BỘ
LAO ĐỘNG-BỘ NỘI VỤ
******
|
VIỆT
NAM
DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
18-TT/LB
|
Hà
Nội, ngày 18 tháng 10 năm 1961
|
THÔNG TƯ
HƯỚNG DẪN THI HÀNH CHỈ THỊ SỐ 126/TTG NGÀY 01-4-1961 CỦA PHỦ
THỦ TƯỚNG VỀ VIỆC CẢI TIẾN CHẾ ĐỘ GỬI TRẺ CỦA NỮ CÔNG NHÂN, NỮ VIÊN CHỨC
BỘ TRƯỞNG BỘ LAO ĐỘNG - BỘ TRƯỞNG BỘ NỘI VỤ
Kính gửi:
|
- Các Bộ, cơ quan, đoàn thể
trung ương
- Các Ủy ban hành chính khu, thành, tỉnh
|
Phủ Thủ tướng đã ra Chỉ thị số
126/TTg ngày 01-4-1961
cải tiến chế độ gửi trẻ. Nay Liên bộ quy định chi tiết, giải thích và hướng dẫn
việc thi hành như sau:
I. CÁC HÌNH
THỨC GỬI TRẺ VÀ ĐIỀU KIỆN THU NHẬN TRẺ
Tổ chức nhà trẻ cần sát với hoàn
cảnh công tác, sản xuất của nữ công nhân, nữ viên chức và thích hợp với điều kiện
sinh hoạt của trẻ.
Do đó có hai hình thức gửi trẻ:
1. Gửi trẻ theo giờ làm việc:
Tổ chức nhà trẻ theo giờ làm việc
nhằm đảm bảo cho các người mẹ yên tâm công tác, sản xuất trong giờ làm việc. Hết
giờ làm việc người mẹ đón con về. Ở bệnh viện, nhà trẻ có trách nhiệm trông trẻ
cho cả những nữ công nhân, nữ viên chức trực nhật ngoài giờ làm việc chung. Ở
các xí nghiệp làm việc theo ca, kíp, thì nhà trẻ phải tổ chức việc gửi trẻ theo
ca, kíp.
Những cơ quan, xí nghiệp sử dụng
nhiều nữ công nhân, nữ viên chức, nếu nhà trẻ ở xa nơi làm việc mà có từ 6 trẻ
con đang bú sữa mẹ trở lên, thì cần tổ chức riêng một nhà trẻ cho loại này ở gần
hoặc ở trong cơ quan, xí nghiệp để thực hiện chế độ giờ nghỉ cho con bú đã được
quy định, đảm bảo sức khỏe cho trẻ đồng thời đảm bảo thời gian sản xuất, công
tác của người mẹ.
2. Gửi trẻ thường xuyên:
Tổ chức gửi trẻ thường xuyên là
nhằm bảo đảm việc trông nom trẻ cho những nữ công nhân, nữ nhân viên chức do
yêu cầu công tác phải đi về các cơ sở, các địa phương một thời gian, mà hàng
ngày gia đình không có điều kiện đưa con đến nhà gửi trẻ theo giờ làm việc để
sau đó lại đón con về. Thời gian được gửi con thường xuyên là suốt thời gian
người mẹ đi công tác xa, vắng nhà.
Tùy theo tình hình mỗi nơi, một
nhà trẻ có thể đảm nhiệm cả hai hình thức gửi trẻ: gửi trẻ theo giờ và gửi trẻ
thường xuyên, không nhất thiết tổ chức hai nhà trẻ riêng cho hai hình thức gửi
trẻ.
Trong việc tổ chức nhà trẻ cần
phối hợp giữa các cơ quan, xí nghiệp ở gần nhau mà tổ chức nhà trẻ liên cơ quan
gửi theo giờ làm việc hay thường xuyên, không bó hẹp trong phạm vi từng đơn vị
như trước. Nữ công nhân, nữ viên chức được gửi con ở nhà trẻ của cơ quan, xí
nghiệp nào thuận tiện nhất cho việc đưa đón con, không nhất thiết làm việc ở
đơn vị nào thì phải gửi con ở nhà trẻ của đơn vị ấy.
Đặc biệt những cơ quan ở xa
nhau, không thể tổ chức nhà trẻ liên cơ quan được, thì có thể tổ chức nhà trẻ
riêng, nếu có ít nhất 4 trẻ dưới 18 tháng, hoặc 8 trẻ trên 18 tháng đến 36
tháng.
3. Thì giờ làm việc của nhà trẻ:
Nhà trẻ phải tổ chức việc trông
trẻ theo giờ làm việc của các người mẹ, ngày hai buổi, hoặc theo ca kíp kể cả
giờ làm việc ban đêm.
Nhà trẻ cần phân công nhân viên
công tác nhà trẻ đến trước giờ làm việc của các người mẹ để đảm bảo cho các người
mẹ sau khi gửi con còn có đủ thì giờ cần thiết đi tới nơi làm việc được đúng giờ.
Và khi hết giờ thì nhà trẻ cũng phải phân công nhân viên ở lại một thời gian để
cho các người mẹ đến đón con. Thời gian đến sớm, về muộn để đảm bảo việc giao
và nhận trẻ như vậy coi là chế độ công tác, không có phụ cấp thêm giờ. Mỗi cơ
quan, xí nghiệp sẽ quy định thì giờ đi sớm về muộn cho các nhân viên công tác
nhà trẻ cho sát.
4. Điều kiện thu nhận trẻ:
Con của nữ công nhân, nữ viên chức
từ 36 tháng trở xuống được thầy thuốc chứng nhận không có bệnh truyền nhiễm thì
được xét để thu nhận vào các nhà gửi trẻ.
II. ĐỐI TƯỢNG
ĐƯỢC XÉT ĐỂ GỬI CON VÀ MỨC ĐÓNG GÓP
1. Đối tượng được xét:
a) Những người được gửi con vào
nhà trẻ theo giờ làm việc:
- Nữ công nhân, nữ viên chức
trong biên chế làm việc ở các cơ quan, xí nghiệp, công trường, nông trường, lâm
trường.
- Nữ công nhân, nữ viên chức
ngoài biên chế làm việc thường xuyên liên tục, nữ công nhân học nghề theo lối
kèm cặp ở các xí nghiệp, nữ công nhân, nữ viên chức trong thời gian tập sự.
- Nữ công nhân, viên chức được cử
đi học các lớp đào tạo hoặc bổ túc.
- Công nhân, viên chức vợ chết,
phải trực tiếp nuôi con.
Vì khả năng tổ chức, phát triển
nhà trẻ có hạn, chưa cho phép thu nhận tất cả các trẻ dưới 36 tháng của những nữ
công nhân, nữ viên chức nói trên, nên phải xét và ưu tiên thu nhận con của những
người có trách nhiệm nặng trong công tác, trong sản xuất, con của những người
có thái độ lao động tốt, tích cực công tác, sản xuất và con của những người có
hoàn cảnh khó khăn. Riêng những trẻ đã được gửi từ trước khi ra thông tư này
thì vẫn tiếp tục được gửi và những trẻ trước đã được hưởng chế độ trợ cấp 3đ50,
7đ00 nay bỏ khoản trợ cấp này, cũng được ưu tiên thu nhận vào nhà trẻ không phải
xét.
b) Chỉ trong những trường hợp
con của nữ công nhân, nữ viên chức đi công tác xa hoặc ốm đau nặng trong thời kỳ
cấp tính mà người chồng công tác ở địa phương khác không có điều kiện trông nom
thay thì mới được gửi vào nhà trẻ thường xuyên.
2. Mức đóng góp của người gửi
con:
Chế độ gửi trẻ đã được cải tiến,
chuyển từ hình thức cung cấp sang hình thức phúc lợi tập thể nhằm phát triển rộng
rãi các tổ chức gửi trẻ để đông đảo nữ công nhân, nữ viên chức có nơi gửi con.
Do đó ngoài phần chi tiêu do Nhà nước đài thọ, nữ công nhân, nữ viên chức có
con gửi nhà trẻ có trách nhiệm đóng góp một phần. Mức đóng góp đã được quy định
cụ thể trong Chỉ thị số 126/TTg của Phủ Thủ tướng.
- Gửi 1 con đóng 2 đồng một
tháng.
- Gửi 2 hoặc 3 con thì đóng mỗi
con 1đ50 một tháng.
Mức đóng góp này áp dụng thống
nhất cho cả hai hình thức gửi trẻ theo giờ làm việc và gửi trẻ thường xuyên.
Trường hợp được miễn hoặc giảm:
Những nữ công nhân, nữ viên chức hoàn cảnh quá khó khăn túng thiếu sẽ được cơ
quan, xí nghiệp phối hợp với công đoàn xét và có thể được giảm ½ hoặc toàn phần
tiền đóng góp. Những người được miễn hoặc giảm phải là những người có mức thu
nhập bình quân đầu người trong gia đình thấp hơn mức quy định trong chế độ trợ
cấp cho gia đình công nhân, viên chức gặp khó khăn hiện hành, và khi xét việc
miễn hoặc giảm, cơ quan, xí nghiệp cần lưu ý đảm bảo được quan hệ tốt giữa người
vừa được trợ cấp khó khăn vừa được miễn hoặc giảm tiền gửi trẻ với những người
tuy có khó khăn mà chưa đến mức được trợ cấp khó khăn.
Đặc biệt những trường hợp đẻ
sinh đôi, sinh ba thì những trẻ ấy được gửi vào nhà trẻ và miễn đóng góp.
III. ĐIỀU KIỆN
TUYỂN DỤNG, QUYỀN LỢI VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA NHÂN VIÊN GIỮ TRẺ
1. Tuyển dụng và bồi dưỡng nghiệp
vụ:
Việc tuyển dụng nhân viên giữ trẻ
phải thi hành theo chế độ và điều kiện tuyển dụng công nhân, viên chức nói
chung của Nhà nước. Nhưng cần chú ý những điểm:
- Tư cách, đạo đức tốt;
- Sức khỏe đảm bảo, không có bệnh
truyền nhiễm;
- Yêu nghề.
Nhân viên mới được tuyển dụng
làm công tác giữ trẻ phải qua một lớp huấn luyện ngắn ngày về nghiệp vụ giữ trẻ.
Những nhân viên hiện đang công
tác ở nhà trẻ sẽ được tổ chức học tập nghiệp vụ tại chức theo chương trình do Bộ
Y tế hướng dẫn.
Đối với những người đang làm
công tác giữ trẻ, nếu thiếu các điều kiện cần thiết về mặt tuyển dụng như đã
nói trên, thì cơ quan, xí nghiệp không nên để làm công tác giữ trẻ nữa, và nên
chuyển làm công tác khác thích hợp. Trường hợp đặc biệt mới phải cho thôi việc.
2. Quyền lợi:
Nhân viên giữ trẻ được hưởng mọi
quyền lợi vật chất, tinh thần như các công nhân, viên chức khác của Nhà nước.
3. Trách nhiệm:
a) Nhân viên giữ trẻ có trách
nhiệm phục vụ theo tiêu chuẩn:
- Đối với các nhà trẻ tập trung
đông trẻ: mỗi nhân viên phục vụ ít nhất 6 trẻ dưới 18 tháng, hoặc ít nhất 12 trẻ
từ 18 tháng đến 36 tháng.
-Đối với các nhà trẻ chỉ có ít
trẻ: mỗi nhân viên phục vụ ít nhất 4 trẻ dưới 18 tháng, hoặc ít nhất 8 trẻ từ
18 tháng đến 36 tháng.
Nếu tính chung trẻ lớn (từ 18
tháng đến 36 tháng), và trẻ bé (dưới 18 tháng) thì cứ 2 trẻ lớn được tính bằng
1 trẻ bé.
Tiêu chuẩn quy định trên đây là
cơ sở để bố trí số người giữ trẻ cần thiết. Nhưng trong thực tế số trẻ gửi vào
nhà trẻ có trường hợp không đúng số trẻ đã quy định. Gặp trường hợp đó thì giải
quyết như sau:
- Đối với các nhà trẻ có dưới 4
người trông nom thì chỉ khi số trẻ lẻ quá nửa số quy định của 1 người mới được
bố trí thêm 1 người trông.
- Đối với các nhà trẻ có từ 5
người trông nom trở lên, nếu chưa có đủ số trẻ như đã quy định thì không bố trí
thêm người trông nom, mà động viên chị em cố gắng tăng hiệu suất công tác để
trông nom thêm số trẻ lẻ đó.
Các nhà trẻ có từ 30 đến 50 trẻ
thì được phân công 1/2 người làm công tác phụ trách chung nhà trẻ. Nhà trẻ có
trên 50 trẻ thì được bố trí thêm 1 người để phụ trách chung.
Tiêu chuẩn quy định trên đây bao
gồm các công việc phục vụ trong nhà trẻ, kể cả việc làm vệ sinh và nấu thức ăn
cho trẻ.
b) Để đảm bảo sức khỏe cho trẻ
và đảm bảo việc nuôi dạy trẻ theo phương pháp khoa học, tập thể, nhân viên công
tác nhà trẻ có nhiệm vụ:
- Cho trẻ ăn, ngủ đúng giờ, nấu
ăn cho trẻ đảm bảo vệ sinh và tùy theo từng lứa tuổi, nơi nào có điều kiện thì
cho trẻ ăn theo thực đơn của thầy thuốc.
- Tập cho trẻ những thói quen tốt:
giữ vệ sinh, trật tự, biết vâng lời, thương yêu bạn…
- Giặt tã lót và đồ dùng của trẻ
dưới 1 năm.
- Tắm rửa cho trẻ.
- Hướng dẫn trẻ chơi.
- Theo dõi sức khỏe và chăm sóc
trẻ khi ốm đau thường.
Đối với những nhà trẻ có ít trẻ,
có ít nhân viên nên việc phân công lao động có khó khăn, thì có thể tùy tình
hình cụ thể giảm bớt một số nhiệm vụ cho nhân viên giữ trẻ, như tắm rửa, giặt
giũ hay chuẩn bị thức ăn.
4. Việc chăm sóc sức khỏe cho trẻ:
Đối với các nhà trẻ có từ 100 trẻ
trở xuống thì y tá cơ quan, xí nghiệp kiêm nghiệm việc chăm sóc sức khỏe cho trẻ.
Đối với nhà trẻ liên cơ quan thì Ủy ban hành chính địa phương chỉ định y tá cơ
quan gần nhà trẻ chịu trách nhiệm trông nom sức khỏe cho tất cả các trẻ của nhà
trẻ liên cơ quan.
Những nhà trẻ có trên 100 trẻ
thì được bố trí riêng một y tá.
IV. XÂY DỰNG
TRANG BỊ CÁC NHÀ TRẺ VÀ VẤN ĐỀ KINH PHÍ
1. Khi xây dựng xí nghiệp hay
nhà ở cho công nhân, viên chức, phải tùy theo số nữ công nhân, nữ viên chức sẽ
có mà xây dựng nhà trẻ.
Nhà trẻ phải cao ráo, sạch sẽ,
thoáng mát, xa hố xí, chuồng súc vật, phải có phòng cách ly, có bếp, sân chơi
và thuận tiện trong việc lấy nước để tắm rửa, giặt giũ cho trẻ.
Đề nghị Bộ Kiến trúc phối hợp với
Bộ Y tế để hướng dẫn quy cách xây dựng nhà trẻ cho thích hợp với việc nuôi dạy
trẻ.
Hàng năm cơ quan, xí nghiệp sẽ
tùy theo khả năng của mình và căn cứ vào số trẻ còn chưa được gửi mà lập kế hoạch
xin dự trù kinh phí xây dựng thêm nhà trẻ. Đối với nhà trẻ theo giờ làm việc
bình quân mỗi trẻ được từ 1m250 đến 2m2. Đối với nhà trẻ
thường xuyên thì bình quân mỗi trẻ từ 2m2 đến 2m250 không
kể nhà bếp, nhà tắm, sân chơi. Diện tích trên đây là quy định cho các nhà trẻ sẽ
xây dựng. Còn đối với các nhà trẻ hiện có thì phải tùy hoàn cảnh cụ thể của mỗi
cơ quan, mỗi địa phương mà giải quyết.
2. Trang bị:
Việc trang bị nhà trẻ, cũng như
việc xây dựng nhà trẻ phải căn cứ vào tinh thần nghị quyết của Hội đồng Chính
phủ là phải thiết thực, đơn giản, tiết kiệm, tùy theo hoàn cảnh và khả năng thực
tế mà giải quyết dần dần, tránh hình thức, lãng phí.
Nhưng mỗi nhà trẻ tối thiểu cũng
cần có những dụng cụ, phương tiện sau đây: giường, cũi, chạn để thức ăn để đảm
bảo vệ sinh, chậu rửa mặt, chậu tắm, bô đi ỉa (có một vài bô dùng riêng cho trẻ
cần cách ly).
3. Kinh phí:
a) Tiền xây dựng, trang bị và sửa
chữa nhà trẻ: do quỹ kiến thiết cơ bản đài thọ.
b) Những chi phí thường xuyên
như: lương, các khoảng chi về bảo hiểm xã hội và trợ cấp xã hội cho nhân viên
nhà trẻ do quỹ xã hội (phần chi về trợ cấp xã hội) đài thọ. Các cơ quan, xí
nghiệp phải đảm bảo chi trong tỷ lệ đã quy định để khỏi vượt quá dự toán quỹ xã
hội của Nhà nước.
c) Đối với nhà trẻ liên cơ quan:
Những chi phí thường xuyên sẽ
phân bổ cho các cơ quan, xí nghiệp theo tỷ lệ số trẻ của các nơi ấy gửi.
Những xí nghiệp có quỹ phúc lợi
sẽ trích một phần để chi thêm như để mở rộng nhà trẻ, sửa chữa, trang bị chống
nóng, chống rét, mua thêm đồ chơi v.v…
d) Tiền ăn cho trẻ:
Nhà trẻ quy định mức đóng tiền
ăn cho trẻ tùy theo lứa tuổi, tùy theo địa phương. Nhà trẻ cần bàn với người gửi
con để định mức đóng góp cho thích hợp, vừa bảo đảm sức khỏe cho trẻ, vừa hợp với
khả năng người gửi con.
V. VIỆC LÃNH
ĐẠO VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC CƠ QUAN ĐỐI VỚI NHÀ TRẺ
1. Các Bộ, các cơ quan trung
ương và các Ủy ban hành chính địa phương lãnh đạo thực hiện chế độ gửi trẻ, đôn
đốc các cơ quan, xí nghiệp tổ chức và phát triển nhà trẻ. Ủy ban hành chính địa
phương sẽ căn cứ vào tình hình cụ thể các cơ quan, xí nghiệp mà hướng dẫn tổ chức
các nhà gửi trẻ liên cơ quan, hoặc giao trách nhiệm cho một cơ quan có điều kiện
thuận lợi nhất thay mặt Ủy ban đứng ra tổ chức các nhà trẻ này.
2. Tổng công đoàn kiểm
tra, đôn đốc giám sát việc thực hiện chế độ nhà trẻ, đồng thời vận động, giáo dục
công nhân, viên chức chấp hành tốt chế độ nhà trẻ.
Các Công đoàn cơ sở tham gia tổ
chức, lãnh đạo công tác nhà trẻ và giáo dục tư tưởng cho nhân viên giữ trẻ đồng
thời tham gia ý kiến xây dựng chương trình, kế hoạch phát triển và cải tiến
công tác nhà trẻ.
3. Bộ Y tế đảm nhiệm việc đào tạo
và bồi dưỡng nghiệp vụ cho nhân viên giữ trẻ, hướng dẫn công tác vệ sinh phòng
bệnh và chăm sóc sức khỏe cho trẻ.
4. Các cơ quan, xí nghiệp có
trách nhiệm thi hành đầy đủ các quy định về chế độ gửi trẻ và phối hợp với công
đoàn để tổ chức, lãnh đạo và quản lý nhà trẻ.
VI. TRỢ CẤP TIỀN
Các hình thức gửi trẻ nói trên
đã chú ý đến hoàn cảnh, điều kiện công tác của nữ công nhân, nữ viên chức.
Nhưng riêng đối với số nữ công
nhân, nữ viên chức ở những đơn vị công tác không có nơi gửi con thường xuyên mà
phải đi công tác lưu động thì chị em còn gặp nhiều khó khăn trong việc chăm sóc
con. Do đó để giúp đỡ chị em một phần trong việc trôm nom con trong thời gian
đi công tác lưu động vắng nhà, nay quy định chế độ trợ cấp bằng tiền như sau:
Nữ công nhân, nữ viên chức có
con dưới 36 tháng, trong thời gian đi công tác lưu động mà cơ quan không có tổ
chức gửi trẻ thường xuyên, hoặc chị em cũng không có thể tiếp tục gửi con vào
nhà trẻ theo giờ làm việc được vì không có người nhà trông nom sau giờ làm việc
thì được trợ cấp:
- Nếu thời gian đi công tác lưu động
trọn cả tháng, thì mỗi trẻ dưới 36 tháng được trợ cấp 7 đồng;
- Nếu thời gian đi công tác dưới
một tháng thì cứ mỗi ngày đi công tác, mỗi trẻ dưới 36 tháng được trợ cấp 0đ25.
Chế độ trợ cấp bằng tiền (3đ50,
7 đồng) quy định trước đây trái với thông tư này nay hủy bỏ.
VII. GỬI TRẺ
NGOÀI GIỜ LÀM VIỆC
Ngoài những hình thức gửi trẻ
nói trên do cơ quan, xí nghiệp phụ trách, công đoàn của cơ quan, xí nghiệp nên
hướng dẫn, giúp đỡ nhà trẻ tổ chức việc nhận trẻ buổi trưa, buổi tối để đảm bảo
cho nữ công nhân, nữ viên chức có thì giờ học tập, sinh hoạt, hoặc để giúp đỡ
chị em khi ốm đau.
Tiền thuê người trôm nom trẻ
ngoài giờ hoàn toàn do các người mẹ gửi con đóng góp.
Thông tư này có hiệu lực kể từ
ngày ban hành. Những quy định trước trái với thông tư này đều hủy bỏ.
Trong khi thi hành, các Bộ, các
ngành gặp mắc mứu, khó khăn gì đề nghị phản ảnh để Liên bộ Nghiên cứu góp ý kiến
giải quyết.
K.T.
BỘ TRƯỞNG BỘ NỘI VỤ
THỨ TRƯỞNG
Lê Tất Đắc
|
K.T.BỘ
TRƯỞNG BỘ LAO ĐỘNG
THỨ TRƯỞNG
Nguyễn Đăng
|