ỦY BAN
NHÂN DÂN
TỈNH QUẢNG BÌNH
--------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số:
51/2006/QĐ-UBND
|
Đồng
Hới, ngày 26 tháng 11 năm 2006
|
QUYẾT ĐỊNH
PHÊ DUYỆT CHƯƠNG TRÌNH PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP - TIỂU THỦ CÔNG NGHIỆP VÀ
NGÀNH NGHỀ NÔNG THÔN TỈNH QUẢNG BÌNH, GIAI ĐOẠN 2006 - 2010
ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH
QUẢNG BÌNH
Căn cứ Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân
và Ủy ban nhân dân ngày 26 tháng 11 năm 2003;
Căn cứ Quyết định số 3150/QĐ-UBND
ngày 14 tháng 11 năm 2006 của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình về việc phê duyệt
Quy hoạch phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tỉnh Quảng Bình đến năm
2010 và 2015, tầm nhìn đến năm 2020;
Căn cứ Kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội 5 năm 2006 - 2010 tỉnh Quảng Bình và Chương trình hành động số 05/CTr-TU
ngày 18 tháng 9 năm 2006 của Tỉnh ủy về thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ X của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV;
Xét đề nghị của Giám đốc Sở Công
nghiệp tại Tờ trình số 418/TTr-SCN ngày 14 tháng 11 năm 2006,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Phê duyệt và ban hành kèm theo Quyết định này Chương trình Phát triển
công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và ngành nghề nông thôn tỉnh Quảng Bình,
giai đoạn 2006 - 2010.
Điều 2. Giao cho Sở Công nghiệp chủ trì, phối hợp với các sở, ban, ngành liên
quan và Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố
Đồng Hới tổ chức triển khai thực hiện Chương trình.
Điều 3. Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký.
Điều 4. Chánh Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh,
Giám đốc Sở Công nghiệp, Giám đốc các sở, Thủ trưởng các ban, ngành, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố Đồng Hới và các
tổ chức, cá nhân có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.
Nơi nhận:
- Như Điều 4;
- TT Tỉnh ủy; (b/c)
- TT HĐND tỉnh; (b/c)
- Chủ tịch, các PCT; (b/c)
- Bộ CN, Bộ KH - ĐT; (b/c)
- Lưu VT, CVTH.
|
TM.
ỦY BAN NHÂN DÂN
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH
Nguyễn Hữu Hoài
|
CHƯƠNG TRÌNH
PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP - TIỂU THỦ CÔNG NGHIỆP VÀ NGÀNH NGHỀ NÔNG THÔN
TỈNH QUẢNG BÌNH GIAI ĐOẠN 2006 - 2010
(Ban hành kèm theo Quyết định số 51/2006/QĐ-UBND ngày 26
tháng 11 năm 2006 của Ủy ban nhân dân tỉnh
Quảng Bình )
Phần thứ nhất
THỰC TRẠNG CÔNG NGHIỆP - TIỂU THỦ CÔNG NGHIỆP VÀ NGÀNH NGHỀ NÔNG THÔN
GIAI ĐOẠN 2001 - 2005
I. Kết quả đạt được
1. Về giá trị sản
xuất công nghiệp và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Giá trị sản xuất công nghiệp (GTSXCN) năm 2005 đạt 1.580
tỷ đồng, tăng 2,26 lần so với năm 2000, tốc độ tăng bình quân hàng năm là
17,74%, đạt mục tiêu kế hoạch 5 năm đề ra. Trong đó: Công nghiệp Quốc doanh
(CNQD) tăng 14,05%; công nghiệp ngoài quốc doanh (CNNQD) tăng 21,1%; công
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) chiếm tỷ trọng thấp, có xu hướng giảm.
Các sản phẩm chủ yếu của ngành CN - TTCN như: Xi măng,
gạch men, thanh nhôm định hình, chế biến nhựa thông, cao su mủ khô, gỗ xẻ, bia,
nước khoáng…đều tăng khá, năm sau cao hơn năm trước, đáp ứng nhu cầu thị trường
trong và ngoài tỉnh, góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu.
Cơ cấu kinh tế của tỉnh đã chuyển dịch theo hướng tích
cực, tỷ trọng giá trị CN - XD trong GDP của tỉnh ngày càng cao. Năm 1995 chiếm
19,13% GDP, năm 2000 chiếm 24,81% GDP, đến năm 2005 là 32,05% GDP.
Cơ cấu trong nội bộ Ngành cũng được chuyển dịch đúng
hướng, khai thác tốt các tiềm năng lợi thế của tỉnh: Ngành sản xuất vật liệu
xây dựng ngày càng chiếm ưu thế, năm 2000 tỷ trọng chiếm 31,35% trong giá trị
sản xuất toàn ngành, đã tăng lên 39,14% vào năm 2005.
Sản xuất TTCN và NNNT có bước phát triển khá, ngày càng
thích ứng với cơ chế thị trường, linh hoạt và chủ động trong lựa chọn các hình
thức đầu tư, tổ chức sản xuất và cơ cấu mặt hàng…trong đó một số huyện, thành
phố đạt tốc độ phát triển bình quân hàng năm khá cao: Bố Trạch 20,35%, Quảng
Ninh 22,6%, Tuyên Hóa 16,8%...
(Xem chi tiết Phụ lục 1)
2. Về đầu tư phát triển
sản xuất
Các đơn vị công nghiệp quốc doanh đã đẩy mạnh việc đầu tư
phát triển sản xuất, cải tiến thiết bị công nghệ, đồng thời tích cực chuyển
hướng kinh doanh đa ngành, đa nghề, chú trọng sử dụng có hiệu quả đồng vốn,
thiết bị, lao động, khai thác được các tiềm năng, lợi thế của địa phương. Nhiều
cơ sở sản xuất được xây dựng và đưa vào hoạt động, góp phần giải quyết việc làm
và tăng thu ngân sách địa phương như: các nhà máy xi măng: Áng Sơn, Thanh
Trường, Sông Gianh, bia Hà Nội - Quảng Bình, nước khoáng Bang; các nhà máy chế
biến gỗ: Việt - Ý, Phương Anh, Phú Quý và Ba Đồn; Nhà máy đóng
tàu Quán Hàu, Xí nghiệp may Hà Quảng, Xí nghiệp sản xuất bao bì COSEVCO Quảng
Liên, các nhà máy thủy sản đông lạnh xuất khẩu…
Tình hình phát triển sản xuất khu vực công nghiệp ngoài
quốc doanh trong thời gian qua đã có chuyển biến đáng kể, một số doanh nghiệp
cổ phần hóa đã bắt đầu làm ăn có hiệu quả, nhiều doanh nghiệp tư nhân đã mạnh
dạn đầu tư phát triển sản xuất trên nhiều ngành nghề, lĩnh vực. Nhiều nghề
TTCN, làng nghề truyền thống đã được khôi phục phát triển như: Mây tre xuất
khẩu, chế biến hải sản, mộc mỹ nghệ, chiếu cói... Một số dự án đã đi vào sản
xuất có hiệu quả như: Đóng và sửa chữa tàu thuyền, chế biến hải sản tại xã Cảnh
Dương, sản xuất dây đai nẹp nhựa (Quảng Trạch), chế biến mây nguyên liệu Phương
Bắc, tơ tằm (Tuyên Hóa), rượu Vạn Lộc, nước mắm Quy Đức (Bố Trạch), sản xuất
mộc mỹ nghệ, vật liệu xây dựng, thêu ren (Đồng Hới), sản xuất ở HTX mộc mỹ nghệ
cao cấp Tân Tiến, mây tre xuất khẩu của Công ty Vĩnh An (Quảng Ninh), chiếu cói
An Xá, rượu Lộc Thủy (Lệ Thủy)... đã góp phần tạo sự chuyển biến tích cực, thúc
đẩy sản xuất phát triển.
Công tác khuyến công đã đạt được một số kết quả như: Tổ
chức tuyên truyền đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và của
tỉnh về khuyến khích phát triển TTCN và NNNT; hướng dẫn lập dự án đầu tư, tổ
chức đào tạo nghề, phổ biến kinh nghiệm sản xuất, các mô hình làm ăn giỏi, tư
vấn về công nghệ sản xuất, lựa chọn phát triển ngành nghề, thị trường tiêu
thụ... Đồng thời vận động các chủ doanh nghiệp, hộ gia đình mạnh dạn bỏ vốn đầu
tư phát triển sản xuất. Đến nay, vốn khuyến công đã hỗ trợ cho gần 80 dự án đầu
tư phát triển sản xuất, tổ chức tham quan học tập kinh nghiệm các tỉnh, tổ chức
các lớp đào tạo nghề, tập huấn nghiệp vụ với tổng số tiền là 1.509 triệu đồng.
Ngoài ra, nguồn vốn khuyến công Trung ương đã hỗ trợ cho 2 dự án để đầu tư máy
móc thiết bị, chuyển giao công nghệ và xây dựng mô hình trình diễn kỹ thuật với
số tiền là 180 triệu đồng.
3. Đầu tư xây dựng cơ sở
hạ tầng khu, cụm, điểm CN - TTCN
3.1. Công tác xây dựng quy hoạch
Ủy ban nhân dân tỉnh đã xây dựng
và phê duyệt Quy hoạch phát triển các khu công nghiệp tỉnh Quảng Bình đến năm
2010; Quy hoạch tổng thể phát triển cụm, điểm TTCN và NNNT tỉnh Quảng Bình đến
năm 2005 và 2010 và triển khai xây dựng Quy hoạch phát triển công nghiệp - TTCN
đến năm 2010 và năm 2015, tầm nhìn đến năm 2020 và đang từng bước triển khai
thực hiện các quy hoạch trên.
3.2. Đầu tư xây dựng các khu, cụm, điểm CN - TTCN và làng
nghề
Khu công nghiệp: Hiện nay về cơ bản đã đầu tư xây dựng
xong cơ sở hạ tầng KCN Tây Bắc Đồng Hới và tổ chức thu hút đầu tư khoảng 80%
diện tích sử dụng. Đang triển khai đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng Khu công
nghiệp Cảng biển Hòn La.
Về cụm điểm TTCN và làng nghề: Triển khai thực hiện Quy
hoạch phát triển tổng thể cụm điểm TTCN và NNNT đến 2010, từ năm 2004 Ủy ban nhân dân tỉnh đã triển khai đầu tư xây dựng
dự án điểm làng nghề Cảnh Dương - huyện Quảng Trạch với mức vốn đầu tư 3 tỷ
đồng, đã hoàn thành bàn giao cho xã Cảnh Dương quản lý sử dụng, hiện đã thu hút
17 dự án đang làm thủ tục triển khai đầu tư phát triển sản xuất. Năm 2005 -
2006 tiếp tục đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng làng nghề Đức Trạch
- Bố Trạch, làng nghề Thuận Đức, Tân Sơn - Đồng Hới, đồng thời
thực hiện các bước để tiếp tục đầu tư cụm điểm TTCN Cam Liên
- Lệ Thủy, Quảng Thọ - Quảng Trạch, tiểu khu Lưu Thuận - Tuyên Hóa và một số
cụm điểm TTCN, làng nghề khác.
Việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng các khu, cụm, điểm CN,
TTCN, làng nghề bước đầu đã tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích, thu hút các
doanh nghiệp, cơ sở sản xuất TTCN mạnh dạn bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất,
góp phần hạn chế ô nhiễm môi trường, sinh thái.
4. Về cơ sở sản xuất và
giải quyết việc làm cho người lao động
4.1. Cơ sở sản xuất và lượng lao động
Theo
xu hướng phát triển và điều tiết của cơ chế thị trường các cơ sở sản xuất CN -
TTCN và NNNT của tỉnh tuy có giảm về số lượng, nhưng về quy mô, hiệu quả kinh
doanh và thu hút lao động của các cơ sở sản xuất đều tăng.
Lao động làm việc trong ngành Công nghiệp trong thời gian
qua tăng cả về số lượng và chất lượng, năm 2005 có 43.129 người, tăng 4.902
người so với năm 2000, tuy mức tăng bình quân hàng năm chưa cao (980
người/năm - chưa tính số lao động theo thời vụ) nhưng đã góp phần giải
quyết việc làm và tạo thu nhập ổn định cho một bộ phận đáng kể người lao động
đặc biệt là lao động ở khu vực nông thôn.
4.2. Công tác đào tạo nghề
Công tác đào tạo nghề đã được chú ý, ngoài số lao động
được đào tạo trong các trường, các trung tâm dạy nghề của tỉnh, huyện, thành
phố và tự đào tạo, ngành Công nghiệp đã tổ chức đào tạo được hơn 50 lớp học cho
hơn 1.000 học viên với các nghề sản xuất mây tre đan, mây xiên, mộc mỹ nghệ,
thêu ren, may đo quần áo... Phần lớn các học viên sau khi học nghề đều có việc
làm và thu nhập ổn định trong các cơ sở sản xuất TTCN trên địa bàn tỉnh.
II. Một số tồn tại, hạn
chế
- Kết quả phát triển công nghiệp trong những năm qua chưa
tương xứng với tiềm năng và thế mạnh của tỉnh, chưa tạo ra sự đột phá trong
phát triển công nghiệp, làm đòn bẩy để chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh, mức
tăng trưởng chậm và thiếu tính vững chắc;
-
Hầu hết các cơ sở sản xuất công nghiệp có quy mô còn nhỏ, công nghệ máy
móc thiết bị lạc hậu, thiếu vốn sản xuất kinh doanh, sức cạnh tranh còn yếu.
Một số dự án đầu tư do chưa tính toán kỹ các yếu tố về vốn, công nghệ, thiết
bị, nguyên liệu, thị trường tiêu thụ sản phẩm…nên chưa khai thác hết công suất
máy móc thiết bị, hiệu quả đầu tư thấp, thậm chí thua lỗ phải giải thể;
-
Cơ sở hạ tầng kỹ thuật chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển. Các công trình xây
dựng lớn của tỉnh triển khai chậm, thiếu đồng bộ, như: Hạ tầng các khu công
nghiệp, cụm điểm TTCN, đặc biệt một số công trình trọng điểm: Sân bay Đồng Hới,
cảng biển Hòn La, đường 12A, cầu Kiến Giang…cùng với môi trường đầu tư chưa
được cải thiện đầy đủ đã làm hạn chế lớn đến nhu cầu và kết quả đầu tư, chưa
thực sự là nhân tố hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển sản xuất, giảm chi phí,
hạ giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh và thu hút đầu tư.
-
Về TTCN và NNNT: Các ngành nghề TTCN chuyển biến chậm, sản xuất còn manh mún,
mang tính tự phát; chủ yếu là thủ công, quy mô, sản lượng còn nhỏ, mặt hàng đơn
điệu, chưa có nhiều sản phẩm hàng hóa mang thương hiệu đặc thù và truyền thống
của địa phương. Việc lựa chọn, tổ chức học tập du nhập phát triển nghề mới còn
nhiều khó khăn. Hiệu quả thực hiện Chương trình phát triển TTCN và NNNT còn
thấp, công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện chương trình chưa quyết liệt, thiếu
sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp, các ngành. Một số cơ chế chính sách khuyến
khích phát triển sản xuất TTCN và NNNT chưa phù hợp với tình hình hiện nay, khi
triển khai còn nhiều vướng mắc, bất cập, kinh phí dành cho khuyến công chưa
nhiều, tác động của khuyến công chưa cao.
-
Tình hình thu hút các dự án đầu tư vào các khu cụm điểm CN - TTCN và làng nghề
chuyển biến chậm, phần lớn các dự án đầu tư có quy mô nhỏ, trình độ công nghệ
còn hạn chế, hiệu quả đầu tư chưa cao.
- Đội ngũ cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý, cán bộ làm công
tác khuyến công còn thiếu, năng lực một số cán bộ còn hạn chế, chưa thích ứng
kịp với cơ chế thị trường, lực lượng lao động tuy đông nhưng trình độ tay nghề
thấp, phần lớn chưa qua đào tạo, số lượng lao động kỹ thuật, thợ bậc cao rất
ít.
III. Nguyên nhân
1. Nguyên nhân của những
kết quả
- Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, trong những năm
qua Nhà nước và tỉnh đã ban hành nhiều văn bản, chủ trương, chính sách nhằm
khuyến khích phát triển sản xuất nên đã có tác động tích cực, khuyến khích các
thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển sản xuất hàng hóa.
- Được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban
nhân dân tỉnh, sự giúp đỡ của các Bộ, ngành Trung ương, tỉnh đã đầu tư
nâng cấp xây dựng hoàn thiện dần kết cấu hạ tầng về giao thông, điện, nước,
thông tin liên lạc, các khu kinh tế, khu công nghiệp, cụm tiểu thủ công nghiệp
tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất phát triển, thu hút và thực hiện được một số dự
án đầu tư phát triển sản xuất.
-
Các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, các hộ gia đình, đặc biệt là trong khu vực
dân doanh đã từng bước trưởng thành, ngày càng năng động hơn trong việc nắm bắt
nhu cầu của thị trường, tổ chức sản xuất phù hợp và có hiệu quả. Nhiều hộ dân,
doanh nghiệp đã mạnh dạn bỏ vốn đầu tư vùng nguyên liệu, cung cấp dịch vụ, tổ
chức chế biến các loại nông, lâm, hải sản sau thu hoạch… làm giàu cho mình và
xã hội, thực sự là nòng cốt làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp và
nông thôn.
2. Nguyên nhân của những tồn tại
- Một số sở, ban, ngành cấp tỉnh, lãnh đạo địa phương chưa
nhận thức đầy đủ, quan tâm đúng mức và có sự phối hợp chặt chẽ trong việc hỗ
trợ, khuyến khích phát triển sản xuất CN - TTCN và NNNT; nhận thức của một bộ
phận các doanh nghiệp và người dân còn mang nặng tư tưởng bao cấp, trông chờ ỷ
lại vào Nhà nước, chưa chịu khó tìm tòi phát triển sản xuất, vươn lên làm giàu
cho gia đình và xã hội.
- Xuất phát điểm ngành Công nghiệp tỉnh ta còn thấp, quy
mô còn nhỏ, kết cấu hạ tầng kỹ thuật còn yếu kém, các ngành công nghiệp bổ trợ
chưa phát triển; năng suất, chất lượng lao động và trình độ công nghệ còn thấp,
chậm đổi mới, chi phí sản xuất cao. Ngoài ra các yếu tố tiêu cực bên ngoài như
giá cả không ổn định, luôn biến động theo chiều hướng tăng, đặc biệt là: Xăng
dầu, thép, xi măng, điện, nước, tiền lương của người lao động, trong lúc đó giá
bán của sản phẩm phải hạ để cạnh tranh trên thị trường đã tác động không nhỏ
đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của các cơ sở sản xuất.
- Tổ chức bộ máy, công tác cán bộ và cải cách hành chính
trong ngành còn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển trong tình hình mới. Đội
ngũ cán bộ chuyên môn quản lý Nhà nước về CN - TTCN và NNNT ở tỉnh và các
huyện, thành phố còn thiếu, chất lượng chưa cao.
- Thiếu tính chủ động trong quá trình chỉ đạo và điều hành
thực hiện. Tư tưởng chủ quan, tự hài lòng với thành tích đã đạt được làm giảm ý
chí phấn đấu. Sự phối hợp giữa các sở, ban, ngành, địa phương chưa chặt chẽ,
còn mang tính hình thức, do vậy các giải pháp điều hành chậm thực hiện, hiệu
quả chưa cao.
Phần thứ hai
CHƯƠNG
TRÌNH PHÁT TRIỂN CN - TTCN VÀ NNNT TỈNH QUẢNG BÌNH GIAI ĐOẠN 2006 - 2010
I. Dự báo tình hình phát
triển CN - TTCN trong thời gian tới
1. Những thuận lợi cơ bản
Trong những năm tới Chương trình Phát triển CN - TTCN và
NNNT triển khai thực hiện trong bối cảnh có nhiều thuận lợi: Đây là thời kỳ mà
toàn Đảng, toàn dân trong tỉnh ra sức thi đua đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV. Về
phát triển kinh tế - xã hội: Cơ chế chính sách của Nhà nước và của tỉnh có
nhiều thay đổi theo hướng tạo môi trường thuận lợi, khuyến khích phát triển sản
xuất kinh doanh; sự hình thành các khu kinh tế, khu công nghiệp, cụm TTCN, làng
nghề, khu du lịch; cơ sở hạ tầng và dịch vụ được cải thiện; thị trường từng
bước được mở rộng tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy sản xuất, dịch vụ phát triển.
Tiềm năng về nguồn tài nguyên khoáng sản khá phong phú,
trong đó có các mỏ đá vôi để sản xuất xi măng, cát thạch anh, cao lanh…là những
tài nguyên có trữ lượng lớn, chất lượng tốt; nguồn nguyên liệu từ nông, lâm,
thủy sản dồi dào và đa dạng; lực lượng lao động đông đảo với đức tính cần cù,
chịu khó sẽ là những thế mạnh để phát triển CN - TTCN và NNNT...
Từ những kết quả đạt được trong giai đoạn 2001-2005, cùng
với sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ, xu thế hội nhập kinh
tế quốc tế và khu vực, nhất là khi nước ta gia nhập WTO… là những cơ sở, tiền
đề quan trọng, đồng thời cũng mở ra những cơ hội để phát huy nội lực, thu hút
đầu tư, đẩy mạnh phát triển CN - TTCN và NNNT trong giai đoạn 2006 - 2010.
2. Những khó khăn thách
thức
Ngoài
những khó khăn tồn tại đã nêu trên, trong giai đoạn 2006 - 2010, sản xuất CN -
TTCN và NNNT tiếp tục gặp phải nhiều khó khăn, thách thức do giá các loại
nguyên, vật liệu đầu vào tăng cao như: Thép, xi măng, than, điện, nước, lương
của người lao động, đặc biệt là giá xăng dầu liên tục tăng cao, trong lúc đó
giá bán của sản phẩm phải hạ để cạnh tranh trên thị trường.
Mặt
khác với việc khi Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại Thế giới (WTO) và thực
hiện hiệp định AFTA thì mức độ cạnh tranh sản phẩm hàng hóa trên thị trường sẽ
diễn ra ngày càng quyết liệt hơn, đặc biệt là các sản phẩm công nghiệp chế biến
phục vụ sản xuất, tiêu dùng và xuất khẩu.
Tình
hình đó đòi hỏi các cấp, các ngành, địa phương và các doanh nghiệp, cơ sở sản
xuất phải khắc phục mọi khó khăn, thách thức, tăng cường phát triển kinh tế,
phấn đấu hoàn thành các mục tiêu Chương trình Phát triển TTCN và NNNT giai đoạn
2006 - 2010.
II. Phương hướng, mục
tiêu
1. Phương hướng
Tập trung khai thác có hiệu quả các cơ sở sản xuất hiện
có, đồng thời đầu tư phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế về nguyên
liệu, thị trường và lao động sẵn có ở địa phương, trước hết là công nghiệp sản
xuất vật liệu xây dựng, chế biến nông lâm thủy sản, cơ khí...; ưu tiên phát
triển các ngành công nghiệp có hàm lượng công nghệ, kỹ thuật cao, ít ô nhiễm
môi trường; chú trọng phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa; khôi phục và phát
triển các ngành nghề TTCN, làng nghề, làng nghề truyền thống; tạo điều kiện
thuận lợi cho các thành phần kinh tế tham gia phát triển sản xuất CN - TTCN và
NNNT góp phần hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội giai đoạn 2006 - 2010,
chuẩn bị các điều kiện cho sự tăng trưởng cao trong những giai đoạn tiếp theo.
2. Mục tiêu
2.1. Mục tiêu chung
Tiếp
tục cải thiện môi trường đầu tư, thu hút mạnh các thành phần kinh tế, phát
triển công nghiệp với tốc độ cao để công nghiệp thực sự đóng vai trò trọng tâm
làm đòn bẩy chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế của tỉnh theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa.
Phát triển TTCN và NNNT nhằm tạo sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng tăng dần giá trị sản xuất công nghiệp - TTCN, các ngành nghề
và dịch vụ, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, đặc
biệt là khu vực nông thôn.
2.2. Mục tiêu cụ thể
Từ nay đến năm 2010, phấn đấu đạt các chỉ tiêu cơ bản sau:
* Giá trị sản xuất công nghiệp toàn ngành (giá CĐ 1994)
đạt 4.000 tỷ đồng, tăng gấp 2,53 lần so với năm 2005, tốc độ tăng trưởng bình
quân hàng năm 20 - 21%.
Trong đó: Giá trị sản xuất công nghiệp đạt 3.100 tỷ đồng,
tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là 24 - 25%; giá trị sản xuất TTCN và
NNNT đạt 900 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là 16 - 17%.
* Đưa từ 2 - 3 dự án sản xuất công nghiệp có quy mô lớn,
mức đóng góp ngân sách cao vào hoạt động, đồng thời chuẩn bị các bước đầu tư từ
2 - 3 dự án cho giai đoạn sau 2010. Hàng năm, mỗi huyện, thành phố phát triển
từ 3 - 5 doanh nghiệp, HTX sản xuất TTCN và NNNT có quy mô thu hút từ 10 lao
động trở lên. Tạo và giải quyết việc làm khoảng 1.500 lao động/năm (chưa kể lao
động có việc làm theo thời vụ ở nông thôn).
* Đầu tư xây dựng mới từ 1 - 2 Khu công nghiệp; đầu tư xây
dựng, phát triển các cụm, điểm TTCN và khu làng nghề theo quy hoạch, cụ thể:
Các huyện Quảng Trạch, Bố Trạch, thành phố Đồng Hới hình thành mỗi địa phương 2
- 3 cụm, các huyện còn lại hình thành từ 1 - 2 cụm.
*
Về phát triển làng nghề: Hàng năm xây dựng, hình thành và công nhận 2 - 3 làng
nghề theo tiêu chí ban hành.
III. Nội dung chương
trình
1. Phát triển các ngành
CN - TTCN và NNNT
1.1. Công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng (VLXD)
Tiếp tục đầu tư hoàn thiện công nghệ, cải tạo, nâng cấp và
khai thác tối đa công suất các cơ sở sản xuất hiện có, tập trung xúc tiến đầu
tư một số nhà máy xi măng công suất lớn trên địa bàn. Khuyến khích đầu tư phát
triển sản xuất các mặt hàng gốm sứ, thủy tinh, gạch không nung, ngói chống rêu,
các loại vật liệu trang trí nội thất chất lượng cao đáp ứng nhu cầu phát triển
của ngành xây dựng trên địa bàn, tạo nguồn hàng vững chắc, ổn định hướng đến
xuất khẩu.
- Các dự án ưu tiên:
+ Xây dựng mới Nhà máy xi măng Áng Sơn theo công nghệ lò
quay, công suất 50 vạn tấn/năm; di chuyển trạm nghiền xi măng số 1 ra khỏi nội
thành Đồng Hới, đồng thời cải tạo dây chuyền thiết bị nâng công suất lên khoảng
20 vạn tấn/năm;
+ Tập trung khai thác có hiệu quả công suất của Nhà máy xi
măng Sông Gianh, đồng thời chuẩn bị các bước để triển khai đầu tư giai đoạn 2
nhằm nâng công suất nhà máy;
+ Đầu tư cải tạo, đổi mới công nghệ thiết bị và đảm bảo
tiêu chuẩn môi trường các Nhà máy xi măng lò đứng Áng Sơn, Thanh Trường; ổn
định và từng bước nâng công suất các Nhà máy gạch Tuynel Đồng Lê (Tuyên Hóa),
Phú Thủy (Lệ Thủy), Thọ Lộc (Bố Trạch); đầu tư chuyển đổi công nghệ lò đốt từ dầu
sang than đá và nâng công suất Nhà máy gốm sứ COSEVCO lên 2 triệu m2/năm;
tạo điều kiện xây dựng mới, nâng cấp một số
cơ sở sản xuất gốm sứ, VLXD mới ở thành phố Đồng Hới, Bố Trạch và các địa
phương khác;
+ Xúc tiến đầu tư Nhà máy xi măng công suất lớn tại Thanh
Hà (Bố Trạch); kêu gọi đầu tư Nhà máy tấm lợp tôn màu (Đồng Hới), Nhà máy khai
thác và chế biến cát thủy tinh xây dựng và dân dụng (Quảng Trạch).
-
Về TTCN: Quy hoạch và tổ chức tốt các hoạt động khai thác VLXD khuyến khích và
hỗ trợ chuyển đổi các lò gạch ngói thủ công sang công nghệ lò gạch Tuynel; phát
triển sản xuất các loại vật liệu trang trí nội thất có tính mỹ nghệ cao, các
loại gạch lát nền, vỉa hè, bó vỉa, gạch Blốc, ngói chống rêu…nhằm đáp ứng nhu
cầu xây dựng trên địa bàn.
1.2.
Công nghiệp chế biến nông lâm thủy sản
-
Về chế biến nông sản, thực phẩm: Huy động tối đa công suất các nhà máy đã có,
đầu tư mới và đầu tư mở rộng một số dự án có điều kiện thuận lợi. Phát triển
các cơ sở chế biến bảo quản nông sản sau thu hoạch, sản xuất các sản phẩm
truyền thống như: Bún bánh các loại, đồ uống, giải khát... nhằm phục vụ cho nhu
cầu tiêu dùng của nhân dân và khách du lịch.
- Các dự án ưu tiên:
+ Xây dựng Nhà máy chế biến sản phẩm từ thịt lợn siêu nạc
(liên doanh với công ty VISAN TP Hồ Chí Minh); mở rộng Nhà máy chế biến tinh
bột sắn hiện có, đảm bảo thu mua hết nguyên liệu đã quy hoạch trong dân, đồng
thời đầu tư chiều sâu để có nhiều sản phẩm giá trị cao từ tinh bột sắn;
+
Tiếp tục khai thác có hiệu quả Nhà máy nước khoáng Bang, đồng thời có phương án
xây dựng mới nhà máy công suất cao hơn (khoảng 20 triệu lít/năm) gần khu vực
mỏ. Nâng công suất Nhà máy Bia rượu Hà Nội - Quảng Bình đạt 20 triệu lít/năm
năm 2008 và 30 triệu lít/năm năm 2010;
+ Khuyến khích các cơ sở ngoài quốc doanh phát triển: Chế
biến đồ hộp, thức ăn đóng gói, thức ăn sẵn, sản xuất bia nhà hàng theo dây
chuyền mini; chế biến các loại bún, bánh có chất lượng cao, các loại rượu đặc
sản và các sản phẩm truyền thống của địa phương: Dưa, cà, kiệu… phục vụ nhu cầu
tiêu dùng nội địa, khách du lịch và xuất khẩu; đồng thời có quy hoạch và hỗ trợ
đầu tư chế biến thức ăn gia súc, lò giết mổ gia súc, gia cầm tại các địa phương
của thành phố Đồng Hới và các trung tâm đô thị, công nghiệp khác.
-
Về chế biến thủy sản: Tập trung đầu tư chiều sâu, khai thác hết công suất các
nhà máy đông lạnh hiện có; thực hiện đa dạng hóa các sản phẩm chế biến, nhất là
các sản phẩm chế biến phục vụ xuất khẩu, giảm dần các sản phẩm chế biến thô để
nâng cao giá trị gia tăng.
-
Các dự án ưu tiên:
+ Xây dựng phương án cụ thể về cải tiến công nghệ, tổ chức
sản xuất nhằm khai thác có hiệu quả các Nhà máy đông lạnh Sông Gianh, Nhà máy
đông lạnh Đồng Hới, Xí nghiệp đông lạnh chế biến nông thủy sản Đồng Hới;
+ Đưa vào sử dụng Nhà máy chế biến thủy sản ăn liền Thanh
Trạch, Bố Trạch, công suất (giai đoạn I) 300 tấn SP/năm;
+ Kêu gọi đầu tư xây dựng Nhà máy chế biến thức ăn nuôi
trồng thủy sản, công suất 5.000 tấn SP/năm;
+ Khuyến khích chế biến các sản phẩm truyền thống như:
Nước mắm, hải sản khô, các loại ruốc, mắm, dút... trong các cơ sở, hộ gia đình
ở các xã ven biển, ven sông phục vụ tiêu dùng, du lịch và xuất khẩu. Có kế
hoạch xây dựng thương hiệu cho một số sản phẩm đặc sản của địa phương. Hình
thành một số cơ sở làm vệ tinh sơ chế nguyên liệu cho các nhà máy chế biến thủy
sản. Tổ chức các cơ sở hoạt động dịch vụ thủy sản phù hợp, đáp ứng nhu cầu đánh
bắt, sơ chế, bảo quản nguyên liệu tại các cảng cá, cửa lạch.
-
Về chế biến lâm sản: Tập trung khai thác hết công suất và tiếp tục đầu tư chiều
sâu các nhà máy chế biến gỗ đã xây dựng; khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất
các sản phẩm từ các loại lâm sản, nguyên liệu rừng trồng như: Ván ép tre, giấy
nguyên liệu, gỗ bóc ép, mủ cao su cốm, chế biến song mây. Khôi phục và phát
triển các cơ sở, làng nghề sản xuất các mặt hàng từ: Gỗ, mây, tre, lá nón, cói,
lác, các cây dược liệu...
-
Các dự án ưu tiên:
+ Khai thác có hiệu quả năng lực hiện có, từng bước nâng
công suất các nhà máy chế biến đồ gỗ Phú Quý, Phương Anh, Ba Đồn, Việt - Ý lên
5.000 m³/năm, hình thành cụm chế biến đồ gỗ xuất khẩu nhằm tăng lợi thế đầu tư;
+ Đầu tư nâng cấp các cơ sở chế biến mủ cao su đã có và
xây dựng mới một số điểm chế biến mủ cao su tiểu điền làm vệ tinh cho các nhà
máy; tích cực tìm kiếm, liên doanh để chế biến các sản phẩm sau colophan;
+ Khôi phục và phát triển các cơ sở sản xuất, chế biến các
loại lâm sản, dược liệu: Mộc mỹ nghệ, mộc dân dụng, gỗ ván ép, chiết suất các
loại tinh dầu tràm, chổi, dầu sả...;
+ Khôi phục và phát triển các làng nghề, làng nghề truyền
thống sản xuất các sản phẩm từ: Mây, tre, lá nón, cói... khuyến khích, tạo điều
kiện để các cơ sở, các hộ sản xuất đầu tư thêm máy móc thiết bị, đào tạo nâng
cao tay nghề để vươn lên sản xuất các sản phẩm mỹ nghệ phục vụ tiêu dùng, du
lịch và xuất khẩu.
1.3. Công nghiệp cơ khí, điện tử
Đổi
mới công nghệ thiết bị của các cơ sở sản xuất hiện có nhằm chuyển hướng sản
xuất theo nhu cầu thị trường, thu hút một số dự án đóng mới các phương tiện vận
tải sông, biển. Phát triển các cơ sở sản xuất cơ khí nhỏ và vừa để đảm bảo sản
xuất đủ công cụ phục vụ sản xuất nông lâm ngư nghiệp. Ưu tiên phát triển các cơ
sở sửa chữa, bảo hành các loại phương tiện máy móc cơ khí, hàng điện tử, điện
lạnh ở các trung tâm thành phố, huyện lỵ và các trung tâm, cụm, vùng hoặc tại
các xã nhằm đáp ứng nhu cầu dịch vụ của nhân dân trên địa bàn.
-
Các dự án ưu tiên:
+
Đẩy nhanh tiến độ và đưa vào hoạt động Dự án đóng mới và sửa chữa tàu thuyền
VINASHIN Đồng Hới; khai thác và nâng cao hiệu quả Nhà máy sản xuất thanh nhôm
(dây chuyền 1), đưa dây chuyền 2 vào hoạt động trong năm 2007; xây dựng phương
án khai thác có hiệu quả Nhà máy sản xuất và lắp ráp xe máy VINASIAM; đồng thời
khuyến khích, hỗ trợ, mở rộng nâng cấp Nhà máy sửa
chữa cơ khí ô tô và máy công trình;
+
Xúc tiến đầu tư Nhà máy đóng mới các loại tàu, xà lan sông biển; Nhà máy lắp
ráp và sản xuất điện tử gia dụng, Nhà máy sản xuất các sản phẩm cơ khí phục vụ
công nghiệp xi măng và sản xuất VLXD của tỉnh;
+
Khuyến khích phát triển các cơ sở sản xuất và sửa chữa các sản phẩm cơ khí,
điện tử phục vụ nông nghiệp nông thôn như: Máy động lực nhỏ, máy bơm nước, máy
phục vụ cơ giới hóa khâu canh tác, thiết bị chế biến nông lâm thủy sản và dịch
vụ sửa chữa máy móc thiết bị công trình, các cơ sở nhôm kính, rèn, đồ sắt xây
dựng…tại các cụm điểm TTCN và những địa phương có nhu cầu.
1.4.
Công nghiệp dệt may, da giày
Khai
thác có hiệu quả công suất Nhà máy may xuất khẩu hiện có, đẩy nhanh tốc độ các
dự án đang đầu tư, đồng thời xúc tiến đầu tư các dự án may nhằm hình thành cụm
công nghiệp sản xuất may tại Khu công nghiệp Tây Bắc Đồng Hới và các dự án giày
da nhằm thu hút lao động địa phương.
-
Các dự án ưu tiên:
+ Đầu tư nâng công suất Nhà máy may Hà Quảng lên công suất
5 triệu sản phẩm/năm;
+ Xúc tiến đầu tư các nhà máy may xuất khẩu; Nhà máy may
Jacket xuất khẩu; Nhà máy Giày da xuất khẩu;
+ Khuyến khích phát triển các cơ sở may đo, giày da, dệt
lưới…phục vụ nhu cầu tại chỗ trên các địa bàn.
1.5. Công nghiệp khai thác và chế biến khoáng sản
Đẩy nhanh tốc độ các dự án khai thác và chế biến khoáng
sản đang đầu tư xây dựng. Chú trọng công tác điều tra, thăm dò và phân tích
khoáng sản để làm rõ quy mô hàm lượng, chất lượng để làm cơ sở cho các hoạt động
quản lý khai thác và kêu gọi đầu tư trong thời gian tới.
- Các dự án ưu tiên:
+ Đẩy nhanh tiến độ khảo sát thăm dò và lập dự án khả thi
khai thác Vàng Xà Khía; hình thành bộ máy quản lý và từng bước đầu tư vững
chắc. Hoàn thành việc khảo sát, thăm dò để đầu tư xây dựng Nhà máy chế biến
Mănggan; thúc đẩy Dự án khai thác và chế biến caolanh tinh của công ty KVK;
+ Xúc tiến đầu tư các dự án khai thác chế biến cát thủy
tinh, chế biến cao lanh, chế biến vàng…;
+ Hỗ trợ phát triển các cơ sở khai thác và chế biến VLXD
làm vệ tinh cho Nhà máy xi măng Sông Gianh, xi măng Áng Sơn và các nhà máy khác
nhằm giải quyết nhiều việc làm cho người lao động.
1.6. Công nghiệp điện, nước
Triển khai thực hiện quy hoạch điện lực Quảng Bình đến
2010 đã được Bộ Công nghiệp phê duyệt; khảo sát lập quy hoạch bậc thang thủy
điện thượng nguồn sông Gianh và sông Long Đại; đồng thời tiến hành làm thủ tục
bổ sung vào quy hoạch phát triển điện lực để làm cơ sở xúc tiến kêu gọi đầu tư,
tiến tới chuẩn bị đầu tư nhà máy nhiệt điện công suất lớn, 1 đến 2 nhà máy thủy
điện quy mô nhỏ và một số dự án điện năng lượng mới trên địa bàn. Tiến hành cải
tạo lưới điện trung và hạ áp ở 30 xã thuộc Dự án RE II. Triển khai đầu tư và
đưa vào sử dụng một số nhà máy cấp nước dân sinh và nước phục vụ sản xuất công
nghiệp.
- Các dự án ưu tiên:
+ Hoàn thành và đưa vào khai thác Nhà máy thủy điện Hố Hô,
công suất 13 MW;
+ Chuẩn bị đầu tư và đầu tư xây dựng Nhà máy thủy điện La
Trọng, Kim Hóa đồng thời tiếp tục quy hoạch các bậc thang thủy điện khác
ở đầu nguồn sông Gianh, sông Long Đại… làm cơ sở kêu gọi đầu tư;
+ Xúc tiến để đưa vào quy hoạch, đồng thời kêu gọi đầu tư
Nhà máy Nhiệt điện công suất lớn tại Khu kinh tế Hòn La, điện từ năng lượng
gió; tiếp tục triển khai Dự án Điện mặt trời cho 2 xã Tân Trạch, Thượng Trạch
(Bố Trạch) và các dự án nhỏ sử dụng năng lượng mới nhằm cung cấp điện cho các
thôn bản điện lưới không đến được;
+
Xây dựng mới Nhà máy nước Việt Trung, công suất 2.000m³/ng/đêm; Nhà máy nước
Sông Thai cung cấp nước cho nông nghiệp, dân sinh và nước sản xuất cho Khu công
nghiệp Cảng biển Hòn La;
+ Mở rộng và khai thác có hiệu quả các Nhà máy nước Phú
Vinh, Ba Đồn, Đồng Lê, Quy Đạt; chuẩn bị các bước đầu tư xây dựng nhà máy nước
Hoàn Lão và một số nhà máy nước phục vụ cho các khu công nghiệp, các dự án cung
cấp nước sạch ở địa bàn nông thôn.
1.7. Công nghiệp hóa chất
Đầu tư chiều sâu nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng thị
trường, khai thác tốt công suất các nhà máy hiện có, đẩy mạnh sản xuất các sản
phẩm truyền thống mà nhu cầu thị trường đang cần. Nghiên cứu sản xuất và kêu
gọi đầu tư một số loại sản phẩm từ vật liệu mới.
- Các dự án ưu tiên:
+ Khai thác hết công suất và phát huy hiệu quả các nhà máy
sản xuất phân vi sinh đã đầu tư;
+
Hoàn thiện và khai thác hết công suất dây chuyền sản xuất thuốc viên, chuẩn bị
điều kiện để triển khai đầu tư dây chuyền sản xuất thuốc ống theo tiêu chuẩn
GMP (công suất khoảng 10 triệu sản phẩm/năm);
+ Đầu tư nâng công suất dây chuyền sản xuất các sản phẩm:
Bột làm sạch môi trường nuôi tôm, đolomit, men biologia, phụ gia sơn (khoảng
6.000 tấn sản phẩm/năm);
+ Kêu gọi đầu tư xây dựng các nhà máy: Sản xuất muối i-ốt
tại Roòn (Quảng Trạch); sản xuất composit; sản xuất các sản phẩm cao su kỹ
thuật, nhựa dân dụng và công nghiệp; đồ trang sức và trang trí nội thất và các
loại vật liệu mới...
+ Hỗ trợ phát triển các cơ sở sản xuất các sản phẩm hóa
chất như: Men vệ sinh, nước tẩy rửa và các sản phẩm mới khác phục vụ phát triển
kinh tế và dân sinh.
2. Phát triển khu, cụm
điểm CN - TTCN
2.1. Khu công nghiệp
- Tổ chức quản lý và khai thác có hiệu quả Khu công nghiệp
Tây Bắc Đồng Hới; tiếp tục đầu tư đồng bộ Khu công nghiệp Cảng biển Hòn La để
thu hút các nhà đầu tư, tạo cơ sở hình thành Khu kinh tế Hòn La trong thời gian
tới.
- Triển khai Quy hoạch chi tiết, phân giai đoạn đầu tư xây
dựng Khu công nghiệp Bắc Đồng Hới.
- Quy hoạch chi tiết, cắm mốc chỉ giới các khu công
nghiệp: Tiến Hóa (Tuyên Hóa), Áng Sơn (Quảng Ninh) và KCN Bang (Lệ Thủy).
2.2. Cụm điểm TTCN
Các huyện, thành phố, tổ chức đầu tư xây dựng các cụm điểm
TTCN theo quy hoạch đã được phê duyệt tại Quyết định số 3277/QĐ-UB của Ủy ban nhân dân tỉnh ngày 12 tháng 01 năm 2004. Cụ
thể như sau:
- Thành phố Đồng Hới: Xây dựng 3 cụm, quy mô khoảng 39 ha.
Theo thứ tự ưu tiên: Cụm Thuận Đức, Đức Ninh Đông, Bắc Nghĩa và Bảo Ninh.
- Huyện Quảng Trạch: Tổ chức quản lý có hiệu quả cụm Cảnh
Dương. Đầu tư hình thành thêm 3 cụm với diện tích mặt bằng là 30 ha. Theo thứ
tự ưu tiên: Cụm Quảng Thọ; Quảng Hòa; Quảng Phú.
- Huyện Bố Trạch: Hoàn thành xây dựng và đưa vào sử dụng
cụm Đức Trạch. Đầu tư xây dựng thêm 2 cụm với quy mô 30 ha. Theo thứ tự ưu
tiên: Cụm Phú Định và cụm Troóc.
- Huyện Quảng Ninh: Đầu tư xây dựng 2 cụm với diện tích
mặt bằng 15 ha. Theo thứ tự ưu tiên: Cụm Trung tâm thị trấn Quán Hàu và cụm Áng
Sơn.
- Huyện Lệ Thủy: Đầu tư xây dựng 2 cụm với diện tích mặt
bằng 20 ha. Theo thứ tự ưu tiên: Cụm Cam Liên và cụm Bang - Ngã tư Thạch Bàn.
- Huyện Tuyên Hóa: Đầu tư xây dựng 1 cụm tại tiểu khu Lưu
Thuận (TT Đồng Lê), quy mô 10 ha.
- Huyện Minh Hóa: Đầu tư xây dựng 1 cụm tại trung tâm thị trấn Quy Đạt
với quy mô 10 ha.
3. Tổng hợp nhu
cầu vốn đầu tư
Dự ước tổng nhu cầu vốn thực hiện Chương trình: 7.192,765 tỷ đồng
- Xây dựng CSHT khu, cụm, điểm, làng nghề: 442,000 tỷ đồng
- Triển khai thực hiện các dự án công nghiệp: 6.684,000 tỷ đồng
- Triển khai thực hiện các dự án TTCN; đào tạo nghề, xây dựng thương
hiệu; hỗ trợ công nhận làng nghề: 66,765 tỷ đồng
Trong đó: Vốn ngân sách hỗ trợ triển khai thực hiện: 461,815 tỷ đồng
- Xây dựng CSHT khu, cụm điểm, làng nghề: 442,000 tỷ đồng
- Hỗ trợ các dự án phát triển sản xuất Công nghiệp: 12,000 tỷ đồng
- Hỗ trợ các dự án phát triển sản xuất TTCN và NNNT: 4,420 tỷ đồng
- Kinh phí đào tạo nghề, đào tạo cán bộ quản lý: 3,000 tỷ đồng
- Hỗ trợ đăng ký thương hiệu các sản phẩm TTCN: 0,240 tỷ đồng
- Hỗ trợ các
làng nghề được công nhận đạt tiêu chí: 0,155 tỷ đồng
(chi tiết tại
Phụ lục 5, 6, 7, 8, 9, 10 kèm theo)
III. Các giải pháp
thực hiện
Để đạt mục tiêu của Chương trình Phát triển CN - TTCN và
NNNT giai đoạn 2006 - 2010, cần thực hiện tốt các giải pháp sau:
1. Giải pháp về
quy hoạch và đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
- Trên cơ sở Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội tỉnh và
của từng địa phương, Quy hoạch phát triển CN - TTCN, Quy hoạch phát triển các
khu công nghiệp, Quy hoạch phát triển các cụm điểm TTCN và NNNT đã phê duyệt,
tổ chức rà soát, bổ sung quy hoạch cho phù hợp với tình hình thực tế; triển
khai cắm mốc Quy hoạch các khu cụm điểm CN - TTCN, tổ chức tuyên truyền, công
bố rộng rãi để quần chúng nhân dân, các cơ sở sản xuất biết và thực hiện.
- Đánh giá đúng tiềm năng, thế mạnh các nguồn lực của tỉnh
làm cơ sở cho việc đầu tư phát triển sản xuất công nghiệp. Triển khai lập và bổ
sung quy hoạch phát triển ngành nghề nông thôn, quy hoạch phát triển các vùng
nguyên liệu như: Vùng nguyên liệu sắn, vùng nuôi trồng thủy sản, vùng trồng dâu
nuôi tằm; phân vùng khoanh nuôi, bảo vệ và trồng mới các loại song mây, giang,
tre nứa, lồ ô, lá nón, cây lấy gỗ, các loại cây dược liệu... để chủ động cung
cấp nguyên liệu cho các cơ sở sản xuất và chế biến công nghiệp.
- Đẩy nhanh tiến độ đầu tư và khai thác có hiệu quả các
công trình kết cấu hạ tầng quan trọng có tính chiến lược của tỉnh như: Khu cảng
biển Hòn La, sân bay Đồng Hới, đường tránh Đồng Hới, các khu công nghiệp, khu
cụm điểm TTCN, làng nghề... để tạo điều kiện thuận lợi thu hút các dự án đầu tư
phát triển công nghiệp trên địa bàn và hạn chế ô nhiễm môi trường.
2. Giải pháp về
xúc tiến đầu tư
Lấy năm 2007 là năm cải thiện môi trường đầu tư của tỉnh,
tập trung vào các nội dung:
- Tổ chức thực hiện tốt công tác tuyên truyền các chủ
trương, cơ chế chính sách của Nhà nước và của tỉnh về khuyến khích phát triển
sản xuất CN - TTCN, các chương trình phát triển kinh tế trọng điểm của tỉnh,
các kế hoạch về phát triển kinh tế - xã hội dài hạn, ngắn hạn để mọi người dân,
các cơ sở sản xuất biết và tham gia thực hiện.
- Đổi mới các hình thức xúc tiến kêu gọi đầu tư, lựa chọn
hình thức phù hợp và có trọng tâm nhằm kêu gọi, thu hút các nhà đầu tư đặc biệt
là các tổng công ty, tập đoàn kinh tế lớn trong nước và nước ngoài tham gia đầu
tư trực tiếp, liên kết liên doanh, hợp tác đầu tư khai thác các tiềm năng của
tỉnh, tạo ra những đột phá trong phát triển sản xuất công nghiệp.
- Huy động mạnh mẽ các nguồn lực trong dân, trong các
thành phần kinh tế, trong các doanh nghiệp trong và ngoài nước, đồng thời mở
rộng các hình thức đầu tư: Xây dựng kinh doanh (BO), xây dựng, kinh doanh,
chuyển giao (BOT), xây dựng, chuyển giao (BT); chú trọng nguồn vốn đầu tư trực
tiếp (FDI), vốn tín dụng, các nguồn vốn hỗ trợ phát triển (ODA)...
- Thực hiện tốt công tác cải cách hành chính, đơn giản hóa
và công khai các thủ tục hành chính, phân công, phân cấp, phân rõ trách nhiệm,
quyền hạn của các tổ chức, cá nhân tạo môi trường đầu tư thuận lợi nhằm từng
bước cải thiện nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh của tỉnh, thu hút mạnh các
thành phần kinh tế đầu tư phát triển sản xuất.
3. Giải pháp về
thị trường tiêu thụ sản phẩm
- Tiếp tục củng cố các thị trường tiêu thụ sản phẩm truyền
thống, xúc tiến thương mại, du lịch tạo thuận lợi cho các cơ sở sản xuất CN -
TTCN được tiếp cận, tìm kiếm, mở rộng thị trường trong và ngoài tỉnh; đồng thời
đẩy mạnh công tác xúc tiến thị trường xuất khẩu; tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp được mở các quầy hàng giới thiệu và bán sản phẩm tại các điểm tham quan,
khu du lịch, các trung tâm thương mại dịch vụ của thành phố, thị trấn.
- Khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng các hệ thống quản
lý chất lượng, quản lý môi trường tiên tiến (ISO 9000, ISO 14000...). Nhanh
chóng nâng cao năng lực cạnh tranh của các loại sản phẩm, chuẩn bị tốt các điều
kiện khi Việt Nam gia nhập AFTA, WTO.
- Khuyến khích và tạo điều kiện cho các cơ sở sản xuất CN
- TTCN liên kết, liên doanh với các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước để tổ
chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm; thực hiện tốt sự liên kết "Bốn
nhà" giữa Nhà nước, nhà khoa học, người nuôi trồng nguyên liệu với các
doanh nghiệp sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Chỉ đạo xây dựng hình thành các
doanh nghiệp đầu mối chuyên lo cung cấp nguyên liệu và bao tiêu sản phẩm cho
các cơ sở sản xuất CN -TTCN, nhất là các ngành nghề có lực lượng lao động tham
gia nhiều như mây tre xuất khẩu, nón lá, thêu ren...
4. Giải pháp về
đào tạo phát triển nguồn nhân lực
- Tăng cường công tác đào tạo nghề, bồi dưỡng kiến thức về
kỹ thuật, quản lý cho cán bộ, đội ngũ công nhân kỹ thuật các doanh nghiệp với
nhiều hình thức: Đào tạo tập trung tại các trường đào tạo của Trung ương,
Trường công nhân kỹ thuật, Trường dạy nghề của tỉnh, các trung tâm hướng nghiệp
dạy nghề... kèm cặp truyền nghề, dạy nghề tại cơ sở sản xuất để đảm bảo cung
cấp đủ nguồn nhân lực theo yêu cầu phát triển của các ngành sản xuất công nghiệp.
-
Hỗ trợ và tạo điều kiện cho các cơ sở sản xuất kinh doanh tổ chức đào tạo nghề
trực tiếp theo nhu cầu nhất là những dự án thu hút nhiều lao động. Đồng thời,
khuyến khích các tổ chức, hiệp hội, các nhà khoa học, nhà quản lý và các nghệ
nhân tham gia phổ cập kiến thức, đào tạo nghề, truyền nghề cho người lao động.
Hàng năm tổ chức các cuộc hội thi tay nghề, thi thợ giỏi về sản xuất các mặt
hàng công nghiệp - TTCN, hàng thủ công mỹ nghệ, điêu khắc... để công nhận danh
hiệu nghệ nhân, "Bàn tay vàng" nhằm khuyến khích lao động kỹ thuật
địa phương.
- Có kế hoạch đào tạo, hỗ trợ cán bộ trẻ, có năng lực được
đi đào tạo ở các nước phát triển; tổ chức các đoàn công tác cho cán bộ quản lý,
kỹ thuật ra nước ngoài để giao lưu, trao đổi, học hỏi kinh nghiệm, cập nhật các
thông tin về thị trường, khoa học công nghệ và hội nhập quốc tế.
5. Giải pháp về khoa học
công nghệ và công tác khuyến công
- Khuyến khích và hỗ trợ các cơ sở sản xuất CN - TTCN đầu
tư chiều sâu đổi mới công nghệ thiết bị, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật
tiên tiến vào sản xuất theo phương châm kết hợp công nghệ tiên tiến hiện đại
với kinh nghiệm truyền thống để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, giảm
chi phí sản xuất nhằm nâng cao hiệu quả và tăng sức cạnh tranh. Tạo điều kiện
để các doanh nghiệp thực hiện đăng ký bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp cho sản
phẩm và dịch vụ.
- Đẩy mạnh các hoạt động khuyến công như: Tổ chức tập
huấn, đào tạo, du nhập nghề mới, hướng dẫn chuyển giao công nghệ, xây dựng các
mô hình trình diễn kỹ thuật sản xuất; làm tốt công tác tư vấn, hướng dẫn, hỗ
trợ các cơ sở sản xuất về lập dự án đầu tư, cung cấp thông tin về thị trường
tiêu thụ sản phẩm... Thường xuyên quan tâm và làm tốt công tác tuyên truyền,
phổ biến kinh nghiệm, hướng dẫn chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật, công nghệ sản
xuất tiên tiến, xây dựng các mô hình trình diễn, đúc rút các kinh nghiệm về
phát triển sản xuất và quản lý tiên tiến, đồng thời tổ chức công bố trên các
phương tiện thông tin đại chúng, để tạo điều kiện cho các chủ cơ sở sản xuất và
người lao động tiếp cận, nắm bắt thông tin về đầu tư phát triển sản xuất.
- Sửa
đổi, bổ sung chính sách khuyến khích hỗ trợ phát triển TTCN và NNNT phù hợp với
các loại hình sản xuất, quy trình và thủ tục đơn giản, gọn nhẹ, hiệu quả.
6. Giải pháp về bảo vệ
môi trường
- Tăng cường công tác giáo dục, tuyên truyền việc thực
hiện Luật Bảo vệ môi trường, Nghị quyết số 41/NQ-TW, Chỉ thị số 36/CT-TW của Bộ
Chính trị về "Tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ CNH, HĐH
đất nước".
- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật về tài
nguyên và môi trường. Tiến hành đánh giá hiện trạng môi trường, kiểm kê các
nguồn gây ô nhiễm chính trong các khu công nghiệp, cụm điểm TTCN, làng nghề và
các cơ sở sản xuất hiện có. Thực hiện đánh giá tác động môi trường đối với tất
cả các dự án đầu tư mới. Định kỳ và thường xuyên kiểm tra, thanh tra và xử lý
nghiêm các trường hợp vi phạm; có kế hoạch cụ thể để di dời các nhà máy, cơ sở
đã gây ô nhiễm nặng trong các khu dân cư và vùng nhạy cảm.
- Mở rộng mô hình doanh nghiệp dân doanh và tổ chức cộng
đồng cung cấp dịch vụ vệ sinh môi trường, thu gom và xử lý rác thải cho các khu
dân cư, xử lý môi trường các khu công nghiệp,
cụm điểm TTCN và làng nghề.
7. Các giải pháp về tổ
chức, quản lý
- Hoàn thành Đề án sắp xếp, đổi mới và nâng cao năng lực
doanh nghiệp Nhà nước địa phương đã được Chính phủ phê duyệt. Thực hiện tốt
Luật Doanh nghiệp, Luật Hợp tác xã... tạo điều kiện cho nhiều loại hình doanh
nghiệp (doanh nghiệp Nhà nước, công ty cổ phần, công ty TNHH, HTX, liên hiệp
HTX, tổ hợp tác, hộ kinh doanh cá thể, trang trại...) ra đời và hoạt
động kinh doanh theo định hướng phát triển của tỉnh và các địa phương, phù hợp
với lợi ích của từng doanh nghiệp, đồng thời tạo điều kiện hợp tác và hỗ trợ
lẫn nhau cùng có lợi;
- Tăng cường công tác quản lý Nhà nước, thực hiện tốt công
tác quy hoạch, kế hoạch định hướng phát triển, tuyên truyền phổ biến các chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và của tỉnh về khuyến khích phát triển
sản xuất CN - TTCN và NNNT. Các ngành chức
năng cần phối hợp chặt chẽ với các huyện, thành phố Đồng Hới, tranh thủ sự giúp
đỡ của các Bộ, Ban ngành ở Trung ương trong việc định hướng quy hoạch, hỗ trợ
các nguồn vốn, chương trình dự án, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, xử lý môi
trường, đào tạo nhân lực... cho các cơ sở sản xuất;
- Củng cố và tăng cường đội ngũ cán bộ làm công tác quản
lý Nhà nước về công nghiệp - TTCN và NNNT ở cấp tỉnh và các huyện, thành phố cả
về số lượng và chất lượng để đủ sức quản lý và chỉ đạo triển khai thực hiện
Chương trình đạt hiệu quả. Đề cao trách nhiệm, vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của
cấp ủy và chính quyền các xã, phường, thị trấn đối với các cơ sở, doanh nghiệp.
Mỗi xã, phường, thị trấn cần phải phân công 1 cán bộ chuyên trách trực tiếp phụ
trách công tác phát triển CN - TTCN và NNNT theo hình thức hợp đồng, hưởng
lương từ nguồn kinh phí khuyến công;
- Tổ chức thành lập Hiệp hội các doanh nghiệp sản xuất CN
- TTCN và NNNT, các hội ngành nghề và các hình thức hiệp hội phù hợp ở tỉnh và
các địa phương; định kỳ tổ chức sơ kết, tổng kết đánh giá, suy tôn các doanh
nghiệp, nghệ nhân, cá nhân có nhiều thành tích.
8. Các giải pháp về chính
sách
Xây dựng và ban hành các cơ chế, chính sách khuyến khích
phát triển CN - TTCN và NNNT giai đoạn 2006 - 2010 với các nội dung chủ yếu:
- Bổ sung, sửa đổi cơ chế chính sách thu hút, khuyến khích
phát triển công nghiệp - TTCN và NNNT trên địa bàn giai đoạn 2006 - 2010, Quyết
định số 44/2004/QĐ-UB ngày 30 tháng 8 năm 2004 của Ủy
ban nhân dân tỉnh về quy định khuyến khích và ưu đãi đầu tư áp dụng cho
các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế với thủ tục thông thoáng, thuận
lợi, phù hợp với yêu cầu đổi mới;
- Quy chế quản lý cụm điểm TTCN trên địa bàn của tỉnh và
chính sách khuyến khích đầu tư vào các cụm điểm TTCN và khu làng nghề;
- Quy định tiêu chí công nhận làng nghề, làng nghề truyền
thống, nghệ nhân và các chính sách kèm theo;
- Xây dựng và bổ sung một số chính sách về phát triển
nguồn nguyên liệu phục vụ sản xuất CN - TTCN và NNNT;
Về nguồn vốn khuyến công: Hàng năm trích từ nguồn ngân
sách 0,5% tổng thu ngân sách nội địa của tỉnh, huyện và thành phố Đồng Hới
(theo cơ chế, chính sách đã được Ủy ban nhân dân
tỉnh phê duyệt) để hình thành nguồn vốn khuyến công tỉnh, khuyến công huyện,
thành phố.
Phần thứ ba
TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Để triển khai thực hiện tốt Chương trình Phát triển CN -
TTCN và NNNT, giai đoạn 2006 - 2010, Ủy ban nhân dân
tỉnh phân công trách nhiệm cho các ngành và địa phương như sau:
1. Giao cho Sở Công nghiệp là cơ quan đầu mối giúp Ủy ban nhân dân tỉnh theo dõi, chỉ đạo thực hiện
Chương trình, Sở Công nghiệp có trách nhiệm:
- Chủ trì, phối hợp với các sở, ngành liên quan, Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố xây dựng trình Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành chính sách khuyến
khích phát triển CN - TTCN và NNNT trên địa bàn phù hợp với tình hình thực tế
của địa phương và các quy định hiện hành của Nhà nước;
- Phối hợp với các ngành chỉ đạo Ủy
ban nhân dân các huyện, thành phố xây dựng và tổ chức triển khai thực
hiện Chương trình Phát triển TTCN và NNNT giai đoạn 2006 - 2010 của từng địa
phương; đồng thời theo dõi, hướng dẫn, kiểm tra quá trình triển khai thực hiện
chương trình ở các huyện, thành phố;
- Định kỳ hàng năm và 5 năm tổ chức sơ kết, tổng kết báo
cáo Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh về kết quả thực hiện Chương
trình.
2. Sở Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Sở Tài
chính, Sở Công nghiệp và các ngành liên quan:
- Rà soát lại Quyết định số 44/2004/QĐ-UB ngày 30 tháng 8
năm 2004 của Ủy ban nhân dân tỉnh quy định khuyến khích và ưu đãi đầu tư áp
dụng tại tỉnh để bổ sung cho phù hợp với điều kiện thực tế hiện nay; đồng thời
tổ chức hướng dẫn, theo dõi, kiểm tra thực hiện quy định trên địa bàn;
- Xây dựng cơ chế đầu tư xây dựng các khu, cụm điểm công
nghiệp - TTCN trình Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt;
- Hàng năm cân đối bố trí kế hoạch vốn hỗ trợ đầu tư xây
dựng các khu kinh tế, khu cụm điểm CN - TTCN và làng nghề theo quy hoạch đã phê
duyệt.
3. Sở Tài chính chủ trì, phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu
tư, Sở Công nghiệp cân đối ngân sách hàng năm bố trí nguồn vốn khuyến công hỗ
trợ cho các địa phương và cơ sở sản xuất triển khai thực hiện Chương trình;
hướng dẫn quản lý tài chính, thanh quyết toán các nguồn vốn, công trình XDCB.
4. Ban quản lý các khu công nghiệp, Trung tâm xúc tiến đầu
tư tỉnh thực hiện tốt công tác xúc tiến đầu tư và giới thiệu, kêu gọi thu hút
các dự án đầu tư phát triển sản xuất công nghiệp vào địa bàn tỉnh.
5. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Thủy sản
phối hợp với Sở Công nghiệp và Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố tổ chức xây
dựng và thực hiện các quy hoạch vùng nguyên liệu; phát triển nuôi trồng và chế
biến nông, lâm, thủy sản và những nội dung khác có liên quan để phục vụ phát
triển sản xuất CN - TTCN và NNNT, các làng nghề, làng nghề truyền thống.
6. Sở Tài nguyên và Môi trường tổ chức giải quyết nhanh
các thủ tục về cấp đất, cấp mỏ, đánh giá tác động môi trường cho các doanh
nghiệp đầu tư sản xuất CN - TTCN; đồng thời kiểm tra, xử lý triệt để các vi
phạm về bảo vệ môi trường theo Luật định.
7. Sở Khoa học và Công nghệ hướng dẫn các cơ sở sản xuất
CN - TTCN chính sách của Nhà nước, của tỉnh về khuyến khích ứng dụng công nghệ
mới, xây dựng thương hiệu hàng hóa...
8. Sở Thương mại và Du lịch cập nhật, cung cấp các thông
tin về thị trường, giá cả; quảng bá giới thiệu hàng hóa và tiêu thụ sản phẩm
cho các cơ sở sản xuất CN - TTCN trên địa bàn.
9. Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại, ngân
hàng chính sách tạo điều kiện giúp các cơ sở sản xuất CN - TTCN trong việc cung
cấp và hỗ trợ nguồn vốn tín dụng để thực hiện Chương trình.
10. Sở Nội vụ, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, Liên
minh các HTX theo chức năng nghiên cứu đề xuất tổ chức bộ máy và cán bộ quản
lý, cán bộ làm công tác khuyến công ở các cấp, tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ quản lý, công nhân kỹ thuật, đào tạo nghề cho người lao động; vận động các
thành viên tham gia hưởng ứng đầu tư phát triển sản xuất CN - TTCN.
11. Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố căn cứ Chương
trình Phát triển CN - TTCN và NNNT của tỉnh, giai đoạn 2006 - 2010 để xây dựng
Chương trình Phát triển TTCN và NNNT của địa phương mình; chịu trách nhiệm
trước Ủy ban nhân dân tỉnh về kết quả triển khai và thực hiện Chương trình Phát
triển TTCN và NNNT trên địa bàn; phối hợp chặt chẽ với Sở Công nghiệp và các
ngành liên quan trong quá trình triển khai thực hiện Chương trình; định kỳ hàng
năm tổ chức sơ kết, báo cáo kết quả thực hiện Chương trình cho Ủy ban nhân dân tỉnh (qua Sở Công nghiệp để tổng hợp
báo cáo).
12. Các sở, ban, ngành có liên quan theo chức năng của
mình phối hợp chặt chẽ với Sở Công nghiệp và Ủy ban
nhân dân các huyện, thành phố chỉ đạo, giúp đỡ các cơ sở sản xuất CN -
TTCN và NNNT triển khai thực hiện Chương trình đạt hiệu quả./.