BỘ
THUỶ LỢI
******
|
VIỆT
NAM
DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
16-TT/TL
|
Hà
Nội, ngày 04 tháng 05 năm 1959
|
THÔNG TƯ
HƯỚNG DẪN VIỆC MUA SẮM, SỬ DỤNG VÀ BẢO QUẢN CÁC KHOẢN TRANG
BỊ BẢO HỘ LAO ĐỘNG
Để ngăn ngừa những hiện tượng
nguy hiểm có thể gây ra tai nạn lao động và để giảm bớt những ảnh hưởng tai hại
do điều kiện vật lý hoặc do phải tiếp xúc với các loại hơi độc, chất độc, bụi bậm
dơ bẩn, có hại đến sức khỏe trong khi làm việc, thì một mặt phải thường xuyên
giáo dục nâng cao nhận thức về an toàn kỹ thuật, vệ sinh công nghiệp và vệ sinh
thường thức cho cán bộ, công nhân; nhưng mặt khác mà cũng là một biện pháp cần
thiết phải cung cấp các khoản trang bị cần thiết để cán bộ, công nhân dùng
trong khi làm việc.
Bộ đã ban hành Nghị định số
169-NĐ/TL ngày 21-4-1959 và Nghị định số 187-NĐ/TL ngày 4-5-1959 quy định thống
nhất chế độ trang bị bảo hộ lao động cho một số nghề cần thiết trong ngành Thủy
lợi, nhưng nếu không có trách nhiệm đầy đủ trong việc mua sắm, sử dụng và bảo
quản trang bị thì sẽ tốn nhiều tiền của nhân dân mà tác dụng bảo hộ lao động vẫn
bị hạn chế hoặc có khi ngược lại còn gây trở ngại trong khi làm việc.
Bộ hướng dẫn một số điểm cụ thể
như sau:
1. Cần thống
nhất những nhận thức cơ bản về trang bị bảo hộ lao động.
Trang bị bảo hộ lao động là một
trong những biện pháp cần thiết để bảo vệ sức khỏe và tính mạng của cán bộ,
công nhân trong khi làm việc. Nhưng trang bị bảo hộ lao động không phải là một
điều kiện tất yếu có thể tiêu trừ mọi nguy cơ tai nạn lao động và bệnh tật
trong khi làm việc.
Mỗi nghề có một đặc tính riêng của
nó. Nắm được quy luật của nghề nghiệp, phát hiện được những nhân tố có hại
trong nghề nghiệp để xây dựng những biện pháp kỹ thuật, phương sách vệ sinh và
những cơ sở thiết bị đảm bảo nhất thì nhất định mới có đủ khả năng ngăn ngừa
tai nạn lao động và bệnh tật. Trang bị bảo hộ lao động sẽ đóng vai trò hỗ trợ
trong những trường hợp thật cần thiết mà các biện pháp kỹ thuật, các phương
sách vệ sinh và các cơ sở thiết bị còn chưa đủ đảm bảo an toàn.
Vì vậy, không nên quá thiên về mặt
trang bị mà coi nhẹ việc nâng cao nhận thức tư tưởng và những biện pháp kỹ thuật,
thiết bị… thích hợp với hoàn cảnh và điều kiện công tác của mỗi người trong mỗi
nghề. Và lại càng không nên cứ ỷ lại mong chờ cấp trên cấp phát trang bị, vì
trong hoàn cảnh nước ta chưa thể trang bị đầy đủ cho mọi ngành, mọi nghề một
cách hoàn thiện với những hình thức quy mô, mà mỗi người phải phát huy sáng kiến,
sử dụng những phương tiện thô sơ nhất, ít tốn tiền, để tự giải quyết những thứ
bản thân chúng ta có thể tự giải quyết được, miễn làm sao đạt được yêu cầu bảo
đảm vệ sinh công nghiệp và giảm bớt được nguy cơ tai nạn lao động. Nhà nước
cũng hết sức cố gắng để mua sắm những thứ trang bị thật cần thiết, cấu tạo phức
tạp, tốn nhiều tiền hoặc không thể sử dụng các phương tiện thô sơ mà làm nên được.
2. Nguyên tắc
về việc mua sắm, sử dụng vào bảo quản trang bị:
Trang bị bảo hộ lao động rất cần
thiết, nhưng nếu không có trách nhiệm đầy đủ trong việc mua sắm, sử dụng đúng
và bảo quản, thì nhiều khi tốn nhiều tiền nhưng tác dụng sẽ bị hạn chế hoặc có
khi ngược lại còn gây trở ngại cho cán bộ, công nhân trong khi làm việc. Vì vậy
Bộ nêu lên một số điểm gợi ý giúp các cơ quan, đơn vị nghiên cứu áp dụng như
sau:
a) Việc mua sắm trang bị:
Trước khi mua sắm trang bị, các
cơ quan, đơn vị cần dựa vào tổ chức Công đoàn, động viên tính tích cực sáng tạo
và nhiệt tình xã hội chủ nghĩa của công nhân, viên chức để bàn bạc kỹ kế hoạch
mua sắm trang bị, xác định rõ loại trang bị nào cơ quan, đơn vị phải xuất tiền
mua, loại trang bị nào anh chị em có thể tự làm được, chỉ cần cơ quan, đơn vị
giúp đỡ một phần về nguyên liệu hoặc một ít phương tiện cần thiết (kể cả tiền)
và loại nào anh chị em có khả năng hoàn toàn tự giải quyết lấy. Những trang bị
mà cơ quan, đơn vị phải xuất tiền mua thì cũng phải kết hợp với Công đoàn, cân
nhắc kỹ loại trang bị nào cần thiết cấp phát cho đơn vị, cho tổ, toán, đội công
tác, loại nào cần trang bị cho từng cá nhân, nắm vững nhu cầu từng loại, cần bao
nhiêu, mua bấy nhiêu, không cần mua sắm thừa để hư hỏng.
Nghị định số 187-NĐ/TL ngày
4-5-1959 của Bộ đã quy định các loại trang bị đối với từng loại công việc,
nhưng khi mua sắm trang bị, các cơ quan, đơn vị cần nghiên cứu nắm vững tính chất
của công việc, yêu cầu bảo vệ như thế nào, để khi mua về có thể dùng được, vừa
đảm bảo yêu cầu bảo vệ lao động, vừa gọn gàng thích hợp với động tác làm việc của
người sử dụng. Những nhân viên mua sắm trang bị bảo hộ lao động phải thông thạo
mặt hàng, nắm vững quy cách của các loại trang bị. Đối với những loại trang bị
chưa có quy cách nhất định, thì trước khi mua sắm phải lấy ý kiến anh chị em
công nhân, trước hết là những người sẽ sử dụng loại trang bị ấy, để anh chị em
bàn bạc phác họa hình thức trang bị phải như thế nào cho thích hợp, tuyệt đối
không nên tự ý mua sắm, nếu công nhân không dùng được sẽ gây lãng phí. Về phẩm
chất các loại trang bị cũng cần chọn lọc kỹ, có những loại trang bị tuy hình thức
thì giống nhau, nhưng do tính chất nghề nghiệp, nên phẩm chất trang bị có thể
khác nhau. Ví dụ: những công việc thường phải tiếp xúc với các loại hoá chất,
điện khí thì trang bị găng tay bằng cao su nhưng những công việc bốc đá hộc,
xây đá, bỏ kè v.v… thì phải sử dụng găng tay bằng bố mềm vừa bền mà vừa thuận
tiện cho công việc.
Vì vậy, trang bị bảo hộ lao động
phải hợp quy cách đồng thời bảo đảm phẩm chất, thích hợp với tính chất và đặc
điểm của từng nghề.
b) Việc sử dụng trang bị:
Nghị định số 187-NĐ/TL của Bộ
ngày 4-5-1959 đã quy định các loại trang bị và thời gian sử dụng từng loại. Thời
gian sử dụng như vậy, chỉ nên coi là tiêu chuẩn dự toán và để lãnh đạo việc sử
dụng bảo quản các thứ đã được trang bị cho tốt. Có thể những trường hợp trang bị
dùng vào việc này thì bền nhưng dùng vào việc khác thì chóng hỏng, chóng mục,
vì vậy, các cơ quan, đơn vị không nên lệ thuộc vào thời gian quy định mà không
cấp phát đủ cho công nhân dùng.
Trước khi cắt đặt công nhân làm
những công việc có tính chất nguy hiểm, hại sức khoẻ thuộc loại được trang bị bảo
hộ lao động, cơ quan đơn vị phải kiểm tra lại tình hình trang bị nếu trang bị
thiếu hay hư hỏng phải kịp thời bổ sung, sửa chữa. Các cơ quan, đơn vị cần thường
xuyên đôn đốc, kiểm tra, kiểm điểm việc cấp phát sử dụng trang bị bảo hộ lao động,
ngăn ngừa hiện tượng chủ quan, ngại khó không triệt để sử dụng trang bị, làm
cho việc sử dụng trang bị bảo hộ lao động trở thành thói quen trong khi làm việc.
Những người điều khiển sản xuất,
nếu vì thiếu trách nhiệm, không chăm lo đầy đủ đến vấn đề trang bị, để xảy ra
tai nạn hoặc để ảnh hưởng trầm trọng đến sức khoẻ của công nhân, cán bộ, tuỳ
theo lỗi nặng hay nhẹ sẽ được xử lý thích đáng. Đối với công nhân, cán bộ cũng
vậy, nếu làm những công việc đã có trang bị mà không triệt để sử dụng, tuỳ theo
tính chất khuyết điểm mà có biện pháp kỷ luật để giáo dục.
Những trường hợp vì thiếu trách
nhiệm, để hư hỏng, mất mát trang bị đã được cấp phát, thì trước hết đơn vị cũng
phải mua sắm lại để anh chị em có dùng nhưng đứng về mặt pháp lý thì tuỳ trường
hợp cụ thể, người làm hư hỏng mất mát trang bị phải đền bằng tiền hoặc bằng hiện
vật. Những trường hợp nói trên phải được cơ quan Công đoàn đồng cấp thống nhất
ý kiến trước khi chính quyền quyết định.
Đối với những người thuê mướn
làm việc tạm thời và đối với dân công phục vụ, nếu cơ quan, đơn vị sử dụng làm
những công việc nguy hiểm có hại nhiều đến sức khỏe, thì cơ quan, đơn vị có thể
cho mượn những trang bị cần thiết để dùng trong khi làm việc và hướng dẫn cho
anh chị em cách sử dụng. Những loại trang bị thường thức (khẩu trang, yếm che…)
thì hướng dẫn cho anh chị em tự mua sắm để dùng.
c) Việc bảo quản trang bị:
Trang bị cấp phát cho cá nhân
hay đơn vị đều là tài sản của Nhà nước. Nếu cấp phát cho cá nhân thì cá nhân có
trách nhiệm giữ gìn, giặt rũ, khâu vá. Nếu cấp phát cho đơn vị thì đơn vị phải
cắt cử người bảo quản.
Các cơ quan, đơn vị cần có sổ
sách kiểm kê, theo dõi các loại trang bị đã mua sắm cấp phát. Cá nhân hay đơn vị
được cấp phát phải làm biên nhận trang bị. Cơ quan cấp phát phải giữ biên lai
kèm với sổ kiểm kê. Những trang bị đã có sẵn cũng phải tiến hành kiểm kê lại và
tiến hành điều chỉnh trang bị để sử dụng thích hợp. Các cơ quan chủ quản phải
thường xuyên nắm vững nhu cầu trang bị của từng đơn vị, cần cái gì cấp phát cái
ấy, cần bao nhiêu cấp phát bấy nhiêu và có trách nhiệm điều hoà phân phối trang
bị để tránh tình trạng nơi này không cần dùng để ở kho mà nơi khác đang cần lại
phải mua sắm thêm tốn tiền. Thứ nào không thể điều hoà được thì mới phải mua sắm
thêm.
Khi cá nhân cần thay đổi các thứ
trang bị hư hỏng, mất phẩm chất không dùng được nữa thì phải lấy hiện vật đội
hiện vật. Nếu đơn vị xin thay đổi trang bị thì phải được Hành chính và Công
đoàn đồng cấp cùng thoả thuận. Những trường hợp để mất hoặc hư hỏng đồ dùng đã
được cấp phát, người sử dụng phải kịp thời báo cáo cho đơn vị biết.
Đối với các công trường, sau khi
hoàn thành nhiệm vụ, phải nộp lại cho cơ quan chủ quản các thứ trang bị đã được
cấp phát, kèm theo biên bản ghi rõ những thứ đã nhận, những thứ hiện còn và phẩm
chất của mỗi loại, để các cơ quan chủ quản phân phối cho các công trường khác.
Nơi nào nộp không đủ không có lý do chính đáng thì phải bồi hoàn.
Trên đây, Bộ chỉ hướng dẫn một số
nguyên tắc, các cơ quan, đơn vị tùy theo thực tế của cơ quan, đơn vị mình mà đặt
kế hoạch vận dụng cho thích hợp, cốt làm thế nào tránh khỏi lãng phí sức người,
sức của đồng thời bảo đảm được tính mệnh và sức khoẻ của công nhân và cán bộ
trong khi làm việc.
Hiện nay vì khả năng có hạn, việc
nghiên cứu cũng chưa quán triệt hết mọi ngành, mọi nghề, vì vậy những cơ quan,
đơn vị trực tiếp sử dụng công nhân, cần chú ý nhiều đến công tác bảo hộ lao động,
tích cực phát huy tác dụng của các chính sách sẵn có, đồng thời góp phần xây dựng
các chính sách mới bổ sung dần dần để công tác bảo hộ lao động ngày càng được
hoàn thiện hơn. Từ nay các cơ quan, đơn vị không nên tự ý mua sắm các thứ trang
bị cho những công việc chưa có quy định chính thức của Bộ. Nếu có những công việc
cần thiết phải có trang bị mà chưa có quy định thì cơ quan đơn vị đề nghị kịp
thời và chờ văn bản chính thức của Bộ mới thực hiện.
|
KT.
BỘ TRƯỞNG BỘ THUỶ LỢI
THỨ TRƯỞNG
Trần Quý Kiên
|