hơn.
c) Cán bộ,
nhân viên cùng một chức vụ thì được sắp xếp trong phạm vi số bậc định cho chức
vụ ấy:
Ví dụ:
- Cấp dưỡng,
giữ trẻ, liên lạc dầu trước đã xếp bậc nào nay xếp từ bậc 1 đến bậc 6 của thang
lương 21 bậc.
- Trưởng, Phó
phòng nghiên cứu, nghiệp vụ của cơ quan trung ương xếp từ bậc 9 đến bậc 14 của
thang lương 21 bậc.
Tuy nhiên có
những trường hợp đặc biệt phải xếp cao hơn bậc cao nhất của khung bậc đã quy định
thì cần thảo luận thống nhất ý kiến với Bộ Nội vụ rồi mới quyết định.
Ví dụ:
Cấp dưỡng phải xếp cao hơn bậc 6 thang lương 21 bậc, Trưởng phòng nghiên cứu phải
xếp cao hơn bậc 14 thang lương 21 bậc v.v...
Trường hợp cá
biệt, cũng có thể xếp thấp hơn bậc khởi điểm của khung bậc cho phù hợp với
tương quan ở mỗi cơ quan.
d) Khung bậc
quy định trong các thang lương là chung cho các cấp, các ngành nhưng nếu có loại
chức vụ mà Bộ sở quan thấy cần quy định khung bậc cụ thể thì sẽ thảo luận với Bộ
Nội vụ để quy định.
Ví dụ:
Bộ Công an cần quy định khung bậc cho Trưởng, Phó đồn công an; Bộ Tài chính cần
quy định khung bậc cho Trưởng, Phó phòng thuế huyện, thị xã v.v...
e) Vấn đề
sử dụng khung bậc của thang lương:
Khung bậc quy
định trong các thang lương áp dụng chung cho các cấp, các ngành còn việc sắp xếp
vào các khung bậc ấy phải tùy trình độ thực hiện của cán bộ, nhân viên mà sắp xếp
bậc này hay bậc khác chứ không phải cơ quan nào cũng có người xếp bậc cao nhất
hoặc thấp nhất của mỗi khung bậc.
- Bậc cao nhất
của đánh máy là bậc 9 thang lương 21 bậc, nhưng không phải đánh máy ở cơ quan
nào cũng xếp đến bậc ấy.
- Bậc cao nhất
của Trưởng phòng nghiên cứu thuộc Thủ tướng phủ, Bộ, Ban là bậc 14 thang lương
21 bậc, nhưng không phải Trưởng phòng nghiên cứu của Bộ nào, Ban nào cũng xếp đến
bậc ấy.
- Bậc cao nhất
của giáo viên cấp I là bậc 9 thang lương Giáo dục 16 bậc, nhưng không phải giáo
viên cấp I ở địa phương nào cũng phải xếp đến bậc ấy v.v...
g) Trong một
phòng nghiên cứu, nghiệp vụ nhất định cán bộ nhân viên nghiên cứu, nghiệp vụ chỉ
xếp cao nhất bằng bậc phó phòng của phòng ấy.
Ví dụ:
Phó phòng Tổ chức Cán bộ của Bộ xếp bậc 11 thang lương 21 bậc thì cán bộ nghiên
cứu của phòng xếp cao nhất cũng đếnbậc 11 thang lương 21 bậc.
Tuy nhiên có
trường hợp một số cán bộ không thuộc một Phòng nhất định thì sắp xếp bậc không
theo quy định trên mà tùy theo trình độ và căn cứ vào tương quan chung ở cơ
quan mà sắp xếp thỏa đáng.
Ví dụ:
Các loại cán bộ ở các Văn phòng Chủ nhiệm, Thủ tướng phủ, ở Văn phòng các Ủy
ban Hành chính khu, tỉnh (theo dõi công tác nội chính, kinh tế tài chính, văn
hóa xã hội v.v…)
3. PHƯƠNG
PHÁP SẮP XẾP CẤP BẬC
a) Việc sắp xếp
cấp bậc cho cán bộ, nhân viên lấy tương quan ở mỗi cơ quan, mỗi địa phương là
chính; cần làm cho mọi người nhận thức đúng đắn điều đó để tránh tình trạng so
sánh cá nhân giữa ngành này và ngành khác, cơ quan này và cơ quan khác vì việc
sắp xếp đã có những nguyên tắc chung quy định, ở mỗi cấp, mỗi ngành đều có sự
chỉ đạo thống nhất trên cơ sở phương châm, nguyên tắc của chính sách đã ban
hành.
Đối với một số
loại cán bộ nhất định, cấp có thẩm quyền quản lý cán bộ sẽ cân nhắc so sánh
chung trước khi quyết định bậc lương.
Ví dụ:
Ủy ban Hành chính huyện trong phạm vi tỉnh, Ủy ban Hành chính các tỉnh trong phạm
vi khu, kỹ sư, bác sĩ, Chánh, Phó giám đốc ở trung ương.
b) Thủ trưởng
cơ quan dự kiến cấp bậc cho cán bộ, nhân viên thuộc cơ quan mình rồi đưa cho
cán bộ, nhân viên tham gia ý kiến trước khi quyết định chính thức bậc lương.
Cán bộ phụ
trách cần lắng nghe ý kiến của cán bộ, nhân viên trong cơ quan để quyết định bậc
lương được sát;
Cán bộ, nhân
viên cần tham gia ý kiến về bậc lương dự kiến cho mình, cho người khác một cách
khách quan, vô tư nhưng đến khi bậc lương đã chính thức quyết định thì cần tin
tưởng ở tập thể, ở lãnh đạo.
Cả hai mặt
trên đây bổ sung cho nhau nên cần vận dụng đúng để việc sắp xếp cấp bậc được tốt.
c) Các loại
cán bộ sau đây thì do cấp dưới đề nghị lên cấp trên có thẩm quyền quyết định:
- Ủy ban Hành
chính tỉnh, huyện, Trưởng, Phó ty
- Ủy ban Hành
chính khu, thành phố, Chánh, Phó giám đốc khu
- Chánh, Phó
giám đốc Nha, Sở, Vụ, Cục, Chánh, Phó Văn phòng ở trung ương v.v...
III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN VIỆC SẮP XẾP LƯƠNG
Chủ trương cải
tiến chế độ tiền lương và tăng lương năm 1958 có một ý nghĩa to lớn về kinh tế
và chính trị: đó là kết quả của 3 năm khôi phục kinh tế, đó là sự quan tâm của
Đảng và Chính phủ đối với đời sống của cán bộ, công nhân, viên chức. Nhưng cần
phải tổ chức thực hiện tốt thì mới đảm bảo mục đích, ý nghĩa của việc cải tiến
thêm một bước chế độ tiền lương và tăng lương lần này.
Việc tổ chức
thực hiện do đó cần giải quyết mấy yêu cầu sau đây:
1. TỔ CHỨC HỌC
TẬP CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH:
Cần tổ chức
cho cán bộ, nhân viên, công nhân ở các cơ quan hành chính, sự nghiệp học tập
chu đáo chủ trương cải tiến thêm một bước chế độ tiền lương và tăng lương lần
này: học tập đường lối, phương châm, nguyên tắc và các chủ trương cụ thể. Do học
tập mà nâng cao nhận thức đối với chính sách tiền lương, giải quyết những tư tưởng
lệch lạc, xây dựng một tinh thần phấn khởi, tin tưởng trong việc chấp hành
chính sách lương mới, nhất là trong việc sắp xếp cấp bậc cụ thể cho mỗi người.
Việc học tập
cần kết hợp với tình hình thực tế sắp xếp lương vừa qua ở mỗi cấp, mỗi ngành, với
đặc điểm của mỗi loại cán bộ, nhân viên, công nhân để việc nhận thức chính sách
mới được sâu sắc và thiết thực.
Việc tổ chức
học tập chủ trương, chính sách có tính cách quyết định trong việc thực hiện chủ
trương cải tiến chế độ tiền lương và tăng lương, nên đề nghị các cấp, các ngành
thực sự coi trọng (có kế hoạch kèm theo).
2. TỔ CHỨC SẮP
XẾP
Sau thời gian
chuẩn bị, các cấp, các ngành đã dự kiến cấp bậc cho tất cả cán bộ, nhân viên ở
cấp mình, cơ quan mình; khi phương án sắp xếp được thông qua thì Hội đồng xếp
lương ở mỗi cơ quan tiến hành những công tác sau đây:
- Tổ chức học
tập chính sách trong cơ quan.
- Tổ chức cho
cán bộ, nhân viên, công nhân trong cơ quan tham gia ý kiến về dự kiến sắp xếp cấp
bậc.
- Nghiên cứu
những ý kiến của cán bộ, nhân viên, công nhân trong cơ quan bàn bạc tập thể rồi
thủ trưởng quyết định bậc lương cho mỗi người trong phạm vi quyền hạn đã định.
Hội đồng xếp
lương ở cơ quan gồm có Thũ trưởng cơ quan, cán bộ phụ trách các đơn vị (như
Giám đốc vụ, Cục thuộc Bộ v.v…) và đại diện Chi bộ, Công đoàn.
IV. THỜI GIAN HOÀN THÀNH VIỆC SẮP XẾP LƯƠNG
Sau khi
phương án sắp xếp cấp bậc của mỗi cấp, mỗi ngành đã đi vào xét duyệt, cần tổ chức
việc học tập và đưa dự kiến cho cán bộ, nhân viên tham gia ý kiến ngay để việc
thi hành chế độ lương mới khỏi bị chậm trễ nhiều.
Thời gian cần
hoàn thành trong tháng 7-1958 để đầu tháng 8-1958 mọi người được hưởng lương mới
và thanh toán truy lĩnh.
Thời gian thì
có hạn, công tác tiền lương lần này tuy có nhiều thuận lợi nhưng vẫn còn nhiều
khó khăn phức tạp nên đề nghị các cấp, các ngành tập trung lãnh đạo để đảm bảo
mục đích, yêu cầu và thời gian thi hành chế độ lương năm 1958.
Trong khi thực
hiện cần phối hợp chặt chẽ với Công đoàn để có kế hoạch cụ thể cho việc tổ chức
học tập chủ trương chính sách và việc sắp xếp cấp bậc.
|
K.T.
BỘ TRƯỞNG BỘ NỘI VỤ
THỨ TRƯỞNG
Tô Quang Đẩu
|
THANG LƯƠNG CÁN BỘ PHỤ TRÁCH VÀ NHÂN VIÊN PHIÊN DỊCH
(Ban
hành theo nghị định số 270-TTg ngày 31 tháng 5 năm 1958)
BẬC
|
MỨC
LƯƠNG
|
KHUNG
BẬC
|
12
|
114.000đ
|
Phiên
dịch độc lập công tác các bộ môn
|
|
11
|
103.000
|
|
10
|
93.000
|
|
9
|
83.000
|
|
8
|
73.000
|
|
7
|
65.000
|
|
6
|
58.000
|
|
5
|
52.000
|
|
4
|
47.000
|
Phiên
dịch những vấn đề thuộc về sinh hoạt và công tác thông thường
|
3
|
42.000
|
|
2
|
37.000
|
|
1
|
33.000
|
|
THANG LƯƠNG CÔNG NHÂN CƠ QUAN NHÀ NƯỚC
(Ban
hành theo nghị định số 270-TTg ngày 31 tháng 5 năm 1958)
BẬC
|
MỨC
LƯƠNG
|
KHUNG
BẬC
|
8
|
70.000đ
|
Lái
xe và phụ lái xe
|
|
|
|
|
Những
người nấu ăn và phục vụ trong các khách sạn
|
7
|
62.000
|
|
|
|
|
6
|
54.000
|
Thợ
điện, thợ sửa chữa
|
Thợ
nề, thợ mộc
|
|
|
5
|
47.000
|
Thợ
ấn loát
|
|
4
|
41.000
|
Trồng
cây
|
3
|
36.000
|
2
|
33.000
|
|
|
|
1
|
30.000
|
|
|
|
THANG LƯƠNG CÁN BỘ, NHÂN VIÊN CHUYÊN MÔN NGÀNH GIÁO DỤC
(Ban
hành theo nghị định số 270-TTg ngày 31 tháng 5 năm 1958)
BẬC
|
MỨC
LƯƠNG
|
KHUNG
BẬC
|
16
|
143.000đ
|
Giáo
sư, Giảng viên
|
|
|
|
|
|
15
|
131.000
|
|
|
|
|
|
14
|
119.000
|
|
|
|
|
|
13
|
108.000
|
Phụ
giảng
|
|
Giáo
viên cấp III
|
|
|
12
|
98.000
|
|
|
|
11
|
90.000
|
|
Trợ
lý
|
Giáo
viên cấp II
|
|
10
|
82.000
|
|
|
9
|
75.000
|
|
Giáo
viên cấp I
|
8
|
68.000
|
|
7
|
61.000
|
|
|
6
|
54.000
|
|
|
|
|
5
|
47.000
|
|
|
|
|
4
|
42.000
|
|
|
|
|
|
3
|
37.000
|
|
|
|
|
|
2
|
33.000
|
|
|
|
|
|
1
|
30.000
|
|
|
|
|
|
THANG LƯƠNG CÁN BỘ, NHÂN VIÊN CHUYÊN MÔN NGÀNH
Y TẾ
(Ban
hành theo nghị định số 270-TTg ngày 31 tháng 5 năm 1958)
BẬC
|
MỨC
LƯƠNG
|
KHUNG
BẬC
|
16
|
141.000đ
|
Bác
sĩ, Dược sĩ cao cấp, Nha sĩ, Y sĩ cao cấp
|
|
|
|
15
|
129.000
|
|
|
|
14
|
118.000
|
|
|
|
13
|
107.000
|
|
|
|
12
|
97.000
|
|
|
|
11
|
89.000
|
|
|
|
10
|
82.000
|
|
|
|
9
|
75.000
|
Dược
sĩ, Y sĩ, Nha sĩ trung cấp
|
|
|
8
|
68.000
|
|
|
7
|
61.000
|
|
|
|
6
|
54.000
|
|
Y
tá,
Dược
tá
|
|
5
|
47.000
|
|
Hộ
lý
|
4
|
42.000
|
|
3
|
37.000
|
|
|
2
|
33.000
|
|
|
1
|
30.000
|
|
|
|
THANG LƯƠNG CÁN BỘ, NHÂN VIÊN CƠ QUAN NHÀ NƯỚC
(Ban hành theo nghị định số 270-TTg ngày 31 tháng 5 năm 1958)
BẬC
|
MỨC
LƯƠNG
|
KHUNG
BẬC
|
21
|
200.000đ
|
Chính
phủ, trung ương, Ban thường trực Quốc hội
|
|
|
|
|
21
|
|
|
|
|
|
|
|
|
21
|
|
|
|
|
|
|
|
20
|
186.000
|
|
|
|
|
20
|
|
|
|
|
|
|
|
|
20
|
|
|
|
|
|
|
|
19
|
173.000
|
|
|
|
|
19
|
|
|
|
|
|
|
|
|
19
|
|
|
|
|
|
|
|
18
|
160.000
|
|
|
|
|
18
|
UBKHNN
Ban thanh tra Chính phủ, Ban thống nhất, Ủy ban dân tộc, Chánh phó chủ nghiệm
Văn phòng Nội chính, Văn giáo, Kinh tế Tài chính Thủ tướng phủ, Chánh phó văn
phòng, Thủ tướng phủ
|
|
|
|
|
|
|
|
18
|
|
|
|
|
|
|
|
17
|
148.000
|
UBHC
Liên Khu, Khu, Thành Phố Hà-nội, Hải fòng
|
|
|
|
17
|
|
|
|
|
|
|
|
17
|
|
|
|
|
|
|
|
16
|
136.000
|
|
|
|
|
16
|
Chánh
phó Giám đốc Nha, Sở, Vụ, Cục trực thuộc Thủ tướng Phủ, Chánh phó Giám đốc
Nha, Sở, Vụ, Cục, trực thuộc Bộ, Ban, Chánh văn phòng Bộ, Ban
|
|
|
|
|
|
|
16
|
|
|
|
|
|
|
|
15
|
124.000
|
|
|
|
|
15
|
|
|
|
|
|
|
15
|
|
|
|
|
|
|
|
14
|
113.000
|
|
UBHC
tỉnh
|
|
|
14
|
Trưởng
phó phòng nghiên cứu, nghiệp vụ Bộ, Nha, Sở, Vụ, Cục trược thuộc Thủ tướng phủ,
trực thuộc các Bộ, các Ban
|
|
Chánh
phó Giám đốc các ngành, cấp Khu, Thành phố, Chánh phó văn phòng UBHC Khu,
Thành phố
|
|
|
|
14
|
Cán
bộ nhân viên nghiên cứu, Cán bộ nhân viên nghiệp vụ ở các cơ quan trung ương
|
|
|
|
|
|
|
13
|
102.000
|
|
UBHC
thị xã Nam-định, khu vực Vĩnh-linh
|
|
13
|
|
|
|
|
|
13
|
|
|
|
|
|
|
12
|
92.000
|
|
|
12
|
|
|
Trưởng
phó phòng nghiên cứu, nghiệp vụ của UBHC khu, Thành phố, các cơ quan cấp khu
|
Trưởng
phó Ty các ngành cấp tỉnh, Chánh văn phòng UBHC tỉnh
|
|
12
|
Cán
bộ nhân viên nghiên cứu, Cán bộ nhân viên nghiệp vụ ở các cơ quan khu
|
|
|
|
|
|
11
|
82.000
|
|
|
UBHC
huyện, châu, quận
|
11
|
|
|
Trưởng
phó phòng hành chính quản trị, kế toán, văn thư của Thủ tướng phủ, các Bộ,
Nha, Sở trực thuộc Thủ tướng phủ các Bộ, Ban
|
|
11
|
|
|
|
|
|
10
|
72.000
|
|
|
|
10
|
|
|
Trưởng
phó phòng nghiệp vụ của UBHC tỉnh, các ngành ở tỉnh
|
10
|
Cán
bộ nhân viên nghiên cứu, Cán bộ nhân viên nghiệp vụ ở các cơ quan huyện, tỉnh
|
|
|
|
|
9
|
64.000
|
|
|
|
9
|
|
|
9
|
Cán
bộ nhân viên hành chính, đánh máy ở các cơ quan trung ương, khu, tỉnh, huyện,
châu, quận
|
|
|
|
8
|
56.000
|
|
|
|
|
8
|
|
|
|
|
8
|
Kế
toán hành chính, Quản lý ở các cơ quan trung ương, khu, tỉnh, huyện, châu, quận
|
|
|
7
|
50.000
|
|
|
|
|
7
|
|
|
|
|
|
|
7
|
Nhân
viên phụ trách công văn đi đến, điện thoại, thủ quỹ, thủ kho ở các trung
ương, khu, tỉnh, huyện, châu, quận
|
|
6
|
45.000
|
|
|
|
|
|
6
|
|
|
|
|
|
|
|
6
|
Giữ
trẻ, cấp dưỡng tập đoàn, gác cơ quan ở trung ương, khu, tỉnh, huyện, châu, quận
|
5
|
40.000
|
|
|
|
|
|
5
|
|
|
|
|
|
|
|
|
5
|
4
|
36.000
|
|
|
|
|
|
4
|
|
|
|
|
|
|
|
|
4
|
3
|
33.000
|
|
|
|
|
|
3
|
|
|
|
|
|
|
|
|
3
|
2
|
30.000
|
|
|
|
|
|
2
|
|
|
|
|
|
|
|
|
2
|
|
|
|
1
|
27.300
|
|
|
|
|
|
1
|
|
|
|
|
|
|
|
`
|
1
|
|
|
|
|
|
|
Ghi chú: Những chức vụ quy định
trong thang lương này là những chức vụ chung cho các cấp, các ngành, còn những
chức vụ chưa quy định thì các Bộ sẽ quy định cụ thể sau khi Bộ Nội vụ đồng ý.
(1) Ủy ban kế hoạch Nhà nước.