BỘ
LAO ĐỘNG-THƯƠNG BINH
VÀ XÃ HỘI
---------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
-------------------
|
Số:
2973/TB-LĐTBXH
|
Hà
Nội, ngày 17 tháng 08 năm 2009
|
THÔNG BÁO
TÌNH
HÌNH TAI NẠN LAO ĐỘNG 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2009
Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội thông báo đến các Bộ, ngành và các địa phương tình hình tai nạn lao động
trong 6 tháng đầu năm 2009 và một số giải pháp chủ yếu nhằm chủ động ngăn ngừa
sự cố và tai nạn lao động trong 6 tháng cuối năm 2009 như sau:
A. TÌNH HÌNH CHUNG
I. SỐ VỤ TAI NẠN LAO ĐỘNG (TNLĐ).
Theo báo cáo của 60/63 tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương trong 6 tháng đầu năm 2009 đã xảy ra 1.958 vụ
tai nạn lao động làm 1998 người bị nạn, có 231 vụ TNLĐ chết người làm 239 người
chết, 418 người bị thương nặng.
II. TÌNH HÌNH TNLĐ Ở CÁC ĐỊA PHƯƠNG
Các địa phương xảy ra nhiều
tai nạn lao động chết người trong 6 tháng đầu năm là:
- Thành phố Hồ Chí Minh: 299 vụ
TNLĐ, làm 302 người bị nạn; trong đó có 43 vụ chết người, làm 43 người chết
(chiếm 18,61% tổng số người chết), 20 người bị thương nặng;
- Đồng Nai: 444 vụ TNLĐ, làm 446
người bị nạn; trong đó có 24 vụ chết người, làm 24 người chết (chiếm 10,39%
tổng số người chết), 12 người bị thương nặng;
- Hà Nội: 78 vụ TNLĐ, làm 79
người bị nạn; trong đó có 12 vụ chết người, làm 13 người chết (chiếm 5,63% tổng
số người chết), 65 người bị thương nặng;
- Quảng Ninh: 162 vụ TNLĐ, làm
163 người bị nạn; trong đó có 10 vụ chết người làm 11 người chết (chiếm 4,76%
tổng số người chết), 70 người bị thương nặng;
- Bình Dương: 129 vụ TNLĐ, làm
132 người bị nạn; trong đó có 10 vụ chết người làm 11 người chết (chiếm 4,76%
tổng số người chết), 6 người bị thương nặng;
- Hải Phòng: 65 vụ TNLĐ, làm 68
người bị nạn; trong đó có 11 vụ chết người, làm 11 người chết (chiếm 4,76% tổng
số người chết), 10 người bị thương nặng;
- Hải Dương: 11 vụ TNLĐ, làm 15
người bị nạn; trong đó có 7 vụ chết người làm 8 người chết (chiếm 3,46% tổng số
người chết), 7 người bị thương nặng;
- Bình Định: 54 vụ TNLĐ, làm 54
người bị nạn; trong đó có 6 vụ chết người làm 6 người chết (chiếm 2,6% tổng số
người chết), 14 người bị thương nặng;
- Khánh Hòa: 24 vụ TNLĐ, làm 24
người bị nạn; trong đó có 6 vụ chết người, làm 6 người chết (chiếm 2,6% tổng số
người chết), 4 người bị thương nặng;
- Long An: 39 vụ TNLĐ, làm 39
người bị nạn; trong đó có 5 vụ chết người, làm 5 người chết (chiếm 2,16% tổng
số người chết), 8 người bị thương nặng;
B. PHÂN TÍCH CÁC VỤ TAI NẠN
LAO ĐỘNG
I. ĐÁNH GIÁ CHUNG
1. So với cùng kỳ năm 2008,
trong 6 tháng đầu năm 2009 số vụ TNLĐ giảm 539 vụ (giảm 21,58%), tổng số bị nạn
giảm 577 người (giảm 22,41%); số vụ TNLĐ chết người giảm 19 vụ (giảm 7,60%) và
số người chết giảm 27 người (giảm 10,15%); (6 tháng đầu năm 2008 xảy ra 250 vụ
TNLĐ chết người, làm 266 người chết). Tuy nhiên, các tỉnh Hà Nam, Bắc Kạn, Tây
Ninh đến ngày 12 tháng 8 năm 2009 vẫn chưa có báo cáo tình hình TNLĐ 6 tháng
đầu năm;
2. Các địa phương có số vụ tai
nạn lao động chết người ở mức cao trong 6 tháng đầu năm 2009 vẫn là những địa
phương có số lượng lớn các doanh nghiệp sản xuất, tập trung nhiều các khu công
nghiệp và những địa phương có nhiều doanh nghiệp khai thác khoáng sản như:
Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đồng Nai, Bình Dương, Quảng Ninh;
3. Một số địa phương có số vụ
tai nạn lao động chết người tăng cao so với cùng kỳ năm ngoái: TP. Hồ Chí Minh
43 vụ (cùng kỳ năm ngoái xảy ra 35 vụ); Đồng Nai 24 vụ (cùng kỳ năm ngoái xảy
ra 11 vụ), Hà Nội 12 vụ (cùng kỳ năm ngoái xảy ra 8 vụ), Hải Phòng 11 vụ (cùng
kỳ năm ngoái xảy ra 3 vụ);
4. Những địa phương không xảy ra
tai nạn lao động chết người trong 6 tháng đầu năm 2009: Bình Thuận, Lào Cai,
Yên Bái, Bạc Liêu, Bến Tre, Cao Bằng, Sóc Trăng, Ninh Thuận, Điện Biên.
II. NGUYÊN NHÂN XẢY RA CÁC VỤ TNLĐ
1. Về phía người sử dụng lao
động
- Không huấn luyện về an toàn
lao động cho người lao động: 138 vụ (chiếm 7,05% tổng số vụ)
- Máy, thiết bị, công cụ sản
xuất không đảm bảo an toàn vẫn đưa vào sử dụng: 92 vụ (chiếm 4,70% tổng số vụ);
- Không có thiết bị an toàn: 68
vụ (chiếm 3,47% tổng số vụ);
- Không có quy trình, biện pháp
an toàn lao động: 109 vụ (chiếm 5,56% tổng số vụ);
- Không đảm bảo điều kiện và môi
trường làm việc an toàn cho người lao động theo quy định tại các tiêu chuẩn: 64
vụ (chiếm 3,27% tổng số vụ);
- Do tổ chức lao động (bố trí
lao động làm việc không có tay nghề hoặc chưa phù hợp với ngành nghề chuyên môn
được đào tạo): 77 vụ (chiếm 3,93% tổng số vụ);
- Không trang bị phương tiện bảo
vệ cá nhân cho người lao động: 38 vụ (chiếm 1,94% tổng số vụ);
- Những nguyên nhân khác (do không
thường xuyên kiểm tra nhắc nhở người lao động tuân thủ các quy định của Nhà
nước về an toàn, vệ sinh lao động; vi phạm các quy định tại Thông tư liên tịch
số 14/1998/TTLT-BLĐTBXH-BYT-TLĐLĐVN ngày 31/10/1998 của Liên tịch Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội – Bộ Y tế - Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam hướng dẫn việc
tổ chức thực hiện công tác bảo hộ lao động trong doanh nghiệp, cơ sở sản xuất
kinh doanh…) 337 vụ (chiếm 17,21% tổng số vụ).
2. Về phía người lao động
- Có 656 vụ TNLĐ do người lao
động vi phạm các quy định về an toàn lao động (chiếm 33,50% tổng số vụ). Nhiều
người lao động xuất phát từ các vùng nông thôn đi làm thuê không được đào tạo
cơ bản qua trường lớp, khi vào làm việc chỉ được hướng dẫn về các thao tác đơn
giản, không được hướng dẫn về công tác bảo đảm an toàn lao động, không biết các
mối nguy hiểm cần phải đề phòng trong môi trường lao động của mình…; nên đã vi
phạm luật pháp an toàn lao động;
- Có 85 vụ do không sử dụng các
phương tiện bảo vệ cá nhân trong lao động (chiếm 4,34% tổng số vụ), mặc dù đã
được người sử dụng lao động cấp phát đủ và hướng dẫn cách sử dụng.
- Có 148 vụ do người khác vi
phạm quy định về an toàn lao động (chiếm 7,56% tổng số vụ). Một số người lao
động mặc dù đã được đào tạo cơ bản, được huấn luyện về an toàn lao động nhưng
do chủ quan, chạy theo năng suất, ý thức chấp hành kỷ luật kém … nên đã gây ra
những TNLĐ đáng tiếc cho bản thân và những người làm việc xung quanh;
3. Về phía các cơ quan quản
lý Nhà nước
- Công tác thanh tra của Thanh
tra Nhà nước về lao động chưa thường xuyên, số cuộc thanh tra, kiểm tra về thực
hiện pháp luật lao động tại các doanh nghiệp còn ít, hiệu quả chưa cao. Số
lượng, chất lượng thanh tra viên chưa tương xứng với tốc độ phát triển của các
doanh nghiệp cả về số lượng lẫn quy mô sản xuất, kinh doanh. Nhiều địa phương
do thiếu thanh tra viên lao động nên hầu hết chỉ tổ chức các cuộc kiểm tra liên
ngành, số cuộc thanh tra lao động còn rất ít. Do đó không kịp thời phát hiện
những vi phạm pháp luật Lao động, dẫn đến nhiều vụ TNLĐ nghiêm trọng đã xảy ra;
- Một số lĩnh vực sản xuất, kinh
doanh chưa được các cơ quan quản lý Nhà nước thanh, kiểm tra, hướng dẫn thường
xuyên, kịp thời nên tình trạng vi phạm các quy định của pháp luật, các Tiêu
chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật an toàn lao động còn phổ biến. Đặc biệt tại các doanh
nghiệp tư nhân, lao động làm việc trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp; các hộ
kinh doanh cá thể, các làng nghề;
- Việc xử lý các vụ TNLĐ chết
người đặc biệt nghiêm trọng chưa nghiêm: 6 tháng đầu năm 2009 Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội chỉ nhận được 35 biên bản điều tra hoặc báo cáo nhanh tai
nạn lao động chết người của các địa phương, không có trường hợp nào bị đề nghị
truy tố trách nhiệm hình sự. Việc xử lý hành chính theo thẩm quyền đối với
những người vi phạm để xảy ra TNLĐ nghiêm trọng cũng chưa nghiêm, chưa kịp thời;
- Một số vụ xác định nguyên nhân
gây tai nạn chưa chính xác nên chưa đưa ra được các biện pháp an toàn để phòng
ngừa TNLĐ tái diễn.
III. THIỆT HẠI VỀ VẬT CHẤT
Theo số liệu báo cáo của 60/63
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, thiệt hại về vật chất do tai nạn lao
động xảy ra trong 6 tháng đầu năm 2009 (chi phí tiền thuốc men, mai táng, tiền
bồi thường cho gia đình người chết và những người bị thương,…) là: 10.064.000.000đ,
thiệt hại về tài sản là 1.477.300.000đ, tổng số ngày nghỉ (kể cả nghỉ chế độ)
do TNLĐ lên đến 21.166 ngày.
IV. MỘT SỐ VỤ TAI NẠN LAO ĐỘNG NGHIÊM TRỌNG XẢY RA TRONG 6 THÁNG ĐẦU NĂM
2009.
- Vào khoảng 15 giờ ngày
6/1/2009, tại km 112 + 900 Tỉnh lộ 105 nối 2 huyện biên giới Sông Mã – Sốp Cộp,
thuộc địa phận xã Sốp Cộp, huyện Sốp Cộp (Sơn La) đã xảy ra vụ sạt lở núi đá
bên ta-luy dương của con đường đang thi công, làm 4 công nhân đang thi công
đoạn đường này chết và mất tích.
- Sự cố đứt cáp treo tại công
trường xây dựng Cầu Trà Ôn xảy ra vào lúc 23 giờ ngày 12/4/2009 làm 2 người
chết, 03 người bị mất tích.
- Ngày 19/6/2009, một vụ nổ mìn
khai thác đá tại mỏ đá Hương Bình (xã Hương Bình, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa
Thiên Huế) làm cả 4 người chết.
V. TÌNH HÌNH ĐIỀU TRA VÀ THỐNG KÊ BÁO CÁO TAI NẠN LAO ĐỘNG
1. Điều tra.
Nhìn chung các vụ TNLĐ đã được
điều tra đúng quy định tại Thông tư liên tịch 14/2005/TTLT-BLĐTBXH-BYT-TLĐLĐVN
ngày 08/3/2005 của Liên tịch Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội – Bộ Y tế -
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Tuy nhiên nhiều địa phương không thực hiện
báo cáo nhanh các vụ tai nạn lao động nghiêm trọng và còn chậm gửi biên bản
điều tra về Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. Trong số 231 vụ tai nạn lao
động chết người 6 tháng đầu năm, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội mới nhận
được biên bản điều tra hoặc báo cáo nhanh của 35 vụ tai nạn lao động.
2. Báo cáo tai nạn lao động
Việc báo cáo tình hình tai nạn
lao động theo mẫu mới quy định tại Thông tư liên tịch số 14/2005/TTLT-BLĐTBXH-BYT-TLĐLĐVN
ngày 08/3/2005 của Liên tịch Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội – Bộ Y tế -
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã được các địa phương thực hiện. Tuy nhiên
một số địa phương vẫn chưa phân tích được tình hình TNLĐ nói chung mà chỉ thống
kê được tổng số vụ TNLĐ chết người.
Tình trạng nhiều địa phương chưa
thống kê, báo cáo đầy đủ số doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn và số doanh
nghiệp có báo cáo tình hình TNLĐ; một số chỉ tiêu trong mẫu báo cáo chưa cập
nhật và tổng hợp đầy đủ hoặc thiếu chính xác, không logíc, thể hiện sự hời hợt
trong công tác thống kê, báo cáo; gửi báo cáo về Bộ LĐTBXH chậm so với thời
gian quy định vẫn tiếp diễn, gây khó khăn khi tổng hợp đánh giá tình hình tai
nạn lao động trên toàn quốc. Các đơn vị gửi báo cáo đúng thời gian quy định
(15/7) gồm: Cần Thơ, Đồng Tháp; Hải Dương, Tp. Hồ Chí Minh; Hưng Yên; Kon Tum;
Long An; đến ngày 12/8/2009 còn 03 (ba) địa phương chưa gửi báo cáo là: Hà Nam,
Bắc Kạn và Tây Ninh.
Các doanh nghiệp không báo cáo
TNLĐ theo quy định ngày càng nhiều gây nhiều khó khăn cho công tác thống kê tai
nạn lao động. Theo thống kê chưa đầy đủ (29/63 địa phương) trong 6 tháng đầu
năm 2009 số doanh nghiệp tham gia báo cáo chiếm 7,94% tổng số doanh nghiệp được
thống kê.
C. MỘT SỐ NỘI DUNG CẦN THỰC
HIỆN NHẰM LÀM GIẢM TAI NẠN LAO ĐỘNG
Để chủ động phòng ngừa TNLĐ
trong thời gian tới, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đề nghị các Bộ, ngành,
địa phương và các doanh nghiệp thực hiện tốt các nội dung chính sau đây:
1. Thanh tra Lao động tăng cường
thanh tra việc thực hiện các quy định của Nhà nước về an toàn; vệ sinh lao động
ở tất cả các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Cần lưu ý đến các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh và các lĩnh vực: xây dựng; lắp đặt, sửa chữa và sử dụng
điện; khai thác khoáng sản và khai thác đá; sử dụng các thiết bị có yêu cầu
nghiêm ngặt về an toàn lao động. Kiên quyết xử lý nghiêm minh, kịp thời đối với
các hành vi vi phạm pháp luật lao động, đặc biệt đối với những hành vi không
chấp hành nghiêm chỉnh công tác thống kê báo cáo TNLĐ, theo quy định tại Nghị
định số 113/2004/NĐ-CP ngày 16/4/2004 của Chính phủ.
2. Các Bộ, ngành, tập đoàn, tổng
công ty tăng cường kiểm tra và chỉ đạo các đơn vị thuộc quyền quản lý của mình
thực hiện đầy đủ các quy định của Nhà nước về an toàn lao động, vệ sinh lao
động và các chế độ BHLĐ. Tổ chức huấn luyện về an toàn lao động, vệ sinh lao
động cho người sử dụng lao động theo quy định tại Thông tư số
37/2005/TT-BLĐTBXH ngày 29/12/2005 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.
3. Người sử dụng lao động phải
thường xuyên kiểm tra máy, thiết bị và cải thiện điều kiện lao động để đảm bảo
cho người lao động được làm việc trong môi trường an toàn; xây dựng đầy đủ các
quy trình, biện pháp làm việc an toàn, vệ sinh lao động theo hướng dẫn tại các
Tiêu chuẩn, Quy chuẩn kỹ thuật về an toàn lao động và hướng dẫn cho người lao
động trước khi làm việc; tổ chức huấn luyện về an toàn lao động, vệ sinh lao
động cho người lao động theo quy định tại Thông tư số 37/2005/TT-BLĐTBXH ngày
29/12/2005 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội; tăng cường công tác tuyên
truyền, giáo dục pháp luật về an toàn – vệ sinh lao động cho người lao động, để
người lao động có ý thức tự giác chấp hành các quy định về an toàn, vệ sinh lao
động. Đặc biệt chú ý đối với những người lao động làm các công việc nặng nhọc,
nguy hiểm, độc hại hoặc vận hành các máy, thiết bị có yêu cầu nghiêm ngặt về an
toàn lao động, vệ sinh lao động.
4. Thực hiện tốt việc phối hợp
với các cơ quan có thẩm quyền để tiến hành điều tra kịp thời, kết luận chính
xác nguyên nhân các vụ tai nạn lao động chết người trong các doanh nghiệp thuộc
các thành phần kinh tế, giúp các doanh nghiệp nhanh chóng ổn định sản xuất,
kinh doanh sau khi tai nạn lao động xảy ra và đảm bảo thời gian điều tra, lập
biên bản các vụ tai nạn lao động theo đúng quy định của pháp luật. Chú ý đến
các doanh nghiệp nhỏ và vừa có quy trình sản xuất phức tạp, độc hại, ảnh hưởng
môi trường nhưng thiếu ý thức phòng ngừa TNLĐ.
5. Tăng cường công tác tuyên
truyền pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động nhằm nâng cao trách nhiệm đối với
các đơn vị, cơ sở sản xuất kinh doanh và người lao động để mọi người đều có ý
thức cảnh giác và phòng ngừa tai nạn lao động.
Nơi nhận:
- Thủ tướng Chính phủ (để b/c);
- Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải (để b/c);
- Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng (để b/c);
- Bộ trưởng (để b/c);
- Các Thứ trưởng Bộ LĐTBXH;
- Văn phòng Chính phủ;
- Văn phòng TW Đảng;
- Văn phòng Quốc hội;
- Văn phòng Chủ tịch nước;
- Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội;
- UBND, Sở LĐTBXH các tỉnh, thành phố trực thuộc TW;
- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, CQ thuộc CP;
- Viện Kiểm sát nhân dân tối cao;
- Tòa án nhân dân tối cao;
- Bộ Y tế;
- Tổng Liên Đoàn lao động VN;
- Thanh tra Bộ; Vụ KH-TC;
- Lưu VT, Cục ATLĐ.
|
KT.
BỘ TRƯỞNG
THỨ TRƯỞNG
Bùi Hồng Lĩnh
|