BỘ
NỘI VỤ
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
16-NV
|
Hà
Nội, ngày 12 tháng 03 năm 1962
|
THÔNG TƯ
GIẢI THÍCH VÀ HƯỚNG DẪN THI HÀNH NGHỊ ĐỊNH SỐ 13-CP NGÀY 02-02-1962
CỦA HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ VỀ VIỆC NÂNG PHỤ CẤP THƯƠNG TẬT CHO THƯƠNG BINH VÀ DÂN
QUÂN, DU KÍCH, THANH NIÊN XUNG PHONG BỊ THƯƠNG TẬT
BỘ TRƯỞNG BỘ NỘI VỤ
Kính gửi: Uỷ
ban hành chính các khu, thành phố, tỉnh và khu vực vĩnh linh.
Để thi hành Nghị định số 13-CP
ngày 02 tháng 02 năm 1962 của Hội đồng Chính phủ về việc nâng cấp thương tật
cho thương binh và dân quân, du kích, thanh niên xung phong bị thương tật, sau
khi đã thống nhất ý kiến với Bộ Tài chính, Bộ ra thông tư này giải thích
và hướng dẫn thi hành nghị định trên như sau:
A. Ý nghĩa của
việc nâng phụ cấp thương tật
Sau khi hòa bình được lập lại,
Chính phủ đã cải tiến chế độ lương hưu thương tật ban hành từ trong thời kỳ
kháng chiến thành một chế độ phụ cấp tiến bộ hơn, chế độ phụ cấp thương tật, và
năm 1958 đã nâng mức phụ cấp thương tật. Đến nay, do tình hình sản xuất của nước
ta đã phát triển hơn trước, Chính phủ lại nâng phụ cấp thương tật một lần nữa,
nhằm cải thiện thêm một bước đời sống cho anh em thương binh, dân quân, du
kích, thanh niên xung phong bị thương tật. Tỷ lệ tăng phụ cấp thương tật lần
này là 18%, nhưng tỷ lệ tăng đối với từng hạng thương tật có khác nhau: đối
với những anh em bị thương tật nặng, tỷ lệ tăng nhiều hơn là đối với những anh
em bị thương tật nhẹ.
Việc nâng phụ cấp thương tật thể
hiện rõ sự quan tâm của Đảng và Chính phủ đối với thương binh, dân quân,
du kích, thanh niên xung phong bị thương tật, nó chứng tỏ mỗi khi hoàn cảnh cho
phép, Đảng và Chính phủ đều có chú ý cải thiện đời sống cho anh em. Nhưng nếu
chỉ dựa vào sự giúp đỡ của Nhà nước thì việc cải thiện đời sống của anh em
không thể nào giải quyết được tốt. Vì vậy, cùng với việc nâng phụ cấp thương tật,
phải đẩy mạnh hơn nữa việc vận động nhân dân giúp đỡ thương binh, dân quân, du
kích, thanh niên xung phong bị thương tật và động viên anh em nỗ lực sản xuất
và công tác, phát huy hơn nữa tinh thần tự lực cánh sinh để thiết thực giải quyết
các vấn đề thuộc về đời sống của mình.
Có quán triệt và thực hiện được
tốt cả 3 mặt công tác trên đây mới có thể làm cho đời sống của anh em thương
binh, dân quân, du kích, thanh niên xung phong bị thương tật ngày càng được cải
thiện.
B. Thi hành
việc nâng mức phụ cấp (điều 1 của nghị định)
I. CÁCH ÁP DỤNG SUẤT PHỤ CẤP
Căn cứ vào điều 1 của Nghị định số
13-CP ngày 02-02-1962 của Hội đồng Chính phủ ấn định suất phụ cấp thương tật,
phụ cấp sản xuất, phụ cấp an dưỡng của thương binh, dân quân, du kích, thanh
niên xung phong bị thương tật:
1. Thương binh và dân quân,
du kích, thanh niên xung phong bị thương tật còn tại ngũ, công tác hay sản xuất
ở cơ quan, xí nghiệp của mỗi quý (3 tháng) được lĩnh phụ cấp như sau:
Hạng thương tật
|
PHỤ CẤP THƯƠNG
TẬT
|
Thương binh
|
Dân quân, du
kích,
TNXP bị thương
tật
|
Hạng đặc biệt
|
39đ 00
|
34đ00
|
Hạng một
|
28.50
|
25.50
|
Hạng hai
|
19.50
|
17.40
|
Hạng ba
|
14.10
|
12.90
|
Hạng bốn
|
9.90
|
9.00
|
Hạng năm
|
6.00
|
5.40
|
2. Thương binh và dân quân,
du kích, thanh niên xung phong bị thương tật ở địa phương: mỗi quý (3
tháng) được lĩnh phụ cấp như sau:
a) Thương binh
Hạng thương tật
|
Phụ cấp thương
tật
|
Phụ cấp sản xuất
|
Phụ cấp
an dưỡng
|
Tổng cộng
|
Hạng đặc biệt
|
39đ 00
|
|
75đ 00
|
114đ 00
|
Hạng một
|
28.50
|
|
55.050
|
84.00
|
Hạng hai
|
19.50
|
31.50
|
|
51.00
|
Hạng ba
|
14.10
|
20.40
|
|
34.50
|
Hạng bốn
|
9.90
|
9.60
|
|
19.50
|
Hạng năm
|
6.00
|
4.80
|
|
10.80
|
b) Dân quân, du kích, thanh niên
xung phong bị thương tật.
Hạng thương tật
|
Phụ cấp thương
tật
|
Phụ cấp sản xuất
|
Phụ cấp an dưỡng
|
Tổng cộng
|
Hạng đặc biệt
|
34đ50
|
|
67.50
|
102đ 00
|
Hạng một
|
25. 50
|
|
49. 20
|
75. 00
|
Hạng hai
|
17. 40
|
28. 50
|
|
45. 90
|
Hạng ba
|
12. 90
|
18. 60
|
|
31. 50
|
Hạng bốn
|
9. 00
|
8. 70
|
|
17. 70
|
Hạng năm
|
5. 40
|
4. 20
|
|
9. 60
|
II. THỂ THỨC GHI SUẤT PHỤ CẤP MỚI VÀO
SỔ PHỤ CẤP THƯƠNG TẬT VÀ GIẢI QUYẾT TRUY LĨNH PHỤ CẤP QUÝ I NĂM 1962.
1. Thể thức ghi suất phụ cấp mới vào sổ
phụ cấp thương tật:
a) Việc ghi suất phụ cấp mới vào
sổ phụ cấp thương tật sẽ do các cơ quan sau đây phụ trách:
- Sổ của anh em ở địa phương, do
Uỷ ban hành chính huyện, châu, thị xã hoặc Uỷ ban hành chính thành phố ghi.
- Sổ của anh em công tác ở cơ
quan, huyện, chính quyền, châu, thị xã, tỉnh, thành phố, khu do Uỷ ban hành
chính cấp ấy ghi.
- Sổ của anh em công tác ở các
cơ quan trung ương, xí nghiệp, trường học, công, nông, lâm trường ….đóng trong
phạm vi tỉnh, thành phố hoặc khu nào thì do Uỷ ban hành chính tỉnh, thành phố,
khu đó ghi (ví dụ sổ của thương binh công tác ở Bộ Giáo dục, Bộ Công nghiệp nhẹ,
xí nghiệp văn phòng phẩm Hồng hà: sẽ do Uỷ ban hành chính thành phố Hà nội ghi)
- Sổ của anh em tại ngũ do Ban hậu
cần từ cấp Trung đoàn trở lên ghi.
Trước khi ghi suất phụ cấp mới
vào sổ phụ cấp thương tật, các cơ quan cần soát lại kỹ các sổ phát hiện những
trường hợp hưởng quyền lợi không chính đáng đối với những sổ có vết tẩy xoá, hoặc
các cuống phiếu, tờ phiếu bị mất, hoặc đã ghi trả phụ cấp không đúng định suất
(như thương binh công tác ở cơ quan lại ghi trả phụ cấp như thương binh ở địa
phương), hoặc sổ tạm thời đã hết hạn sử dụng, thì cơ quan sẽ giữ lại (cấp giấy
biên nhận cho anh em), và gửi về Uỷ ban hành chính các tỉnh thành phố, khu để
thẩm tra lại.
b) Việc ghi suất phụ cấp mới vào
sổ sẽ thống nhất theo hai mẫu dưới đây:
Mẫu thứ nhất (ghi vào sổ
của những anh em còn tại ngũ hay công tác ở cơ quan xí nghiệp ….
“Kể từ ngày 01 tháng 01 năm
1962, mỗi quý (3 tháng) được lĩnh phụ cấp thương tật là: ….” (ghi số tiền và
ghi bằng chữ): Ký tên và đóng dấu.
Mẫu thứ hai (ghi vào sổ của
những anh em về địa phương sản xuất hay an dưỡng). “Kể từ ngày 01 tháng 01 năm
1962, mỗi quý (3 tháng) được lĩnh:”
- Phụ cấp thương tật:
...............................................................................
(ghi số tiền)
- Phụ cấp sản xuất (hay phụ cấp
an dưỡng)............................................. (ghi số tiền)
Tổng cộng.................................................................................................
(ghi số tiền và ghi bằng chữ).
Ký tên và đóng dấu.
c) Từ 01 tháng 4 năm 1962, cơ
quan trả phụ cấp thương tật chỉ thanh toán phụ cấp cho những thương binh dân
quân du kích, thanh niên xung phong bị thương tật theo suất mới quy định
trong nghị định số 13-CP ngày 2-2-1962 của Hội đồng Chính phủ, nếu sổ phụ cấp
thương tật của anh em đã được ghi suất phụ cấp mới theo đúng quy định trên đây.
2. Thanh toán truy lĩnh phụ cấp quý 1
năm 1962.
Suất phụ cấp thương tật, phụ cấp
sản xuất hay phụ cấp an dưỡng mới thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 1962.
a) Thương binh và dân quân, du
kích, thanh niên xung phong bị thương tật đã lĩnh phụ cấp quý 1 năm 1962 theo
suất phụ cấp cũ sẽ được truy lĩnh số tiền chênh lệch khi lĩnh phụ cấp của quý 2
năm 1962. Số tiền này sẽ tính gộp với tiền phụ cấp quý 2 vào cùng một tờ phiếu
thanh toán.
Ví dụ: Quý 2 năm 1962, 1
thương binh hạng 2 còn tại ngũ hay công tác ở cơ quan, xí nghiệp…sẽ được lĩnh:
- Phụ cấp thương tật quý 2 năm
1962: 19đ 50
- Truy lĩnh quý 1 năm 1962: (19đ
50 – 12đ 00): 7đ 50
Tổng cộng (hai mươi bảy đồng chẵn):
27đ 00
Quý 2 năm 1962, 1 thương binh hạng
2 về địa phương sản xuất, sẽ được lĩnh:
- Phụ cấp thương tật + phụ cấp sản
xuất quý 2 năm 1962: 51đ 00
- Truy lĩnh qúy 1 năm 1962: (51đ
00 – 42đ 00): 9đ00
Tổng cộng (sáu mươi đồng chẵn):
60đ00
b) Riêng đối với những anh em
chưa lĩnh phụ cấp quý 1 năm 1962 thì cơ quan trả phụ cấp căn cứ vào suất phụ cấp
mới mà thanh toán phụ cấp quý 1 và quý 2 cho anh em (thanh toán riêng mỗi quý 1
tờ phiếu).
3. Chế độ phụ cấp đối với thương binh,
dân quân, du kích, thanh niên xung phong bị thương tật ở trại
(điều 2 của nghị định).
Nhiệm vụ của các trại an dưỡng
là tổ chức nuôi dưỡng thương binh, dân quân, du kích, thanh niên xung phong bị
thương tật nặng, không có điều kiện về an dưỡng ở địa phương. Vì vậy, theo đúng
nguyên tắc của chính sách, thương binh an dưỡng ở trại được coi như thương binh
an dưỡng ở địa phương và cũng lĩnh phụ cấp như thương binh ở địa phương. Khi
vào trại, nếu mức phụ cấp thấp hơn mức sinh hoạt phí ở trại (gồm tiền ăn, tiền
tiêu vặt, tiền may mặc) thì anh em được cấp thêm cho bằng sinh hoạt phí ở trại;
nếu mức phụ cấp cao hơn thì anh em chỉ phải đóng sinh hoạt phí cho trại và được
sử dụng khoản tiền còn lại.
Nguyên tắc trên đã được ghi
trong điều lệ tạm thời về chế độ bảo hiểm xã hội áp dụng đối với công nhân
viên chức Nhà nước và cũng đã được thi hành đối với thương binh trong suốt thời
gian từ khi có chủ trương thành lập trại đến đầu năm 1956.
Vì Nghị định số 68-TB/TC ngày
16-3-1956 của Liên bộ Tài chính – Thương binh quy định cho thương binh trong thời
gian ở trại, vừa được hưởng sinh hoạt phí của trại, vừa được lĩnh phụ cấp
thương tật là không đúng với nguyên tắc trên, cho nên Nghị định số 13-CP ngày
02-02-1962 của Hội đồng Chính phủ đã quy định lại như trên.
Tuy nhiên, nguyên tắc trên đây
cũng chỉ thi hành đối với những anh em vào trại từ sau ngày 01-01-1962. Còn
riêng đối với những anh em đã ở trại trước ngày 01-01-1962, thì trong thời gian
còn ở trại, anh em vẫn được hưởng sinh hoạt phí của trại và lĩnh phụ cấp như cũ
(theo định suất quy định trong Nghị định số 131-TTg ngày 01-3-1958 của Thủ tướng
Chính phủ); như vậy thu nhập và sinh hoạt hiện nay của anh em vẫn không bị ảnh
hưởng gì cả.
Bộ sẽ hướng dẫn riêng cho các tỉnh
có trại thương binh về thể thức thi hành quy định trên đây.
Để thi hành nghị định nói trên của Hội đồng
Chính phủ được tốt, đề nghị các Uỷ ban có kế hoạch phổ biến rộng rãi việc nâng
phụ cấp thương tật tới anh em thương binh và nhân dân, hướng dẫn các huyện, thị
xã, khu phố và các cơ quan, đơn vị phụ trách việc trả phụ cấp thương tật (cơ
quan, xí nghiệp, công nông lâm trường, đơn vị quân đội đóng ở địa phương…) nắm
vững những điều quy định trong Nghị định số 13-CP của Hội đồng Chính phủ và
trong thông tư này để thi hành cho đúng, và sau đó theo dõi, kiểm tra chặt chẽ
việc thi hành để kịp thời bổ khuyết những thiếu sót.
Trong khi ban hành, có gì khó
khăn, các Uỷ ban kịp thời phản ảnh cho Bộ biết để nghiên cứu giải quyết.
|
K.T BỘ TRƯỞNG
BỘ NỘI VỤ
THỨ TRƯỞNG
Tô Quang Đẩu
|