BỘ
LAO ĐỘNG
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
14-LĐ/TT
|
Hà
Nội, ngày 29 tháng 6 năm 1982
|
THÔNG TƯ
CỦA BỘ LAO ĐỘNG SỐ 14-LĐ/TT NGÀY 29 THÁNG 6 NĂM 1982 GIẢI
THÍCH VÀ HƯỚNG DẪN THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH SỐ 103-HĐBT NGÀY 14-6-1982 CỦA HỘI ĐỒNG
BỘ TRƯỞNG VỀ CHẾ ĐỘ THÙ LAO TẠM THỜI ĐỐI VỚI DÂN CÔNG
Căn cứ Quyết định số 103-HĐBT
ngày 14-6-1982 của Hội đồng Bộ trưởng về chế độ thù lao tạm thời đối với người
đi làm nghĩa vụ dân công trên các công trường Nhà nước.
Sau khi trao đổi với Bộ Tài chính, Bộ Thuỷ lợi, Bộ Lao động giải thích và hướng
dẫn một số điểm như sau:
I. MỤC ĐÍCH,
Ý NGHĨA BAN HÀNH CHẾ ĐỘ THÙ LAO TẠM THỜI
Trong khi chờ nghiên cứu trình Hội
đồng Bộ trưởng ban hành chế độ lao động công ích, việc tổ chức huy động và sử dụng
dân công hiện nay vẫn thi hành điều lệ dân công thời chiến, ban hành kèm theo
Nghị định số 77-CP ngày 24-6-1966 của Hội đồng Chính phủ, đối với các tỉnh,
thành phố miền Bắc và Thông tư số 5-TT/LB ngày 29-6-1978 của liên Bộ Lao động -
Thuỷ lợi về huy động nhân lực làm thuỷ lợi ở các tỉnh, thành phố trong Nam.
Trong điều kiện nước ta, việc huy động sức lao động của nhân dân dưới hình thức
lao động công ích để bảo đảm những khối lượng công việc lớn lao như nhiệm vụ đắp
đê, làm thuỷ lợi, làm giao thông, hoặc phục vụ chiến đấu... là cần thiết, cho
nên cần tổ chức thực hiện tốt việc huy động và sử dụng lực lượng dân công.
Theo Quyết định số 218-CP ngày
29-5-1981 của Hội đồng Chính phủ về chế độ và phương thức cung cấp hàng hoá năm
1981 và do giá cả thay đổi, đời sống dân công trên công trường có nhiều khó
khăn, Hội đồng Bộ trưởng quyết định nâng mức trợ cấp thù lao và bù giá chênh lệch
lương thực, thực phẩm... cho dân công, động viên mọi người hăng hái đi là nghĩa
vụ; bảo đảm huy động lao động đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và phục vụ chiến
đấu.
Trong tình hình kinh tế của ta
đang có những khó khăn, việc quy định nâng mức trợ cấp thù lao cho dân công,
hàng năm Nhà nước phải chi thêm hàng trăm triệu đồng thể hiện sự quan tâm lớn của
Nhà nước đối với đời sống lao động trên các công trường.
Vì vậy Uỷ ban nhân dân các tỉnh,
thành phố và các ngành sử dụng cần chỉ đạo chặt chẽ việc tổ chức huy động và sử
dụng dân công bảo đảm đạt năng suất cao, đưa lại hiệu quả kinh tế thiết thực,
tiết kiệm lao động, đồng thời chăm lo đời sống cho người lao động trên công trường.
Một khâu rất quan trọng là hướng dẫn, giúp đỡ chính quyền cơ sở và hợp tác xã,
tập đoàn sản xuất tổ chức và củng cố các đội dân công chuyên trách, bán chuyên
trách có trang bị đủ công cụ đi làm nghĩa vụ thay cho xã viên, tập đoàn viên và
nhân dân bảo đảm hoàn thành đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước.
II. MỘT SỐ NỘI
DUNG CỤ THỂ
1. Đối tượng thi hành:
Nhân dân và học sinh trong cả nước,
đi làm nghĩa vụ dân công trên các công trường thuỷ lợi, giao thông của Nhà nước
và phục vụ chiến đấu, đều được hưởng chế độ trợ cấp thù lao tạm thời theo Quyết
định số 103-HĐBT ngày 14-6-1982 của Hội đồng Bộ trưởng.
Công nhân, viên chức Nhà nước chỉ
đi làm nghĩa vụ dân công từng buổi, từng ngày, ở gần nên không hưởng trợ cấp
thù lao.
2. Chế độ cụ thể:
a) Tiền trợ cấp: Những người đi
dân công có nghề chuyên môn (mộc, nề, cơ khí...) được sử dụng đúng nghề và bậc
thợ thì ngoài việc được hưởng thù lao 5đ/công, còn được trợ cấp thêm mỗi định mức:
Thợ bậc 1 và 2, được trợ cấp
thêm 3 đồng.
Thợ bậc 3 trở lên, được cấp thêm
3 đồng.
b) Định mức Nhà nước là định mức
do Ủy ban Xây dựng cơ bản Nhà nước ban hành, thống nhất chung đối với công việc
xây dựng cơ bản. Còn định mức của ngành là do từng Bộ, ngành ở Trung ương xây dựng
và ban hành, có sự thoả thuận của ủy ban Xây dựng cơ bản Nhà nước về các công
việc xây dựng cơ bản của ngành đó. Ví dụ: định mức 670 của ngành thuỷ lợi, ban
hành kèm theo Công văn số 3126-TL/LĐTL ngày 15-10-1974 của Bộ Thuỷ lợi.
Các công trường phải căn cứ vào
định mức của Nhà nước hoặc của ngành để áp dụng khoán và thanh toán với dân
công, không được tự đặt ra định mức riêng.
c) Về lương thực: Đối với đội
dân công chuyên trách của hợp tác xã, tập đoàn sản xuất đi làm nghĩa vụ thay
cho xã viên, tập đoàn viên nếu thiếu lương thực ăn trong khi đi làm nghĩa vụ,
thì hợp tác xã, tập đoàn sản xuất căn cứ vào mức ăn bình quân đối với lao động
của đơn vị mình để điều hoà bảo đảm mức ăn 0,700kg lương thực/công cho anh chị
em. Trường hợp nơi xảy ra thiên tai, mất mùa, người đi làm nghĩa vụ thiếu lương
thực ăn mà hợp tác xã, tập đoàn sản xuất cũng không có khả năng điều hoà được,
thì uỷ ban nhân dân xã, phường đề nghị uỷ ban nhân dân huyện, tỉnh xét hỗ trợ.
Nếu tỉnh và huyện cũng không có khả năng để giải quyết, thì phải báo cáo và đề
nghị trung ương xét hỗ trợ cho địa phương để có thể bán bù một phần lương thực
theo giá chỉ đạo cho người đi dân công, với mức nhiều nhất không quá 0,250 kg
lương thực 1 công định mức.
Những nơi có công trường tập
trung đông dân công, uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố giao trách nhiệm cho các
ty lương thực, thương nghiệp tổ chức cửa hàng tại chỗ, bán lương thực, thực phẩm,
chất đốt và một số hàng thiếu yếu (chủ yếu là thực phẩm) cho dân công, theo giá
chỉ đạo bán lẻ hoặc giá bảo đảm kinh doanh, nhằm bảo đảm sinh hoạt bình thường
cho người lao động.
d) Vải: Việc xét giải quyết cấp
thêm 2 mét phiếu vải cho đội dân công chuyên trách sẽ do các Sở, Ty thương nghiệp
địa phương giải quyết, trên cơ sở kế hoạch dự trù hàng năm của các sở, ty chủ
quản, kèm theo kế hoạch sử dụng dân công, được uỷ ban nhân dân tỉnh và thành phố
xét duyệt.
e) Các chế độ khác: Trợ cấp đi
đường, nghỉ thường lệ, nghỉ chờ việc, ốm đau, tai nạn, bị thương, bị chết
v.v... như qui định tại Nghị định số 77-CP ngày 26-4-1966 và Thông tư số
7-TT/LB ngày 24-5-1966 của liên Bộ Lao động - Tài chính - Y tế quy định chi tiết
hành Nghị định số 77-CP, vẫn được áp dụng đối với dân công, trên cơ sở chế độ
thù lao tạm thời này.
g) Toàn bộ chi phí đối với dân
công đều tính vào giá thành công trình, do ngành và đơn vị sử dụng chịu trách
nhiệm thanh toán. Nhưng để giảm chi phí và hạ giá thành công trình, các đơn vị
quản lý và đơn vị lao động phải phấn đấu sử dụng mọi biện pháp thi công tốt nhất,
đạt hiệu quả kinh tế cao. .. đối với các công trình do Nhà nước giao cho Bộ,
ngành trung ương quản lý thì Bộ, ngành trình Hội đồng Bộ trưởng xét duyệt dự
án; đối với công trình Nhà nước phân cấp cho huyện, tỉnh quản lý thì Bộ, ngành
chủ quản chịu trách nhiệm xét duyệt thiết kế kỹ thuật và dự toán đầu tư kinh tế.
Mọi công trường Nhà nước đều phải thực hiện theo đúng nguyên tắc, chế độ quản
lý của Nhà nước, bảo đảm tiết kiệm và có hiệu quả kinh tế.
III. VỀ CHỈ ĐẠO
Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành
phố cần quản lý chặt số ngày công nghĩa vụ trong địa phương; thực hiện nghĩa vụ
dân công tập thể đối với các hợp tác xã, tập đoàn sản xuất, huy động hợp lý đối
với các đối tượng khác, bảo đảm kế hoạch của Nhà nước; đặc biệt quan tâm hướng
dẫn, chỉ đạo, tổ chức và củng cố tốt các đội dân công chuyên trách; kiểm tra việc
quản lý sử dụng dân công, cải tiến và trang bị đủ công cụ để tăng năng suất lao
động.
Ủy ban nhân dân các tỉnh và
thành phố xét duyệt các kế hoạch nhu cầu về dân công của các ngành (kể cả các
đơn vị thuộc ngành trung ương), các huyện, quận; lập kế hoạch phân bố chỉ tiêu
giao từ đầu năm cho xã, phường, hợp tác xã và các cơ quan, xí nghiệp, trường học...;
chú trọng tập trung huy động bảo đảm kế hoạch lao động phục vụ các công trình
trọng điểm đê điều, thuỷ lợi, giao thông và phục vụ các lực lượng vũ trang chiến
đấu và sẵn sàng chiến đấu. Với tinh thần tận dụng ngày công nghĩa vụ dân công
những nơi còn thừa ngày công, có thể cho sử dụng vào những công việc khác của
Nhà nước để giảm bớt chi phí cho ngân sách, ví dụ: Các công việc trồng cây, trồng
rừng; xây dựng cơ bản vùng kinh tế mới, công trình lợi ích công cộng của địa
phương. Những công việc này đã được Nhà nước cấp kinh phí sử dụng lao động
khác, nay được sử dụng dân công ít tốn kém hơn, thì phải thanh, quyết toán giảm
bớt kinh phí cho Nhà nước.
Hàng năm, các tỉnh, thành phố phải
tổng kết và quyết toán việc sử dụng ngày công nghĩa vụ dân công trong địa
phương, báo cáo về Bộ Lao động để tổng hợp báo cáo lên Hội đồng bộ trưởng.
Để thi hành nghiêm chỉnh Quyết định
số 103-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng về chế độ thù lao tạm thời đối với dân công,
uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố cần tổ chức phổ biến cho các ngành và uỷ
ban nhân dân cấp dưới quán triệt tinh thần quyết định của Chính phủ. Trong thực
hiện cụ thể, uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố cần giao trách nhiệm cho các ngành
lao động, tài chính, thuỷ lợi, nông nghiệp... theo chức năng từng ngành, giúp uỷ
ban chỉ đạo và kiểm tra thi hành các chính sách, chế độ Nhà nước đã quy định,
kiến nghị uỷ ban kịp thời giải quyết những việc cần thiết để thúc đẩy hoạt động
lao động xây dựng và sản xuất.
Trên đây, Bộ Lao động giải thích
và hướng dẫn một số điểm để các ngành và địa phương thực hiện quyết định của Hội
đồng Bộ trưởng. Trong quá trình thực hiện có điều gì vướng mắc, đề nghị các cấp,
các ngành phản ánh về Bộ Lao động nghiên cứu giải quyết.
Thông tư này có giá trị thi hành
kể từ ngày ký và thực hiện thống nhất trong cả nước.