BỘ
TÀI CHÍNH
*******
Số:
27-TC-VX
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
*******
Hà
Nội, ngày 05 tháng 12 năm 1963
|
THÔNG TƯ
HƯỚNG DẪN THI HÀNH THÔNG TƯ SỐ 36-TTG CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
VỀ VIỆC QUẢN LÝ VÀ KIỂM SOÁT CHỈ TIÊU QUỸ TIỀN LƯƠNG THUỘC KHU VỰC KHÔNG SẢN XUẤT
BỘ TRƯỞNG BỘ TÀI CHÍNH
Kính
gửi:
|
Các ông Bộ trưởng các Bộ,
Các ông Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ và cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ,
Các ông Trưởng viện Kiểm sát nhân dân tối cao và Chánh án tòa án nhân dân tối
cao,
Các ông Chủ tịch ủy ban hành chính các khu, thành phố, tỉnh và khu vực Vĩnh
Linh,
Các ông Giám đốc và Ty trưởng các Sở, Ty tài chính,
|
Tại thông tư số
39-TTg ngày 07 tháng 05 năm 1963, Thủ tướng Chính phủ đã quy định chế độ quản
lý và kiểm soát chỉ tiêu quỹ tiền lương thuộc khu vực không sản xuất.
Sau khi đã thống
nhất ý kiến với bộ Lao động; bộ Nội vụ và Ngân hàng Nhà nước trung ương, bộ Tài
chính giải thích thêm một số điểm và hướng dẫn việc lập, xét duyệt và chấp hành
chỉ tiêu quỹ tiền lương thuộc khu vực không sản xuất vật chất của Nhà nước (sau
đây gọi tắt là quỹ tiền lương) để các cơ quan, đoàn thể trung ương và ủy ban
hành chính các khu, thành phố, tỉnh thi hành.
I. GIẢI THÍCH
MỘT SỐ ĐIỂM THUỘC NỘI DUNG VÀ NGUYÊN TẮC QUẢN LÝ KIỂM SOÁT QUỸ TIỀN LƯƠNG
A. VỀ NỘI
DUNG QUỸ TIỀN LƯƠNG:
Nội dung
quỹ tiền lương ghi ở điểm 1 và 2 mục II trong thông tư số 36-TTg: gồm toàn
bộ số tiền dùng để trả lương cấp bậc và phụ cấp lương (sau đây gọi tắt là
lương) và trả công lao động (theo các thang, bảng, mức lương đã được Nhà nước
quy định) cho cán bộ, công nhân, viên chức (sau đây gọi tắt là nhân viên) của
các cơ quan, các cấp thuộc khu vực không sản xuất vật chất của Nhà nước từ cấp
huyện, thị xã, khu phố trực thuộc các thành phố trở lên (kể cả số nhân viên được
cấp trên tăng cường cho xã và hợp tác xã nông nghiệp mà vẫn do cấp trên thực tiếp
trả lương). Tất cả số tiền dùng để trả luơng và trả công nói ở trên, không kể
thuộc nguồn kinh phí nào (hành chính sự nghiệp, nhà ăn, nhà trẻ, công đoàn, bảo
hiểm xã hội, hay kinh phí lấy thu để chi của các đội văn công, chiếu bóng v.v…)
và trả cho nhân viên thường xuyên hay tạm thời, đã được ghi vào kế hoạch hay
chưa, đều phải được các cấp có thẩm quyền xét duyệt và ghi vào chỉ tiêu quỹ tiền
lương của từng năm kế hoạch.
Sỡ dĩ số nhân
viên chưa được ghi vào kế hoạch lao động mà tiền lương và tiền công trả cho họ
vẫn phải tính vào quỹ tiền lương là để nhằm phản ảnh thực tế quỹ tiền lương và
để cho việc quản lý và kiểm soát chi tiêu quỹ đó được chặt chẽ.
Tiền lương của
nhân viên thường xuyên và tạm thời chưa được ghi vào kế hoạch lao động nói ở
trên, gồm toàn bộ tiền lương và tiền công trả cho nhân viên thường xuyên làm một
số công việc có tính chất lâu dài nhưng chưa được tính vào kế hoạch lao động,
và trả cho nhân viên phù động; hợp đồng làm một số công việc có tính chất thời
vụ, theo mùa hay linh tinh đột xuất từ một ngày trở lên, trước đây do kinh phí
sự nghiệp đài thọ.
Để việc lập kế
hoạch quỹ tiền lương của khu vực không sản xuất vật chất theo đúng nội dung như
đã nói trong điểm 1 và 2 mục II thông tư 36-TTg, các khoản tiền sau đây đều phải
được các cấp có thẩm quyền xét duyệt và ghi vào chi tiêu quỹ tiền lương:
a) Tiền lương
trả cho nhân viên thường xuyên và tạm thời đã được ghi vào kế hoạch lao động của
Nhà nước và bộ Nội vụ hay ủy ban hành chính khu, thành phố, tỉnh duyệt cho mỗi
đơn vị trong từng năm kế hoạch. Số nhân viên đó bao gồm nhân viên đã được tuyển
dụng chính thức, nhân viên còn trong thời kỳ tập sự, nhân viên chưa được tuyển
dụng chính thức nhưng đang làm được tuyển dụng chính thức nhưng đang làm một số
công việc thường xuyên lâu dài (loại này, trước đây gọi là nhân viên hợp đồng,
phù động lâu năm).
b) Tiền lương
và tiền công trả cho nhân viên thường xuyên làm một số công việc lâu dài và
nhân viên tạm thời làm một số công việc theo mùa, thời vụ hay đột xuất linh
tinh, chưa được ghi vào kế hoạch lao động của Nhà nước và ngoài chỉ tiêu lao động
đã được bộ Nội vụ hay ủy ban hành chính khu, thành phố, tỉnh ấn định cho mỗi
đơn vị, nếu cơ quan trực tiếp sử dụng họ làm việc từ năm ngày trở lên (tiền
lương tính từ ngày bắt đầu làm việc).
Tất cả tiền
lương và tiền công nói trong điểm a và b trên đều phải ghi vào dự toán quỹ tiền
lương ngay từ đầu năm và phải được Hội đồng Chính phủ phê chuẩn.
c) Tiền lương
và tiền công trả cho nhân viên tạm thời được thuê mượn làm một số công việc
linh tinh đột xuất, nếu cơ quan trực tiếp sử dụng họ dưới năm ngày thì cũng phải
ghi vào quỹ tiền lương. Nhưng do đầu năm chưa tính toán được cụ thể nên dự trù
tiền lương của họ sẽ ghi gộp cả vào phần dự trù chỉ tiêu chung về công việc đó
trong dự toán cả năm. Đến quý nào cần thuê mượn người thì cơ quan phải lập dự
toán cụ thể phần tiền lương theo nhu cầu quý ấy để gửi cơ quan tài chính xét
duyệt.
d) Ngoài các
khoản tiền nói trên, mỗi đơn vị còn được sử dụng một số tiền, tối đa không quá
5‰ (năm phần nghìn) quỹ tiền lương của nhân viên thường xuyên đã được ghi vào kế
hoạch để chỉ về thuê mượn phù động tạm thời thay thế cho nhân viên thường xuyên
như tạp vụ, vệ sinh, cấp dưỡng, giữ trẻ vì đau ốm, thai sản… phải nghỉ việc. Số
tiền này, nếu có chi thì cũng phải ghi vào quỹ tiền lương.
Còn các khoản
tiền lương, tiền công thuê mượn từ một ngày trở lên, những cơ quan sử dụng
không trực tiếp quản lý lao động hay trong tiền lương, tiền công lại gồm cả tiền
bù hao phí nguyên vật liệu và công cụ lao động (không kể công cụ nhỏ như: cuốc,
cưa, dao…) thì không phải ghi vào tiền lương. Những khoản tiền này trước đây do
kinh phí nào đài thọ thì nay vẫn ghi vào loại kinh phí đó.
Ví dụ: Bộ A
mượn một số thợ mộc, thợ nề và giao nguyên vật liệu cho họ để sửa chữa cơ quan,
nếu phải làm từ năm ngày trở lên thì số tiền trả công cho họ phải được duyệt và
ghi vào chỉ tiêu quỹ tiền lương ngay từ đầu năm, nếu làm dưới năm ngày thì tiền
lương ghi chung vào chi phí sửa chữa. Đến quý nào phải chi trả công về sửa chữa
thì cơ quan mới phải lập dự toán chi quỹ tiền lương cho quý đó. Nhưng nếu bộ A
lại đặt khoán cho một số người hoặc tổ chức nào đó, hay thuê người làm nhưng
trong tiền công trả cho họ lại gồm cả tiền bù hao phí nguyên vật liệu, công cụ
lao động thì số tiền công khoán và công thuê mượn không phải ghi vào quỹ tiền
lương. Số tiền này, trước đây ghi vào mục nào, thì nay vẫn ghi vào mục ấy.
B. NGUYÊN TẮC
QUẢN LÝ VÀ KIỂM SOÁT CHỈ TIÊU QUỸ TIỀN LƯƠNG (MỤC III THÔNG TƯ 36-TTG).
Chỉ tiêu lao
động, quỹ tiền lương hàng năm của Nhà nước là một pháp lệnh, các bộ, các cơ
quan, đoàn thể trung ương và ủy ban hành chính các khu, thành phố, tỉnh phải
tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành, chẳng những không được chi vượt quá chỉ
tiêu đã được duyệt, mà còn phải phấn đấu để thực hiện dưới mức chỉ tiêu mà vẫn
bảo đảm hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ công tác được giao. Cụ thể các bộ, các cơ
quan đoàn thể trung ương, và ủy ban hành chính các khu, thành phố, tỉnh phải chấp
hành đầy đủ những nguyên tắc sau đây:
1. Không
được chi vượt quá chỉ tiêu, hạn mức quỹ tiền lương đã được duyệt:
a) Chỉ được
chi trong phạm vi chi tiêu, hạn mức quỹ tiền lương đã được duyệt cho nhân viên
thường xuyên thuộc kế hoạch, và nhân viên thường xuyên; nhân viên tạm thời chưa
được ghi vào kế hoạch.
b) Trong từng
loại tiền lương trên, cũng không được chi vượt quá chi tiêu, hạn mức của lương
cấp bậc; phụ cấp lương và chỉ tiêu lương bình quân.
2. Không
được tự ý điều chỉnh giữa các loại chỉ tiêu, hạn mức quỹ tiền lương đã được duyệt:
a) Không được
tự ý điều chỉnh chi tiêu, hạn mức quỹ tiền lương của ngành này với ngành khác,
ví dụ:
Không được điều
chỉnh chỉ tiêu, hạn mức quỹ tiền lương của ngành các cơ quan quản lý Nhà nước,
các cơ quan của Đảng, các tổ chức chính trị, xã hội với chỉ tiêu, hạn mức quỹ
tiền lương của ngành giáo dục, hay chỉ tiêu, hạn mức của ngành giáo dục với chỉ
tiêu, hạn mức của ngành y tế… hoặc ngược lại.
b) Không được
tự ý điều chỉnh giữa chỉ tiêu, hạn mức lương cấp bậc với phụ cấp lương hoặc ngược
lại đã được duyệt cho một ngành (quản lý Nhà nước hay giáo dục v.v…)
c) Không được
dùng tiền lương của nhân viên thường xuyên đã được ghi vào kế hoạch để trả
lương cho nhân viên thường xuyên và tạm thời chưa được ghi vào kế hoạch.
d) Không được
tự ý điều chỉnh hạn mức quỹ tiền lương giữa quý trước với quý sau; nếu vì lý do
nào đó mà hạn mức quỹ tiền lương quý trước còn thừa thì cũng không được dùng để
tăng thêm biên chế hay tăng lương cho nhân viên của quý sau. Nhưng về mặt cấp
phát, thì so hạn mức quỹ tiền lương đã được duyệt cho quý trước, nếu còn thừa
thì sẽ được chuyển trừ vào hạn mức quỹ tiền lương được duyệt của quý sau.
Riêng đối với
ngành các cơ quan quản lý Nhà nước, các cơ quan của Đảng, các tổ chức chính trị
và xã hội thì không được điều chỉnh giữa kế hoạch chi quỹ tiền lương tháng trước
với kế hoạch chi quỹ tiền lương tháng sau. Nếu vì lý do nào đó mà kế hoạch chi
quỹ tiền lương tháng còn thừa thì cũng giải quyết như trường hợp hạn mức quỹ
còn thừa nói ở trên.
3. Nguyên
tắc giải quyết một số trường hợp xin chi vượt chỉ tiêu lao động, quỹ tiền lương
(điểm c, mục III thông tư 36-TTg).
Chỉ tiêu lao
động; quỹ tiền lương được Hội đồng Chính phủ duyệt cho mỗi bộ, cơ quan; đoàn thể
trung ương và các khu, thành phố; tỉnh và mỗi bộ, cơ quan; đoàn thể trung ương
và các khu, thành phố; tỉnh duyệt cho các đơn vị trực thuộc nói trong điểm c, mục
III; thông tư 36-TTg, bao gồm chỉ tiêu tổng số lao động và quỹ tiền lương; và
chỉ tiêu lao động, quỹ tiền lương của từng ngành (quản lý Nhà nước, Giáo dục, Y
tế v.v…) Nó có ý nghĩa rất quan trọng nhằm bảo đảm sự phát triển cân đối giữa
các ngành trong khu vực không sản xuất; và thông qua việc thực hiện chỉ tiêu
lao động quỹ tiền lương mà thúc đẩy các cơ quan; các cấp hoàn thành và hoàn
thành vượt mức các chỉ tiêu công tác đã được Nhà nước quy định trong từng năm kế
hoạch. Do đó, việc chi tiêu và điều chỉnh quỹ tiền lương của mỗi đơn vị, mỗi cấp
phải trong phạm vi chỉ tiêu đã được duyệt cho từng ngành và chỉ tiêu tổng số. Bởi
vậy, khi xét cho chi vượt chỉ tiêu quỹ tiền lương đã được duyệt, các bộ và ủy
ban hành chính các khu, thành phố, tỉnh phải căn cứ vào các nguyên tắc sau đây:
a) Thủ trưởng
các bộ, các cơ quan; đoàn thể trung ương, ủy ban hành chính các khu, thành phố,
tỉnh và thủ trưởng đơn vị dự toán trực thuộc các bộ, cơ quan đoàn thể trung
ương và trực thuộc các khu, thành phố, tỉnh, chỉ được quyết định tăng thêm chỉ
tiêu lao động tiền lương cho các đơn vị trực thuộc nếu việc tăng thêm đó chưa
vượt quá chỉ tiêu lao động, quỹ tiền lương đã được Hội đồng Chính phủ, hay cấp
trên duyệt cho ngành đó của đơn vị hay cấp mình.
Ví dụ: chỉ
tiêu lao động, quỹ tiền lương ngành giáo dục của bộ A trong năm 1963 được Hội đồng
Chính phủ duyệt là: 2.000 người và quỹ tiền lương 1.400.000đ. Như vậy, bộ A chỉ
được cho các đơn vị giáo dục trực thuộc tăng thêm chỉ tiêu lao động, quỹ tiền
lương trong phạm vi 2.000 người và 1.4000.000đ quỹ tiền lương đã được duyệt,
không được rút chỉ tiêu của ngành khác để tăng cho giáo dục.
b) Bộ Nội vụ
và bộ Tài chính chỉ xét quyết định cho tăng thêm chỉ tiêu lao động, quỹ tiền
lương, nếu việc xin tăng của các bộ và ủy ban hành chính các khu, thành phố, tỉnh
chưa vượt quá chỉ tiêu lao động, quỹ tiền lương đã được Hội đồng Chính phủ duyệt
cho một ngành (quản lý Nhà nước, giáo dục, y tế…) của cấp trung ương hay cấp địa
phương.
c) Nếu các bộ,
các cơ quan, đoàn thể trung ương, ủy ban hành chính các khu, thành phố, tỉnh
xin tăng vượt chỉ tiêu lao động, quỹ tiền lương của một ngành, đã được Hội đồng
Chính phủ duyệt cho ngành đó của cấp trung ương hay cấp địa phương thì phải được
Ủy ban kế hoạch Nhà nước xét và trình Thủ tướng Chính phủ quyết định.
Ví dụ: Chỉ
tiêu lao động, quỹ tiền lương năm 1963 của ngành giáo dục cấp trung ương được Hội
đồng Chính phủ duyệt là 15.000 người và quỹ tiền lương 10800.000 đồng. Trong
sáu tháng đầu năm; bộ Nội vụ và bộ Tài chính mới phân phối hết 14-600 người và
quỹ tiền lương là 10.512.000đ cho các bộ, cơ quan, đoàn thể. Đến quý 3-1963, do
nhu cầu công tác phát triển nên một số bộ xin tăng thêm bình quân cả năm 300
biên chế giáo dục và 216.000 đồng quỹ tiền lương. Như vậy, việc xin tăng thêm
biên chế, quỹ tiền lương của một số bộ vẫn chưa vượt quá chỉ tiêu đã được Hội đồng
Chính phủ duyệt cho ngành giáo dục cấp trung ương, nên bộ Nội vụ và bộ Tài
chính có thể xét giải quyết (trường hợp b).
Cũng ví dụ
trên, nhưng nếu các bộ lại xin tăng bình quân cả năm những 600 người và
432.000đ quỹ tiền lương thì như vậy, là việc xin tăng thêm biên chế, quỹ tiền
lương của một số bộ đã vượt quá chỉ tiêu của Hội đồng Chính phủ quy định cho cấp
trung ương là 200 người và 144.000đ quỹ tiền lương. Trường hợp này, phải được Ủy
ban kế hoạch Nhà nước xét và trình Thủ tướng Chính phủ quyết định (trường hợp
c).
4. Đăng ký
nhân viên lĩnh lương:
a) Mỗi năm một
lần, sau khi dự toán quỹ tiền lương được duyệt, các đơn vị dự toán cấp 1 phải
đăng ký tại cơ quan tài chính cùng cấp về tổng số nhân viên công tác của đơn vị
mình (kể cả các đơn vị trực thuộc). Tổng số đó, gồm cả số nhân viên ốm đau nghỉ
việc hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội, nhân viên đi học chưa cắt biên chế vẫn lĩnh
lương ở đơn vị, nhân viên chờ công tác, nhân viên biệt phái đi hoặc ở cơ quan
khác biệt phái đến mà đơn vị mình trực tiếp trả lương.
Tổng số nhân
viên ghi trong bảng đăng ký của mỗi đơn vị phải trong phạm vi chỉ tiêu lao động
đã được duyệt và phải phân theo từng ngành (quản lý Nhà nước, giáo dục…) loại
chức vụ, thang bậc, mức lương (1)
b) Trong quá
trình thực hiện, nếu được cơ quan có thầm quyền cho tăng hoặc giảm biên chế, đề
bạt cán bộ hoặc cho nhân viên thôi việc, hay phải chi thêm một khoản phụ cấp
lương mới được Nhà nước ban hành v.v…, do đó mà có sự thay đổi về số nhân viên
công tác, thay đổi về chức vụ, bậc lương, mức lương so với lần đăng ký đầu năm
(tăng hoặc giảm), thì các đơn vị phải đăng ký bổ sung ngay tại cơ quan tài
chính cùng cấp về những trường hợp mới thay đổi đó. Công văn đăng ký bổ sung phải
đính kèm các quyết định đề bạt, điều động, cho thôi việc, điều chỉnh lương v.v…
của cơ quan có thẩm quyền để tiện việc xét giải quyết.
Nội dung các
quyết định đính kèm nói ở trên, phải ghi rõ: họ tên, chức vụ, thang bậc mức
lương của nhân viên trước khi được đề bạt, điều động và chức vụ, thang bậc mức
lương của nhân viên sau khi được đề bạt; điều động, ngày tháng được hưởng theo
thang, bậc, mức lương mới.
Cơ quan tài
chính chỉ chấp nhận việc đăng ký bổ sung và cấp phát thêm tiền lương khi đã nhận
được đầy đủ các giấy tờ, chứng từ hợp lệ quy định trên.
Để thống nhất
khái niệm về những danh từ: nhân viên thường xuyên và tạm thời, nhân viên trong
và ngoài kế hoạch, lương và phụ cấp lương và chữ “ngành” dùng trong thông tư
này chúng tôi sẽ giải thích trong bản phụ lục đính kèm.
II. VIỆC LẬP,
XÉT DUYỆT VÀ CHẤP HÀNH CHỈ TIÊU HẠN MỨC, QUỸ TIỀN LƯƠNG
A. LẬP VÀ XÉT
DUYỆT DỰ TOÁN QUỸ TIỀN LƯƠNG.
1. Cả năm:
a) Cuối mỗi
năm, cùng với thời gian lập dự toán ngân sách năm sau các đơn vị dự toán phải
căn cứ vào đường lối, phương châm, nhiệm vụ công tác và sổ kiểm tra về kế hoạch
lao động, quỹ tiền lương của Nhà nước đề ra cho năm tới mà lập dự toán quỹ tiền
lương cho năm sau của đơn vị mình. Dự toán quỹ tiền lương hàng năm của mỗi đơn
vị chia làm hai phần: tiền lương của nhân viên thường xuyên đã được ghi vào kế
hoạch lao động và tiền lương của nhân viên thường xuyên và tạm thời làm việc từ
5 ngày trở lên nhưng chưa được ghi vào kế hoạch lao động.
Bước đầu, do
chưa tính để phân tách được số ngày nghỉ vì ốm đau, thai sản, tai nạn lao động…
để khấu trừ phần tiền lương về những ngày nghỉ trên mà chuyển ghi vào chỉ tiêu
của quỹ bảo hiểm xã hội ngày từ đầu năm, cho nên dự toán quỹ tiền lương hàng
năm của mỗi đơn vị nói ở trên là tính bao gồm cả phần tiền trả cho nhân viên về
những ngày họ nghỉ vì ốm đau, thai sản… phải nghỉ việc. Nhưng trong quá trình
thực hiện từng tháng thì quỹ tiền lương lại không chi mà do quỹ bảo hiểm xã hội
chi, nên số tiền trả cho nhân viên ốm đau, thai sản… đã tính trong dự toán quỹ
tiền lương sẽ thừa. Số thừa này sẽ nộp lại cho ngân sách để giảm chi cho dự
toán quỹ tiền lương.
Dự toán chi
quỹ tiền lương nói ở trên phải đính kèm với dự toán ngân sách cả năm của đơn vị
để gửi tới cơ quan tài chính cùng cấp.(2)
- Các sở, ty
Tài chính có nhiệm vụ xét và tổng hợp dự toán quỹ tiền lương của cấp mình (gồm
cả dự toán quỹ tiền lương của nhân viên thường xuyên đã được ghi vào kế hoạch
lao động và nhân viên thường xuyên tạm thời chưa được ghi vào kế hoạch lao động)
đính kèm với dự toán ngân sách chung của địa phương để trình ủy ban hành chính
cùng cấp xét duyệt và báo cáo bộ Tài chính.
- Bộ Tài
chính có nhiệm vụ xét và tổng hợp dự toán quỹ tiền lương trong toàn quốc để
đính kèm với dự toán ngân sách của Nhà nước trình Hội đồng Chính phủ xét duyệt.
b) Sau khi được
Hội đồng Chính phủ phê chuẩn, bộ Tài chính có nhiệm vụ thông báo chỉ tiêu quỹ
tiền lương của năm kế hoạch đó (gồm chỉ tiêu tổng số tiền lương, lương cấp bậc,
phụ cấp lương và lương bình quân của từng ngành) cho các bộ, cơ quan trung ưong
và các khu, thành phố, tỉnh.(2b)
c) Sau khi nhận
được thông báo chỉ tiêu quỹ tiền lương đã được duyệt, các bộ, cơ quan trung
ương và các đơn vị dự toán cấp I trực thuộc các khu, thành phố, tỉnh phải lập bản
dự toán quỹ tiền lương chính thức theo chỉ tiêu đã được duyệt (có chia ra bốn
quý) của đơn vị mình (kể cả các đơn vị trực thuộc) đính kèm bảng đăng ký tổng số
nhân viên lĩnh lương để gửi đến cơ quan Tài chính cùng cấp.(3)
Trong phạm vi
chỉ tiêu quỹ tiền lương đã được duyệt; các bộ, cơ quan trung ương và ủy ban
hành chính các khu, thành phố, tỉnh có nhiệm vụ phân phối cụ thể cho các đơn vị
trực thuộc thi hành.
- Trong khi dự
toán quỹ tiền lương cả năm của các đơn vị dự toán chưa được Chính phủ chính thức
phê chuẩn, thì cơ sở tạm thời để làm căn cứ cấp phát tiền lương cho mỗi đơn vị
là số nhân viên có mặt lĩnh lương kỳ thứ hai của tháng 12 năm trước (kể cả số
nhân viên đi học; đi công tác đột xuất mà cơ quan vẫn trực tiếp trả lương và số
nhân viên ốm đau, thai sản… nghỉ việc cả tháng, nếu có). Ngoài số nhân viên có
mặt nói trên, nếu vì nhu cầu công tác cần thiết mà đơn vị cần phải bổ sung cán
bộ ngay thì phải được Thủ tướng Chính phủ (nếu là đơn vị dự toán trung ương),
hay ủy ban hành chính khu, thành phố, tỉnh (nếu là đơn vị dự toán địa phương)
cho phép, thì cơ quan tài chính mới cấp thêm phần tiền lương cho số nhân viên mới
được tăng của mỗi đơn vị.
2. Từng
quý:
a) Trên cơ sở
dự toán quỹ tiền lương cả năm (có chia ra bốn quý) đã được duyệt, chậm nhất là
ngày 15 tháng cuối mỗi quý các bộ, cơ quan trung ương và các đơn vị dự toán cấp
I trực thuộc các khu, thành phố, tỉnh đã phải có kế hoạch hạn mức quỹ tiền
lương chi tiết quý sau của đơn vị mình (gồm cả các đơn vị trực thuộc), đính kèm
với hạn mức chi quý của ngân sách để gửi tới cơ quan tài chính cùng cấp xét duyệt.(4)
b) Hạn mức
chi quỹ tiền lương hàng quý phải lập theo những nguyên tắc sau đây:
- Đối với
ngành các cơ quan quản lý Nhà nước, các cơ quan của Đảng, các tổ chức chính trị
và xã hội: Hạn mức chi quỹ tiền lương không được vượt quá 1/4 (một phần tư)
dự toán quỹ tiền lương từng tháng không được vượt quá 1/3 (một phần ba) hạn mức
quỹ tiền lương quý đã được duyệt cho từng quý.
- Nếu có trường
hợp số lao động hiện có đầu năm của đơn vị lại nhiều hơn chỉ tiêu lao động đã
được Hội đồng Chính phủ hay cấp có thẩm quyền duyệt cho đơn vị trong năm kế hoạch
đó, thì số biên chế dôi ra so với chỉ tiêu nói trên; không được tính để lập dự
toán và cấp phát tiền lương.
Đơn vị có
trách nhiệm tích cực giải quyết số biên chế dôi ra này, và phải báo cáo ngay với
bộ Nội vụ (nếu là đơn vị dự toán trung ương) hay ủy ban hành chính cùng cấp (nếu
là đơn vị dự toán địa phương) biết tình hình và lý do về số biên chế dôi ra đó.
Sau khi đã tích cực giải quyết mà vẫn không hết số người vượt quá chỉ tiêu, thì
phải được cơ quan có thẩm quyền thỏa thuận và xét duyệt như đã quy định trong
điểm C mục III của thông tư 36-TTg và điểm 3 mục B phần I của thông tư này, thì
đơn vị dự toán mới được lập dự toán quỹ tiền lương riêng cho số biên chế dôi ra
để gửi tới cơ quan tài chính xét và cấp phát.
- Nhưng nếu số
người hiện có mặt lại ít hơn chỉ tiêu lao động đã được duyệt cho năm kế hoạch
đó, thì hạn mức chi quỹ tiền lương của những tháng, quý chưa thực hiện đủ chỉ
tiêu lao động này, chỉ được lập và chi theo số lao động hiện có và khả năng thực
tế sẽ tăng lên từng tháng, quý cho đến khi số lao động được bổ sung bằng mức
chi tiêu được duyệt.
Ví dụ: số
nhân viên quản lý Nhà nước của Bộ A có mặt đến 31-12-1962 là 100 người. Nhưng
chỉ tiêu lao động ngành quản lý Nhà nước của Bộ A năm 1963 lại được duyệt 120
người, mà khả năng của bộ A thì đến tháng 2 chỉ có thể bổ sung được 10 người và
tháng ba mới được thêm 10 người nữa. Như vậy, hạn mức chi quỹ tiền lương quý
01-1963 của ngành quản lý Nhà nước thuộc Bộ chi được lập và chi như sau:
Tháng 1-1963:
100 người
---
2-1963: 110 ---
--- 3-1963: 120 ---
- Đối với
các ngành giáo dục, y tế, văn hóa v.v…: Trong các ngành sự nghiệp, có một
vài ngành như: y tế, giáo dục…, việc phân phối chỉ tiêu quỹ tiền lương hàng
quý, hàng tháng phải trên cơ sở khối lương công tác của tháng, quý đó, cho nên
không thể áp dụng nguyên tắc phân phối dự toán quỹ tiền lương tháng, quý như đối
với ngành cơ quan quản lý Nhà nước. Còn một số ngành sự nghiệp khác (xiếc, tuồng,
kịch, nghiên cứu khoa học…) tuy công tác cũng có những biến động, nhưng những
biến động đó không đòi hỏi phải tăng thêm biên chế, nên cũng áp dụng nguyên tắc
phân phối dự toán quỹ tiền lương tháng, quý như đối với ngành cơ quan quản lý
Nhà nước. Nhưng để việc phân phối dự toán quỹ tiền lương của các ngành sự nghiệp
được áp dụng theo một nguyên tắc chung cho tất cả các loại sự nghiệp trong khi
mới thực hiện chế độ quản lý quỹ tiền lương của Thủ tướng Chính phủ, việc phân
phối dự toán quỹ tiền lương tháng, quý của các ngành sự nghiệp, bước đầu tạm thời
căn cứ vào nhu cầu lao động của công tác trong từng tháng, quý, miễn là khi
phân phối chỉ tiêu cả năm ra bốn quý thì tổng số hạn mức 4 quý không vượt quá
chỉ tiêu cả năm và tổmg số kế hoạch ba tháng không được vượt quá hạn mức chi
quý. Sau này, sẽ căn cứ vào tính chất công tác cụ thể của từng loại sự nghiệp
mà quy định lại cách phân phối dự toán cho hợp lý.
- Đối với
nhân viên thường xuyên và tạm thời chưa được ghi vào kế hoạch lao động: Việc
lập hạn mức chi quỹ tiền lương hàng quý của nhân viên thường xuyên chưa được
ghi vào kế hoạch lao động và nhân viên tạm thời (kể cả tạm thời trên năm ngày
và dưới năm ngày) sẽ căn cứ vào nhu cầu lao động cần sử dụng trong từng quý để
lập kế hoạch hạn mức quỹ tiền lương. Tức là quý nào có sử dụng lao động thì mới
lập hạn mức quỹ tiền lương cho quý đó, những quý không sử dụng lao động thì
thôi.
c) Chậm nhất
là sau một tuần kể từ khi nhận được hạn mức quỹ tiền lương quý của các đơn vị dự
toán gửi tới cơ quan tài chính phải xét duyệt xong và thông báo ngay hạn mức
chi quỹ tiền lương đã được duyệt đó cho các đơn vị dự toán biết, đồng thời sao
gửi cho Ngân hàng Nhà nước cùng cấp một bản để làm căn cứ cấp phát. Bản sao gửi
Ngân hàng này có giá trị như một lệnh chi quỹ tiền lương của quý đó.(5)
d) Trong phạm
vi hạn mức chi quỹ tiền lương quý đã được cơ quan tài chính xét duyệt và thông
báo, các đơn vị dự toán cấp I phải tiến hành phân phối lại hạn mức cho các đơn
vị trực thuộc và sao gửi cho Ngân hàng Nhà nước cùng cấp biết để Ngân hàng làm
các thủ tục chuyển hạn mức nơi cấp phát và gửi cơ quan tài chính một bản để
theo dõi.
3. Thống
nhất phương pháp ghi dự; quyết toán quỹ tiền lương của nhân viên thường xuyên
và tạm thời chưa được ghi vào kế hoạch lao động:
Đối với tiền
lương của nhân viên thường xuyên và tạm thời chưa được ghi vào kế hoạch lao động
của Nhà nước, ngoài việc phải lập dự toán quỹ tiền lương chi tiết theo các biểu
mẫu đính kèm thông tư này, vẫn phải ghi trong dự toán ngân sách chung của đơn vị
theo các loại, khoản, hạng chi như cũ, nhưng cần chú ý một số điểm thay đổi như
sau:
- Đối với một
số đơn vị có sử dụng nhân viên thường xuyên và tạm thời nhưng chưa được ghi vào
kế hoạch lao động, tiền lương trả cho họ trước đây vẫn ghi gộp chung vào mục
kinh phí sự nghiệp hay nghiệp vụ…. thì nay phải tách riêng phần tiền lương của
các nhân viên này, để ghi vào mục 26 (mục lương và phụ cấp lương sẽ được bổ
sung trong mục lục dự toán 1964) của các loại, khoảng, hàng chi đó. Khi ghi tiền
lương của các nhân viên trên các mục 26 thì phải ghi thành hai tiết như sau:
Tiết 1: Tiền
lương từ năm ngày trở lên (tính từ ngày đầu).
Tiết 2: Tiền
lương dưới năm ngày.
Ví dụ: Trong
năm 1962, ngành quản lý Nhà nước của bộ A có sử dụng một số nhân lực để làm một
số công việc theo thời vụ (từ năm ngày trở lên), tiền công trả cho họ là 3.000đ
nhưng lại ghi gộp cả vào mục 11 nghiệp vụ phí. Ngoài ra, trong năm 1962 ngành
quản lý Nhà nước của bộ A còn thuê mượn một số nhân công để làm một số công việc
linh tinh đột xuất dưới năm ngày. Tiền công trả cho họ là 1.200 đồng, nhưng lại
ghi gộp cả vào mục 8 công vụ phí, thì nay số tiền công thuê mượn nhân công của
hai trường hợp trên đều phải ghi vào dự toán ngân sách, như sau:
- Loại IV khoản
50 - Mục 26.
1. Lương trên
năm ngày 3.000đ.
2. Lương dưới
năm ngày 1.200đ.
B. Chấp hành hạn mức và chỉ tiêu quỹ tiền lương.
1. Nguyên
tắc và thủ tục cấp phát tiền lương hàng tháng:
a) Hạn mức
chi quỹ tiền lương từng quý đã được duyệt cho mỗi đơn vị mới chỉ là kế hoạch
chi quỹ tiền lương, còn việc cấp phát từng tháng lại phải căn cứ vào số nhân
viên công tác đã được duyệt hiện có trong từng tháng. Bởi vậy, các đơn vị dự
toán muốn rút tiền lương đúng như kế hoạch tháng đã ghi trong thông báo của hạn
mức quý thì nhất thiết phải có đầy đủ các giấy tờ chứng từ của cơ quan có thẩm
quyền quyết định (như đã nói ở điểm b mục đăng ký nhân viên lĩnh lương) và cơ
quan tài chính duyệt trên các chứng từ đó thì Ngân hàng Nhà nước mới cấp phát.
Các chứng từ
nói trên phải gửi tới Ngân hàng Nhà nước (nơi cấp phát tiền) trước ba ngày của
kỳ trả lương đó, để Ngân hàng có đủ thời gian kiểm soát và chuẩn bị phân phối
tiền, bảo đảm việc cấp phát được nhanh chóng.
Nếu không đủ
các chứng từ của cơ quan có thẩm quyền và duyệt xác nhận của cơ quan tài chính
thì mặc dù kế hoạch tiền lương tháng đó còn thừa. Ngân hàng cũng chỉ được cấp phát
theo số nhân viên hiện có của kỳ lương thứ hai cuối tháng trước.
Ví dụ: Hạn mức
chi quỹ tiền lương quý 4-1963 của bộ A được duyệt:
- Tháng 10:
100 người
- Tháng 11:
110 ---
- Tháng 12:
120 ---
Tháng 10-1963
Ngân hàng Nhà nước đã cấp phát tiền lương đủ cho 100 người, đến tháng 11-1963 bộ
A muốn xin cấp phát tiền lương cho 110 người như đã ghi trong hạn mức quý, thì
phải có đủ chứng từ của cơ quan có thẩm quyền quyết định bổ sung thêm 10 người
và duyệt xác nhận của cơ quan tài chính, nếu không, Ngân hàng chỉ cấp phát cho
100 người, là số có mặt lĩnh lương cuối tháng trước.
Ngược lại,
tuy hạn mức quý đã được duyệt rồi, nhưng do điều kiện nào đó mà số nhân viên
rút đi hoặc quỹ tiền lương rút đi so với hạn mức được duyệt thì đơn vị cũng phải
báo cáo cho cơ quan tài chính và Ngân hàng Nhà nước, để Ngân hàng giảm bớt cấp
phát tiền mặt; nếu trong thực tế có rút mà đơn vị vẫn lĩnh theo hạn mức được
duyệt, thì khi phát hiện ra, đơn vị đó phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
b) Bất kể vì
lý do nào, Ngân hàng Nhà nước cũng không được cấp phát vượt quá kế hoạch tiền
lương từng tháng, ghi trong hạn mức quý đã được duyệt, nếu chưa được cơ quan
tài chính xác nhận và thông báo lại hạn mức quỹ tiền lương.
c) Tiền lương
hàng tháng của các đơn vị nhất thiết phải phát làm 2 kỳ trừ một số trường hợp
như đã quy định trong thông tư số 13-TT-LB ngày 16-09-1961 của liên bộ Ngân
hàng – Tài chính.
Tiền lương của
tháng nào phải thanh toán dứt khoát tháng đó, tránh tình trạng để hai, ba tháng
mới thanh toán một lần dễ sinh ra nhầm lẫn.
2. Giám đốc
và kiểm tra thực hiện:
a) Giám đốc
và kiểm tra việc thực hiện chi tiêu quỹ tiền lương và các chi tiêu khác có liên
quan đến chi tiêu quỹ tiền lương ở mỗi cơ quan, mỗi cấp, chủ yếu là nhiệm vụ của
thủ trưởng cơ quan và cấp đó.
Ít nhất mỗi
quý một lần, thủ trưởng cơ quan phải tiến hành kiểm tra việc chấp hành các
chính sách, chế độ quản lý và việc thực hiện các chi tiêu quỹ tiền lương của
đơn vị mình, nhằm tăng cường công tác quản lý của đơn vị và thúc đẩy công tác
giám đốc, kiểm tra đối với các đơn vị trực thuộc.
Các bộ phận
tài vụ và kế toán của mỗi cơ quan là những đơn vị công tác chuyên môn có nhiệm
vụ phục vụ thủ trưởng cơ quan trong công tác lập, quản lý và theo dõi việc thực
hiện kế hoạch quỹ tiền lương của cơ quan mình, và làm các báo cáo định kỳ, và bất
thường về thực hiện chỉ tiêu lao động, quỹ tiền lương gửi cơ quan tài chính
cùng cấp.
b) Cơ quan
tài chính có nhiệm vụ giám đốc và kiểm tra việc chi tiêu quỹ tiền lương của các
cơ quan, các cấp nhằm bảo đảm thực hiện đúng đắn các chính sách, chế độ và thực
hành tiết kiểm chi tiêu quỹ tiền lương; thúc đẩy việc giám đốc, kiểm tra của
các cơ quan, các cấp và giiúp các cơ quan, các cấp cải tiến và nâng cao trình độ
nghiệp vụ quản lý quỹ tiền lương.
Trong khi xét
duyệt dự, quyết toán và kiểm tra, thẩm kê tại chỗ, nếu cần, cơ quan tài chính
được phép xem xét tất cả các tài liệu, chứng từ có liên quan đến việc chỉ tiêu
quỹ tiền lương của các đơn vị (trừ một số đơn vị có tính chất cơ mật của Nhà nước
sẽ có quy định riêng).
3. Chế độ
báo cáo định kỳ về thực hiện hạn mức và chỉ tiêu quỹ tiền lương:
a) Sau khi
chi quỹ tiền lương, hàng tháng và cả năm, các đơn vị dự toán phải làm báo cáo
tình hình thực hiện hạn mức và chỉ tiêu quỹ tiền lương đính kèm với quyết toán
tháng và tổng quyết toán cả năm của đơn vị mình để gửi tới cơ quan tài chính
cùng cấp.(6) (7)
Hàng quý và cả
năm, các sở, ty Tài chính phải tổng hợp báo cáo của các đơn vị dự toán cấp mình
để báo cáo ủy ban hành chính cùng cấp và bộ Tài chính.
Nếu đến thời
hạn (đã ghi rõ trong mẫu báo cáo) mà cơ quan tài chính chưa nhận được, hoặc nhận
chưa đủ các báo cáo, hoặc báo cáo không đúng mẫu như đã quy định, thì thi hành
như đoạn 5 điểm B mục IV của thông tư 36-TTg ngày 07-05-1963 của Thủ tướng
Chính phủ đã quy định: “sau khi đã báo cáo thủ trưởng đơn vị dự toán biết trước
ít nhất một tuần lễ và trình Thủ tướng Chính phủ (nếu là đơn vị dự toán trung
ương) hay ủy ban hành chính cùng cấp (nếu là đơn vị dự toán địa phương) cơ quan
tài chính có thể hoãn cấp phát phần phụ cấp lương không có tính chất thường
xuyên: phụ cấp làm thêm giờ, phụ cấp giảng bài, phụ cấp đi công tác lưu động
v.v… cho đến khi nhận được đủ các báo cáo”.
4. Chế độ
kỷ luật đối với việc chi sai chế độ quản lý và chính sách tiền lương (điểm 3 mục
B, phần IV thông tư 36-TTg).
- Nếu ra lệnh
chi sai chế độ, chính sách như: tự động chi vượt quỹ tiền lương; tự động tăng
lương, điều chỉnh, đề bạt không đúng chính sách, lấy quỹ tiền lương, chi vào việc
khác chưa được Chính phủ quy định v.v… mà việc vi phạm đó mới là lần đầu, chưa
gây lãng phí lớn về mặt tài chính, thì cơ quan tài chính phải đình chỉ ngay việc
cấp phát đối với những khoản chi dự toán không đúng chính sách, chế độ đó. Đồng
thời phải ra lệnh thu hồi trả lại công quỹ số tiền đã chi không đúng chính sách
chế độ; nếu vì lý do nào đó mà không thu hồi được hoặc thu hồi không đủ thì người
ra lệnh chi sai phải bồi thường đầy đủ cho công quỹ số tiền mà mình đã ra lệnh
chi. Mặt khác, cơ quan tài chính phải ghi những nhận xét về vi phạm chế độ,
chính sách vào thông tri duyệt y quyết toán để báo cho thủ trưởng đơn vị đó kiểm
điểm rút kinh nghiệm.
- Nếu những
vi phạm trên, xẩy ra nhiều lần, biểu hiện ý thức không tôn trọng chế độ, nguyên
tắc đã được Chính phủ quy định, gây thiệt hại cho công quỹ, thì ngoài việc đình
chỉ cấp phát và thu hồi số tiền đã chi sai như đã nói trên, cơ quan tài chính
còn phải tiến hành kiểm tra tại chỗ để thu thập tình hình, đánh giá mức độ sai
phạm để làm báo cáo đề nghị hình thức kỳ luật lên ủy ban hành chính (nếu là đơn
vị dự toán địa phương) hay Thủ tướng Chính phủ (nếu là đơn vị dự toán trung
ương) quyết định.
- Trường hợp
thủ trưởng cơ quan, đơn vị hay ủy ban hành chính ra lệnh chi không đúng như đã
nói trên, mà trường phòng tài vụ, kế toán, kế toán viên hay giám đốc , ty trưởng
các sở, ty Tài chính không tích cực đề bạt ý kiến của mình, cuối cùng cũng
không đòi lệnh chi viết, không báo cáo lên cơ quan tài chính cấp trên mà cứ xuất
chi thì cũng phải chịu trách nhiệm cùng với thủ trưởng cơ quan bồi thường công
quỹ những khoản đã chi sai và phải chịu kỷ luật về mặt hành chính như đã nói ở
trên.
III. THỜI HẠN
THI HÀNH
Để các cơ
quan, các cấp có đủ thời gian phổ biến và hướng dẫn các đơn vị trực thuộc quán
triệt đầy đủ tinh thần thông tư quy định chế độ quản lý và kiểm soát chi tiêu
quỹ tiền lương của Thủ tướng Chính phủ và thông tư hướng dẫn thi hành của bộ
Tài chính, việc lập, xét duyệt và chấp hành chi tiêu quỹ tiền lương theo quy định
trong thông tư này, sẽ thi hành kể từ niên khoá 1964.
Nhận được
thông tư này, đề nghị các bộ, các cơ quan trung ương và ủy ban hành chính các
khu, thành phố, tỉnh nghiên cứu áp dụng và hướng dẫn các đơn vị trực thuộc thi
hành. Trong quá trình thực hiện, nếu có khó khăn trở ngại gì xin trao đổi với bộ
Tài chính để giải quyết…
(Mẫu số 1,2,
2b, 3, 4, 5, 6, 7 không đăng công báo).
|
K.T.
BỘ TRƯỞNG BỘ TÀI CHÍNH
THỨ TRƯỞNG
Trịnh Văn Bính
|
BẢNG PHỤ LỤC
ĐỊNH NGHĨA SỐ DANH TỪ TRONG THÔNG TƯ SỐ 27-TC-VX NGÀY
05-12-1963 CỦA BỘ TÀI CHÍNH
1. Nhân
viên thường xuyên đã được ghi vào kế hoạch lao động của Nhà nước.
Là những nhân
viên đã được tuyển dụng vào biên chế của cơ quan để làm các công việc có tính
chất thường xuyên lâu dài không kể thời hạn, đã được cơ quan có thẩm quyền duyệt
cho mỗi đơn vị trong từng năm kế hoạch như: cán bộ lãnh đạo, cán bộ nghiên cứu,
nghiệp vụ, kỹ thuật, nhân viên văn thư, quản trị, kế toán, thủ kho v.v… (trong
đó kể cả những nhân viên tập sự, hợp đồng phụ động lâu ngày đang làm những công
việc có tính chất thường xuyên lâu dài nhưng chưa được chính thức tuyển dụng
vào biên chế của cơ quan).
2. Nhân
viên thường xuyên và tạm thời chưa được ghi vào kế hoạch lao động của Nhà nước:
Là số nhân
viên:
- Đã được tuyển
dụng vào biên chế của cơ quan Nhà nước đang làm một số công việc có tính chất
thường xuyên lâu dài như: cấp dưỡng, giữ trẻ, khảo sát thiết kế chưa trực tiếp
phục vụ cho đối tượng công trình, nhưng chưa được ghi vào kế hoạch lao động của
Nhà nước.
- Được thuê
mượn trong thời gian nhất định để làm một số công việc có tính chất thời vụ,
theo mùa ở các trại nghiên cứu thí nghiệm, các đoàn, đội thăm dò địa chất, hoặc
phục vụ cho các đợt công tác điều tra, thống kê, sửa chữa cơ quan hay làm những
việc linh tinh đột xuất khác.
3. Lương cấp
bậc và phụ cấp lương:
- Lương cấp bậc
là phần tiền trả cho nhân viên theo bậc lương mà họ đã được sắp xếp trong các
thang, bảng, mức lương do Nhà nước quy định.
Ví dụ: Giám đốc
loại một của cơ quan trung ương; bậc 1: 140đ, bậc 2: 150đ, bậc 3: 160đ, cán sự
3: 64đ, cán sự 4: 73đ v.v…
- Phụ cấp lương
là khoản tiền trả thêm ngoài lương cấp bậc cho nhân viên theo các chế độ đã được
Nhà nước quy định là phụ cấp lương.
Ví dụ: phụ cấp
khu vực, phụ cấp lái xe, phụ cấp làm việc ở nơi có hại sức khỏe, phụ cấp hiệu
trưởng, phụ cấp làm thêm giờ, phụ cấp thường trực của y tế v.v…
4. Các cơ
quan các ngành thuộc khu vực không sản xuất của Nhà nước bao gồm:
Các cơ quan
quản lý Nhà nước, các cơ quan của Đảng, các tổ chức chính trị và xã hội, và các
cơ quan sự nghiệp (giáo dục, y tế, văn hóa v.v…) từ cấp huyện, thị xã, và các
khu phố trực thuộc thành phố trở lên. Theo quy định của Hội đồng Chính phủ.
(nghị định 82 CP ngày 03-06-1963) thì khu vực không sản xuất của Nhà nước hiện
nay gồm có các ngành sau đây:
1. Ngành phục
vụ công cộng và phục vụ sinh hoạt.
2. Ngành vận
tải, bưu điện và liên lạc phục vụ đời sống nhân dân và phục vụ các ngành không
sản xuất.
3. Ngành y tế,
thể dục thể thao, bảo hiểm xã hội.
4. Ngành giáo
dục, văn hóa; nghệ thuật.
5. Ngành khoa
học và công tác phục vụ khoa học.
6. Ngành tín
dụng và cơ quan bảo hiểm Nhà nước.
7. Ngành các
cơ quan quản lý Nhà nước, các cơ quan của Đảng, các tổ chức chính trị và xã hội.
Tuy việc phân
ngành kinh tế quốc dân của khu vực không sản xuất đã được Nhà nước quy định như
trên, nhưng việc sắp xếp các đơn vị công tác và các cơ quan đoàn thể vào từng
ngành cụ thể thì phải tiến hành từng bước trong từng năm kế hoạch. Do đó, việc
tính toán lao động và tiền lương của mỗi cơ quan vào từng ngành cụ thể phải căn
cứ vaà sự hướng dẫn cụ thể của Ủy ban kế hoạch Nhà nước và Tổng cục thống kê
trong từng năm kế hoạch. Như vậy có nghĩa là trước mắt có thể còn có một số đơn
vị do điều kiện nào đó nên chưa thể ghi vào khu vực không sản xuất như quy định
trên đây của Nhà nước.
Ví dụ: Về
nguyên tắc theo quy định của Hội đồng Chính phủ về việc phân định ngành nghề
kinh tế quốc dân thì ngành vận tải, bưu điện, liên lạc phục vụ đời sống nhân
dân và các ngành không sản xuất là thuộc khu vực không sản xuất. Nhưng do điều
kiện hiện nay ta chưa tách ra được, do đó phần tiền lương và lao động của hai
ngành trên vẫn tạm thời tính vào chi tiêu lao động tiền lương khu vực sản xuất
mà chưa chuyển sang chi tiêu lao động tiền lương của khu vực không sản xuất.
5. Chữ
“ngành” nói trong phạm vi quản lý quỹ tiền lương là theo nội dung của sự phân
ngành nghề kinh tế quốc dân như đã giải thích ở điểm 4 trên. Ví dụ: Trong một
đơn vị dự toán, bộ Giáo dục chẳng hạn, có ngành giáo dục (các trường đại học,
trường sư phạm…), và ngành cơ quan quản lý Nhà nước (các vụ, viện, ban trực thuộc
bộ và văn phòng bộ) v.v… nó khác với chữ “ngành” thường dùng để chỉ một đơn vị
chung từ trung ương đến địa phương gồm có bộ, sở, ty, phòng….