UỶ
BAN NHÂN DÂN
TỈNH QUẢNG NAM
--------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
----------------
|
Số:
17/2008/QĐ-UBND
|
Tam
Kỳ, ngày 18 tháng 6 năm 2008
|
QUYẾT ĐỊNH
BAN HÀNH ĐỀ ÁN TIẾP TỤC ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN DẠY NGHỀ TỈNH
QUẢNG NAM GIAI ĐOẠN 2008 - 2015
UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NAM
Căn cứ Luật Tổ chức HĐND và
UBND ngày 26/11/2003;
Căn cứ Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND, UBND ngày 03/12/2004;
Căn cứ Luật Dạy nghề ngày 29/11/2007;
Căn cứ Nghị quyết số 106/2008/NQ-HĐND ngày 29/4/2008 của HĐND tỉnh Quảng Nam
Khóa VII, Kỳ họp thứ 16 về tiếp tục đổi mới và phát triển dạy nghề tỉnh Quảng
Nam giai đoạn 2008 - 2015;
Theo đề nghị của Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Quảng Nam tại
Tờ trình số 55/TTr-LĐTBXH ngày 14/5/2008,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Ban hành kèm theo
Quyết định này Đề án tiếp tục đổi mới và phát triển dạy nghề tỉnh Quảng Nam
giai đoạn 2008 - 2015 đã được HĐND tỉnh Quảng Nam Khoá VII, Kỳ họp thứ 16 thông
qua ngày 29/4/2008.
Điều 2. Sở Lao động -
Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với các sở, ban, ngành, đoàn thể liên
quan và các địa phương xây dựng kế hoạch cụ thể triển khai thực hiện đề án đạt
mục tiêu đề ra.
Điều 3. Chánh Văn phòng
UBND tỉnh, Giám đốc các sở, ban, ngành, đoàn thể, Chủ tịch UBND huyện, thành phố
căn cứ quyết định thi hành.
Quyết định
này có hiệu lực sau 10 ngày kể từ ngày ký và thay thế Quyết định số 1611/QĐ-UB
ngày 24/5/1999 của UBND tỉnh về phê duyệt Quy hoạch hệ thống trường lớp, cơ sở
dạy nghề của tỉnh Quảng Nam giai đoạn 1999 - 2010; Quyết định số 118/2003/QĐ-UB
ngày 17/11/2003 của UBND tỉnh về ban hành Đề án đào tạo nghề tỉnh Quảng Nam
giai đoạn 2003 - 2015./.
Nơi nhận:
- Như điều 3;
- Bộ LĐ-TB&XH;
- Tổng cục Dạy nghề;
- Cục KTVBQPPL, Bộ Tư pháp;
- TT TU, HĐND, UBND tỉnh;
- Lưu VT, KTTH, VX (Viên).
D:\Vien\Nam 2008\QD-DADTN 10-6-28.V.doc
|
TM.
UỶ BAN NHÂN DÂN
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH
Trần Minh Cả
|
ĐỀ ÁN
TIẾP TỤC ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN DẠY NGHỀ TỈNH QUẢNG NAM GIAI
ĐOẠN 2008-2015
(Ban hành kèm theo Quyết định số 17 /2008/QĐ-UBND ngày 18 /6/2008 của
UBND tỉnh)
ĐẶT VẤN ĐỀ
Dạy nghề là một
bộ phận trong hệ thống giáo dục quốc dân, có nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực trực
tiếp trong sản xuất, kinh doanh và dịch vụ. Trong những năm qua, sự nghiệp dạy
nghề của nước ta phát triển mạnh cả về quy mô và chất lượng, đáp ứng ngày càng
tốt hơn nhu cầu nhân lực của thị trường lao động trong nước và xuất khẩu lao động,
cũng như những thay đổi nhanh chóng của kỹ thuật công nghệ và nhu cầu đa dạng của
người lao động học nghề, lập nghiệp.
Trong những
năm qua, công tác dạy nghề của tỉnh Quảng Nam đã đạt được những kết quả quan trọng
về xây dựng và phát triển mạng lưới cơ sở dạy nghề; mở rộng quy mô và ngành nghề
đào tạo; đổi mới nội dung chương trình đào tạo; xây dựng và phát triển đội ngũ
giáo viên, cán bộ quản lý dạy nghề; nâng cấp cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy
nghề; từng bước nâng cao chất lượng dạy nghề; đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu
lao động kỹ thuật của các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất trên địa bàn tỉnh, nhu cầu
của thị trường lao động trong nước và xuất khẩu lao động; tạo cơ hội cho người
lao động tỉnh nhà học nghề, lập nghiệp, góp phần giảm nghèo, nhất là ở khu vực
nông thôn, miền núi.
Bên cạnh những
kết quả đạt được, hiện nay công tác dạy nghề của tỉnh vẫn còn một số tồn tại, bất
cập, đó là: hệ thống dạy nghề của tỉnh mới chuyển từ đào tạo ở 2 cấp trình độ
là dạy nghề dài hạn và dạy nghề ngắn hạn sang đào tạo ở 3 cấp trình độ: sơ cấp
nghề, trung cấp nghề và cao đẳng nghề theo quy định của Luật Dạy nghề, nên bước
đầu chưa đáp ứng được yêu cầu đào tạo nguồn lao động kỹ thuật của các ngành
kinh tế cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu ngành nghề. Quy mô đào tạo nghề
còn quá nhỏ so với nhu cầu của xã hội; cơ sở vật chất, trang thiết bị và đội
ngũ giáo viên dạy nghề còn thiếu; chưa đáp ứng yêu cầu đa dạng hóa ngành nghề
đào tạo phù hợp với thực tế sản xuất; hình thức dạy nghề trong doanh nghiệp
chưa được phát triển mạnh, sự chủ động tham gia đào tạo nghề của các doanh nghiệp
còn hạn chế.
Mặc khác, cần
phải định hướng, xác định lại mục tiêu, chỉ tiêu phát triển nguồn nhân lực nói
chung, công tác đào tạo nghề nói riêng, để phù hợp với Luật Dạy nghề và đáp ứng
nhu cầu lao động kỹ thuật trực tiếp phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh
trong thời gian đến.
Nghị quyết Đại
hội Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ 19 đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ phát triển
nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong những
năm đến là: “Phát triển hệ thống đào tạo nghề, xây dựng trường đại học, tăng cường
hợp tác với nước ngoài và các trường đại học trong nước về giáo dục - đào tạo.
Khẩn trương đào tạo nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, phấn đấu đến năm 2010,
tỷ lệ lao động được đào tạo đạt 40% lao động xã hội. Có chính sách hỗ trợ thanh
niên nông thôn, miền núi học nghề và chuyển đổi nghề...”.
Xuất phát từ
yêu cầu trên và căn cứ những quy định của Luật Dạy nghề; chủ trương, định hướng
của Chính phủ; quy hoạch, kế hoạch của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Tổng
cục Dạy nghề về công tác dạy nghề trong tình hình mới, UBND tỉnh xây dựng,
trình HĐND tỉnh thông qua và ban hành Đề án tiếp tục đổi mới và phát triển dạy
nghề tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2008 - 2015.
Phần thứ nhất
TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CÔNG
TÁC DẠY NGHỀ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH GIAI ĐOẠN 2003 - 2007
I. Tình hình dân số, lao động.
Chỉ tiêu
|
ĐVT
|
2003
|
2004
|
2005
|
2006
|
2007
|
1. Dân số
|
ngàn
người
|
1.438
|
1.452
|
1.465
|
1.477
|
1.489
|
2. Tỷ lệ dân
số khu vực nông thôn
|
%
|
84,27
|
82,94
|
82,89
|
82,81
|
81,41
|
3. Dân số
trong độ tuổi lao động
|
ngàn
người
|
835
|
845
|
861
|
886
|
901
|
- Tỷ lệ so
với dân số
|
%
|
58,1
|
58,20
|
58,77
|
60
|
60,54
|
4. Số lao động
tham gia hoạt động kinh tế
|
ngàn
người
|
716
|
730
|
746
|
763
|
779
|
- Tỷ lệ so
với dân số
|
%
|
49,79
|
50,27
|
50,92
|
51,66
|
53,66
|
- Tỷ lệ so
với lao động trong độ tuổi
|
%
|
86,1
|
86,39
|
86,64
|
86,12
|
86,46
|
- Cơ cấu lao
động hoạt động kinh tế theo nhóm ngành:
|
%
|
100
|
100
|
100
|
100
|
100
|
+ Công nghiệp
và xây dựng
|
%
|
10,61
|
11,06
|
11,84
|
12,66
|
15,00
|
+ Nông -
lâm - ngư nghiệp
|
%
|
73,20
|
72,30
|
71,25
|
70,14
|
66,36
|
+ Dịch vụ -
du lịch
|
%
|
16,19
|
16,64
|
16,90
|
17,20
|
18,64
|
- Cơ cấu
lao động qua đào tao:
|
%
|
100
|
100
|
100
|
100
|
100
|
+ Đại học,
cao đẳng
|
%
|
15,15
|
14,71
|
13,70
|
12,99
|
12,34
|
+ Trung học
chuyên nghiệp
|
%
|
24,24
|
25,00
|
24,66
|
25,98
|
24,69
|
+ Công nhân
kỹ thuật
|
%
|
60,61
|
60,29
|
61,64
|
61,03
|
61,72
|
5. Tỷ lệ thất
nghiệp khu vực thành thị
|
%
|
6,46
|
5,83
|
5,12
|
5,02
|
4,93
|
6. Tỷ lệ sử
dụng thời gian lao động ở nông thôn
|
%
|
75,73
|
77,37
|
78,27
|
79,08
|
80,00
|
7. Tỷ lệ lao
động qua đào tạo
|
%
|
16,20
|
17,80
|
20,00
|
21,80
|
24,70
|
8. Tỷ lệ
lao động qua đào tạo nghề
|
%
|
10,50
|
12,50
|
14,00
|
15,50
|
18,00
|
Biểu thống
kê trên cho thấy:
- Dân số khu vực
nông thôn chiếm tỷ lệ rất lớn: 81,41% dân số; số người trong độ tuổi lao động
chiếm tỷ lệ 60,54%, trong đó, số người trong độ tuổi lao động tham gia hoạt động
kinh tế chiếm tỷ lệ 86,46% so với số người trong độ tuổi lao động.
- Cơ cấu lao
động của tỉnh mặc dù có sự phát triển và chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ lệ
lao động công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ lệ lao động nông nghiệp, nhưng sự
chuyển dịch vẫn còn chậm, lao động nông nghiệp chiếm tỷ lệ 66,36% trong tổng số
lao động tham gia hoạt động kinh tế.
- Cơ cấu
trình độ lực lượng lao động qua đào tạo của tỉnh còn bất cập (hiện nay, tỷ lệ đại
học và cao đẳng - trung học chuyên nghiệp - công nhân kỹ thuật là: 1 - 2,1 - 5,
trong khi tỷ lệ này của cả nước là: 1 - 2,5 - 6, các nước trong khu vực là 1 - 4
- 10, các nước công nghiệp phát triển là 1 - 4 - 20).
- Tỷ lệ lao động
của tỉnh qua đào tạo nói chung, qua đào tạo nghề nói riêng trong những năm qua
tăng chậm so với tỷ lệ tăng bình quân của cả nước (giai đoạn 2003 - 2007, tỷ lệ
lao động qua đào tạo nghề của tỉnh tăng bình quân 1,5%/năm, trong khi tỷ lệ này
của cả nước là 2,2%/năm).
- Đào tạo nghề
chưa gắn với thực tiễn sản xuất và giải quyết việc làm nên tỷ lệ thất nghiệp vẫn
còn tương đối cao; năm 2007, tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị là 4,93%, tỷ lệ
sử dụng thời gian lao động ở nông thôn là 80% (nhiều sinh viên, học sinh tốt
nghiệp các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp chưa có việc làm).
II. Tình hình và kết quả công tác dạy nghề giai đoạn 2003 -
2007.
1. Về xây
dựng và phát triển hệ thống mạng lưới cơ sở dạy nghề.
Trên cơ sở tập
trung chỉ đạo triển khai thực hiện tốt Quy hoạch hệ thống mạng lưới cơ sở dạy
nghề và Đề án đào tạo nghề của tỉnh đến năm 2015; đẩy mạnh xã hội hoá dạy nghề,
với các cơ chế, chính sách ưu tiên khuyến khích phát triển đào tạo nghề, hệ thống
trường, lớp, cơ sở đào tạo nghề trên địa bàn tỉnh được mở rộng, phù hợp với yêu
cầu phát triển kinh tế - xã hội và nhu cầu học nghề của người lao động. Đến thời
điểm 31/12/2007, toàn tỉnh có 40 cơ sở dạy nghề (tăng 27 cơ sở so với năm 1999,
tăng 16 cơ sở so với năm 2003), bao gồm:
- 03 Trường
Trung cấp nghề, gồm: Trường Trung cấp nghề tỉnh Quảng Nam (được nâng cấp từ Trường
Dạy nghề tỉnh vào tháng 12/2006) và 02 Trường Trung cấp nghề Nam và Bắc Quảng
Nam (trên cơ sở nâng cấp 2 Trung tâm dạy nghề Nam và Bắc Quảng Nam vào tháng
11/2007).
- 04 Trường
Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp có tham gia đào tạo nghề, gồm: Trường Cao đẳng
Kinh tế - Kỹ thuật Quảng Nam, Trường Cao đẳng Y tế Quảng Nam, Trường Cao đẳng
Điện lực Miền Trung (trực thuộc Tập đoàn Điện lực Việt Nam) và Trường Trung học
Thủy lợi 2 (trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn). Hiện nay, các
trường này chỉ đăng ký dạy nghề trình độ trung cấp nghề và sơ cấp nghề.
- 33 Trung
tâm dạy nghề và các trung tâm, cơ sở khác tham gia đào tạo nghề.
(Có danh mục
các cơ sở dạy nghề trên địa bàn tỉnh Quảng Nam tính đến thời điểm 31/12/2007 tại
Phụ lục 1 kèm theo)
Trong đó, có
4 trường, trung tâm được Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội công nhận là cơ sở
dạy nghề trọng điểm và đầu tư tập trung từ nguồn kinh phí Dự án “Tăng cường
năng lực đào tạo nghề” thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục và đào
tạo, gồm: Trường Trung cấp nghề tỉnh Quảng Nam, Trường Trung cấp nghề Bắc Quảng
Nam, Trường Trung cấp nghề Nam Quảng Nam và Trung tâm Dạy nghề Nam Giang. Các
cơ sở dạy nghề trọng điểm này đã phát huy tác dụng tích cực, thu hút ngày càng
nhiều lực lượng lao động tham gia học nghề, bộ máy tổ chức, đội ngũ giáo viên
được tăng cường, chất lượng đào tạo nghề chuyển biến rõ nét và từng bước khẳng
định được vai trò, vị trí của mình trong lĩnh vực đào tạo nghề.
2. Về quy
mô tuyển sinh đào tạo nghề.
Trong giai đoạn
2003 - 2007, tổng chỉ tiêu tuyển sinh dạy nghề của các cơ sở dạy nghề trên địa
bàn tỉnh là 54.457 người, trong đó: dài hạn là 7.753 người, ngắn hạn là 46.704
người.
Riêng năm
2007, năm đầu thực hiện đào tạo nghề ở 3 cấp trình độ: sơ cấp nghề, trung cấp
nghề và cao đẳng nghề theo quy định của Luật Dạy nghề, số lượng lao động được
tuyển sinh đào tạo nghề chính quy trên địa bàn tỉnh đạt 13.590 người, (trong
đó: trung cấp nghề: 1.250 người, sơ cấp nghề: 12.340 người), tăng 3,9 lần so với
năm 1999 và 1,56 lần so với năm 2003.
(Kết quả
tuyển sinh đào tạo nghề hằng năm giai đoạn 2003 - 2007 theo Phụ lục 2A đính kèm)
Các nhóm
ngành nghề được đào tạo trên địa bàn tỉnh là:
- Nhóm nghề
điện - điện tử: Thí nghiệm điện; Quản lý, sửa chữa đường dây và trạm; Vận hành
nhà máy điện; Điện công nghiệp và dân dụng; Điện tử dân dụng; Điện lạnh...;
- Nhóm nghề
cơ khí: Cơ khí cắt gọt; Cơ khí chế tạo; Cơ khí gò hàn...;
- Nhóm nghề
du lịch - dịch vụ: Phục vụ buồng, bàn; Nấu ăn, nhân viên du lịch...;
- Nhóm nghề
xây dựng: Nề hoàn thiện, Mộc dân dụng và xây dựng...;
- Nhóm nghề
Tin học: Kỹ thuật viên tin học; Tin học văn phòng; Vẽ và thiết kế trên máy vi
tính; Quản trị mạng; Thiết kế webside...;
- Nhóm nghề
may mặc: May và thiết kế thời trang; May công nghiệp; May dân dụng; Sửa chữa và
bảo trì thiết bị may;
- Nhóm nghề
nông, lâm nghiệp, thuỷ sản: Trồng rừng; Trồng cây ăn quả, rau sạch, trồng nấm;
Chăn nuôi thú y, Trồng cỏ nuôi bò; Nuôi trồng thuỷ sản; Chế biến thủy hải sản...;
- Nhóm nghề gắn
với phát triển các làng nghề truyền thống: Đan mây tre; Thêu ren; Dệt thổ cẩm;
Dệt chiếu; Mộc mỹ nghệ...
Ngoài ra,
trung bình hằng năm, các Trung tâm khuyến ngư, khuyến nông, khuyến lâm, các
doanh nghiệp, Hợp tác xã, các làng nghề, cơ sở dạy nghề trên địa bàn tỉnh đã thực
hiện dạy nghề thường xuyên (dưới 3 tháng) cho 9.000 người, riêng năm 2007 đạt
13.000 người.
Với kết quả
tuyển sinh đào tạo trên, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề của tỉnh đạt 18% vào
cuối năm 2007, tăng 7,5% so với năm 2003.
Quy mô tuyển
sinh dạy nghề trong những năm qua tăng nhanh, nhưng chưa đáp ứng yêu cầu đào tạo
nghề ở 3 cấp trình độ theo quy định của Luật Dạy nghề. Hiện nay, chưa có trường
cao đẳng nghề, quy mô đào tạo nghề trình độ trung cấp còn rất thấp so với tổng
số lao động được đào tạo nghề (giai đoạn 2003 - 2007 mới chỉ chiếm 14,23%),
chưa đáp ứng yêu cầu của các khu công nghiệp, các ngành kinh tế mũi nhọn và xuất
khẩu lao động về lao động kỹ thuật trình độ cao.
3. Về đa dạng
hoá các hình thức dạy nghề.
Giai đoạn
2003 - 2007, với phương thức đa dạng hoá các hình thức dạy nghề và đẩy mạnh thực
hiện chủ trương xã hội hoá dạy nghề, các mô hình dạy nghề năng động, linh hoạt,
gắn đào tạo với sử dụng theo nhu cầu của thị trường lao động được phát triển mạnh
và thực sự có hiệu quả; cụ thể là:
3.1. Dạy
nghề tại doanh nghiệp.
Đến nay, toàn
tỉnh có 04 cơ sở dạy nghề thuộc doanh nghiệp tham gia trực tiếp đào tạo nghề
cho người lao động và 17 doanh nghiệp đã liên kết với 06 cơ sở dạy nghề trên địa
bàn tỉnh để đào tạo nghề và sử dụng lao động được đào tạo nghề theo phương thức
đào tạo lý thuyết nghề và kỹ năng cơ bản ở trường, đào tạo kỹ năng nghề chuyên
sâu tại doanh nghiệp.
Qua khảo sát
thống kê thì 100% số lao động được đào tạo theo phương thức này đều có việc làm
và đáp ứng được yêu cầu sử dụng lao động có nghề của các doanh nghiệp. Đặc biệt,
đã có một dự án liên kết quốc tế về đào tạo Kỹ thuật viên hàn cao cấp giữa Trường
Trung cấp nghề Bắc Quảng Nam với Công ty Thương mại Toàn cầu (Nhật Bản) và
Trung tâm giao lưu kỹ thuật công nghệ hàn Nhật - Việt, đang thực hiện đào tạo
30 công nhân kỹ thuật hàn cao cấp khóa 1 và tiếp tục các khoá tiếp theo, việc sử
dụng lực lượng công nhân kỹ thuật này do phía đối tác Nhật Bản đảm nhận.
3.2. Dạy
nghề cho các đối tượng đặc thù.
Từ năm 2004 đến
nay, tỉnh Quảng Nam đã triển khai thực hiện có hiệu quả chương trình hỗ trợ dạy
nghề cho các đối tượng đặc thù: lao động nông thôn, người dân tộc thiểu số, lao
động là người tàn tật và lao động thuộc hộ nghèo với sự hỗ trợ kinh phí của
Trung ương (Chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục và đào tạo, Chương trình
mục tiêu quốc gia giảm nghèo) và khả năng cân đối của ngân sách tỉnh. Nhiều mô
hình dạy nghề theo phương thức dạy nghề lưu động, truyền nghề, kèm cặp nghề, dạy
các nghề truyền thống, chuyển giao khoa học kỹ thuật, công nghệ gắn với các
chương trình dự án phát triển kinh tế nông thôn, miền núi của tỉnh được phát
huy và đạt hiệu quả rất cao.
Trong giai đoạn
2004 - 2007, tổng kinh phí thực hiện chương trình này là 9.580 triệu đồng,
trong đó: ngân sách Trung ương là 8.130 triệu đồng, ngân sách địa phương là
1.450 triệu đồng; tổng số lao động được hỗ trợ dạy nghề là 13.751 người, trong
đó: lao động nông thôn là 11.706 người, đồng bào dân tộc thiểu số là 1.227 người,
lao động là người tàn tật là 451 người và lao động thuộc hộ nghèo là 322 người.
Thông qua
chương trình này, các làng nghề truyền thống được khôi phục và phát triển mạnh;
tất cả số lao động thuộc diện mất đất sản xuất được đào tạo chuyển đổi nghề;
nhiều mô hình đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm được thực hiện có hiệu
quả; đặc biệt nhất là tất cả các học viên tốt nghiệp các khoá đào tạo nghề này
đều có việc làm, góp phần ổn định cuộc sống, xoá đói giảm nghèo và chuyển dịch
cơ cấu lao động, cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực (giảm tỷ lệ lao động nông
nghiệp, tăng tỷ lệ lao động phi nông nghiệp).
4. Về chất
lượng dạy nghề.
4.1. Về đội
ngũ cán bộ quản lý, giáo viên dạy nghề.
Tính đến thời
điểm 31/12/2007, thực trạng đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên dạy nghề của tỉnh
như sau:
- Về số lượng:
tổng số cán bộ, giáo viên dạy nghề và nhân viên nghiệp vụ của các trường, trung
tâm, cơ sở dạy nghề trên địa bàn tỉnh là 770 người (tăng 381 người so với năm
2003), trong đó, tổng số giáo viên dạy nghề là 551 người (tăng 334 người so với
năm 2003).
- Về chất lượng:
Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ giáo viên dạy nghề ngày càng được
nâng cao. Đến nay, đã có 470 giáo viên có trình độ đạt chuẩn (chiếm 85,3%);
trong đó, số giáo viên có trình độ đại học là 454 người (chiếm 82,4%), sau đại
học là 16 người (chiếm 2,9%).
(Thực trạng
cán bộ quản lý và giáo viên dạy nghề của tỉnh năm 2007 chi tiết tại Phụ lục 3
kèm theo)
Hằng năm, Sở
Lao động - Thương binh và Xã hội tổ chức đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên theo kế
hoạch để cập nhật kiến thức, công nghệ và phương pháp giảng dạy mới, nâng cao
chất lượng giảng dạy của đội ngũ giáo viên dạy nghề. Trong giai đoạn 2003 -
2007, tổng kinh phí chi cho đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, giáo viên dạy nghề là 01
tỷ đồng, có 752 lượt giáo viên tham gia các khoá bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ
này. Trên cơ sở các lớp hạt nhân, các cơ sở dạy nghề đã chủ động phối hợp với Sở
Lao động - Thương binh và Xã hội tổ chức các lớp bồi dưỡng thường xuyên cho
100% giáo viên của đơn vị mình.
4.2. Về
xây dựng chương trình, giáo trình dạy nghề.
Ngoài các bộ
chương trình dạy nghề chuẩn do Tổng cục Dạy nghề ban hành, tỉnh Quảng Nam đã tổ
chức xây dựng các bộ chương trình dạy nghề chính quy dài hạn và dạy nghề ngắn hạn
phù hợp với đặc thù của nền kinh tế địa phương, đặc điểm công nghệ sản xuất và
yêu cầu sử dụng lao động của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh và khu vực.
Trong giai đoạn 2003 - 2007, đã xây dựng 8 bộ chương trình dạy nghề chính quy dài
hạn, 26 bộ chương trình dạy nghề ngắn hạn (các bộ chương trình này đã được chuyển
đổi thành chương trình dạy nghề trình độ trung cấp nghề, sơ cấp nghề phù hợp với
Luật Dạy nghề và các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành Luật Dạy nghề). Hiện nay, các bộ chương trình này đã được đưa vào đào
tạo có hiệu quả tại các cơ sở dạy nghề, góp phần quan trọng nâng cao chất lượng
lao động qua đào tạo nghề của tỉnh.
4.3. Về cơ
sở vật chất và thiết bị dạy nghề.
Toàn tỉnh có
4 trường, trung tâm được Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội công nhận là cơ sở
dạy nghề trọng điểm gồm: Trường Trung cấp nghề tỉnh Quảng Nam, Trường Trung cấp
nghề Bắc Quảng Nam, Trường Trung cấp nghề Nam Quảng Nam và Trung tâm Dạy nghề
Nam Giang, được đầu tư xây dựng mới từ phòng học lý thuyết, xưởng thực hành,
khu hiệu bộ đến trang thiết bị dạy nghề; nhờ đó quy mô tuyển sinh dạy nghề của
tỉnh tăng lên đáng kể.
Tuy nhiên, do
điều kiện ngân sách địa phương hạn chế nên tiến độ đầu tư xây dựng, mua sắm
trang thiết bị dạy nghề cho các cơ sở này còn chậm, nhiều khu chức năng, nhiều
thiết bị thực hành tay nghề còn thiếu, chưa thực sự đảm bảo tính đồng bộ trong
tổ chức đào tạo nghề.
Các trường
cao đẳng, trung học chuyên nghiệp có tham gia dạy nghề và các cơ sở dạy nghề
ngoài công lập cũng đã quan tâm đầu tư xây dựng, mở rộng cơ sở vật chất và tăng
cường trang thiết bị dạy nghề, đảm bảo tốt yêu cầu tuyển sinh dạy nghề theo quy
mô ngày càng tăng. Đặc biệt 02 đơn vị Trung ương đóng trên địa bàn tỉnh là Trường
Cao đẳng Điện lực Miền Trung thuộc Tập đoàn Điện lực Việt Nam và Trường Trung học
Thủy lợi 2 thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã có các dự án đầu tư
lớn để mở rộng, nâng cấp cơ sở vật chất và tăng cường trang thiết bị dạy nghề;
hiện nay các đơn vị này đang là những cơ sở dạy nghề có quy mô lớn và có chất
lượng đào tạo tốt nhất so với các cơ sở dạy nghề trên địa bàn tỉnh.
4.4. Về chất
lượng đào tạo.
Hằng năm, tỷ
lệ học sinh, học viên tốt nghiệp các khóa đào tạo nghề đều đạt trên 98%; trong
đó đạt loại giỏi và xuất sắc chiếm 15,6%, khá chiếm 20,31%, trung bình khá chiếm
45,47%, trung bình chiếm 18,62%. Số học sinh đạt đạo đức tốt, khá chiếm 91%,
trung bình chiếm 9%.
Số lượng học
sinh, học viên tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm ngay sau khi tốt nghiệp đạt
94%. Đặc biệt, các nghề May công nghiệp, Cơ khí, Mộc dân dụng, Chế biến thủy sản
và các nghề truyền thống, tiểu thủ công nghiệp tỷ lệ này đạt 100%.
Kết quả điều
tra lao động việc làm những năm gần đây cho thấy, tỷ lệ thất nghiệp của người
lao động qua đào tạo nghề chiếm tỷ lệ rất thấp (khoảng 1,8%), số người lao động
tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp thất nghiệp là rất lớn, kế đến là người tốt
nghiệp đại học, cao đẳng.
Nhìn chung,
lao động qua đào tạo nghề của tỉnh cũng đã từng bước đáp ứng yêu cầu của thị
trương lao động, góp phần nâng cao năng suất lao động, tăng sức cạnh tranh của
các cơ sở sản xuất, các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, về kỹ năng
nghề, tác phong công nghiệp và ngoại ngữ đang còn nhiều hạn chế.
5. Nguồn
tài chính đầu tư cho dạy nghề.
Nguồn lực tài
chính đầu tư cho dạy nghề trong giai đoạn 2003 - 2007 theo hướng đẩy mạnh xã hội
hóa; ngân sách nhà nước tập trung đầu tư cho các cơ sở dạy nghề trọng điểm và hỗ
trợ dạy nghề cho các đối tượng đặc thù, kinh phí đào tạo thường xuyên được cấp
theo cơ chế nhà nược đặt hàng cho các cơ sở dạy nghề, còn phần lớn chi phí thường
xuyên được huy động từ sự đóng góp của người học nghề, của các doanh nghiệp và
hợp tác quốc tế.
Trong giai đoạn
2003 - 2007, tổng kinh phí ngân sách đầu tư cho dạy nghề; bao gồm: xây dựng cơ
bản, mua sắm thiết bị dạy nghề, đặt hàng đào tạo nghề trình độ trung cấp, hỗ trợ
dạy nghề cho các đối tượng đặc thù, xây dựng chương trình giáo trình dạy nghề,
đào tạo bồi dưỡng giáo viên dạy nghề... là 46,39 tỷ đồng, trong đó ngân sách
trung ương: 27,33 tỷ đồng, ngân sách tỉnh: 19,06 tỷ đồng.
(Chi tiết
kinh phí đầu tư cho dạy nghề giai đoạn 2003 – 2007 tại Phụ lục 4A và 4B kèm
theo)
Ngoài ra,
theo thống kê, trong giai đoạn 2003 - 2007, tổng kinh phí đầu tư cho dạy nghề
thông qua huy động đóng góp của người học nghề, kinh phí hợp tác quốc tế, hỗ trợ
của các tổ chức quốc tế, tổ chức phi Chính phủ... khoảng 25 tỷ đồng.
Mặc dù nguồn
lực đầu tư cho dạy nghề có tăng qua các năm nhưng chưa tương xướng với yêu cầu
về tăng quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo nghề; việc huy động các nguồn lực
tài chính của các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội cũng như của người lao động
cho dạy nghề còn quá thấp.
6. Công
tác xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, cơ
chế chính sách về dạy nghề.
Từ năm 1999 đến
nay, tỉnh Quảng Nam đã xây dựng, ban hành và triển khai thực hiện có hiệu quả
nhiều đề án, chương trình, kế hoạch, cơ chế, chính sách về lĩnh vực dạy nghề,
đó là:
- Quyết định
số 1611/QĐ-UB ngày 24/5/1999 của UBND tỉnh Quảng Nam về phê duyệt Quy hoạch hệ
thống trường, lớp, cơ sở dạy nghề tỉnh Quảng Nam giai đoạn 1999 - 2010.
- Nghị quyết
số 78/2003/NQ-HĐND ngày 27/10/2003 của Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Nam về công
tác đào tạo nghề giai đoạn 2003 - 2015.
- Quyết định
số 118/2003/QĐ-UB ngày 17/11/2003 của UBND tỉnh Quảng Nam về ban hành Đề án Đào
tạo nghề tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2003 - 2015.
- Quyết định
số 13/2004/QĐ-UB ngày 17/3/2004 của UBND tỉnh Quảng Nam về thành lập Quỹ giải
quyết việc làm tỉnh Quảng Nam.
- Quyết định số
19/2004/QĐ-UB ngày 17/3/2004 của UBND tỉnh Quảng Nam về việc ban hành Đề án xuất
khẩu lao động tỉnh Quảng Nam đến năm 2005 và 2010.
- Kế hoạch hỗ
trợ đào tạo nghề cho lao động nông thôn, thanh niên dân tộc thiểu số và lao động
là người tàn tật hằng năm.
Theo đó, nhiều
cơ chế, chính sách về lĩnh vực dạy nghề được tổ chức thực hiện như:
+ Chế độ hỗ dạy
nghề cho đồng bào dân tộc thiểu số với mức 100% kinh phí, cả kinh phí đào tạo
và kinh phí ăn, ở, sinh hoạt, đi lại.
+ Chế độ hỗ
trợ dạy nghề ngắn hạn cho lao động nông thôn với mức kinh phí 200.000 đồng/tháng.
Đặc biệt, đối với đối tượng lao động nông thôn bị mất đất sản xuất do quy hoạch
di dời phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương được hỗ trợ 100% kinh
phí học nghề.
+ Chế độ hỗ
trợ dạy nghề ngắn hạn cho lao động là người tàn tật với mức kinh phí đảm cho
đào tạo, ăn, ở, sinh hoạt.
+ Chế độ hỗ
trợ dạy nghề cho lao động thuộc hộ nghèo, bao gồm kinh phí đào tạo là 300.000đồng/tháng
và kinh phí đảm bảo cho ăn, ở, sinh hoạt, đi lại.
+ Hỗ trợ
doanh nghiệp đào tạo, liên kết đào tạo và sử dụng người lao động tỉnh Quảng Nam
vào làm việc ổn định tại doanh nghiệp với mức hỗ trợ tối đa 300.000đồng/người.
+ Hỗ trợ tiền
học phí cho giáo viên, học viên tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng giáo viên dạy
nghề do tỉnh tuyển chọn và cử đi đào tạo tại các trường trong nước và nước
ngoài. Cử tuyển đi đào tạo giáo viên dạy nghề trình độ đại học tại Trường Đại học
Sư phạm kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh với số lượng 28 người, hiện nay đã tốt
nghiệp và bố trí sử dụng.
+ Hỗ trợ cho
các cơ sở dạy nghề được vay vốn với lãi suất ưu đãi để đầu tư xây dựng cơ sở vật
chất, mua sắm trang thiết bị dạy nghề.
+ Hỗ trợ cho
người lao động được vay vốn với lãi suất ưu đãi để học nghề, giáo dục định hướng
và đi xuất khẩu lao động.
+ Chính sách
miễn giảm tiền thuê đất, miễn và hỗ trợ một phần các loại phí sử dụng hạ tầng
(nếu có), miễn giảm các loại thuế thu nhập đối với các tổ chức, cá nhân đầu tư
xây dựng cơ sở dạy nghề tư thục trên địa bàn tỉnh; khi cần thiết có thể hỗ trợ
một phần tiền đền bù giải toả mặt bằng hoặc chuyển giao công nghệ từ các nghệ
nhân, chuyên gia.
+ Chính sách
ưu đãi giáo viên dạy nghề.
Nhìn chung,
trong những năm qua, công tác dạy nghề của tỉnh Quảng Nam đã đạt được những kết
quả quan trọng, tạo được sự chuyển biến tích cực về nhận thức của các cấp, các
ngành và của toàn xã hội về dạy nghề; hệ thống pháp luật và các cơ chế chính
sách về dạy nghề được ban hành đã tạo được hành lang pháp lý cho dạy nghề phát
triển; dạy nghề đã chuyển đổi theo hướng tiếp cận sát với công nghệ và nhu cầu
của thị trường lao động; hệ thống cơ sở dạy nghề đã phát triển mở rộng theo
đúng quy hoạch; quy mô dạy nghề tăng nhanh; đa dạng về hình thức dạy nghề, đã
có nhiều mô hình về dạy nghề gắn với việc làm; các điều kiện đảm bảo chất lượng
dạy nghề đã được tăng cường, chất lượng dạy nghề được nâng lên rõ rệt, đáp ứng
ngày càng tốt hơn nhu cầu lao động kỹ thuật của các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất
trên địa bàn tỉnh, nhu cầu của thị trường lao động trong nước và xuất khẩu lao
động, tạo nhiều cơ hội cho người lao động tỉnh nhà học nghề, lập nghiệp, góp phần
giảm nghèo, nhất là ở khu vực nông thôn, miền núi, và thúc đẩy quá trình chuyển
dịch cơ cấu lao động, cơ cấu kinh tế của tỉnh theo hướng tích cực.
III. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân.
Bên cạnh những
thành tựu đạt được, công tác dạy nghề của tỉnh còn bộc lộ nhiều tồn tại, hạn chế,
bất cập trước yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội
nhập kinh tế quốc tế, chưa theo kịp nhu cầu thị trường lao động, đó là:
- Hệ thống cơ
sở dạy nghề của tỉnh tuy được phát triển, mở rộng so với trước đây, nhưng vẫn
chưa đáp ứng được yêu cầu đào tạo nghề theo 3 cấp trình độ: sơ cấp nghề, trung
cấp nghề và cao đẳng nghề (trên địa bàn tỉnh hiện nay chưa có trường cao đẳng
nghề).
- Việc đa dạng
hoá các loại hình đào tạo chưa được thực hiện mạnh mẽ: mới chỉ chú trọng đến
hình thức dạy nghề chính quy tập trung và dạy nghề thường xuyên dưới 3 tháng,
chưa phát triển loại hình dạy nghề chính quy theo hình thức vừa làm vừa học;
hình thức dạy nghề tại doanh nghiệp chưa phát triển mạnh.
- Ngành nghề
đào tạo được mở rộng nhưng chưa thực sự đầu tư có chiều sâu cho một số ngành
nghề có kỹ thuật công nghệ cao để phục vụ yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hóa
và xuất khẩu lao động như: bảo dưỡng, sửa chữa lắp ráp các thiết bị chính xác,
hóa dầu, cơ khí chế tạo máy, các nghề thuộc lĩnh vực tự động hoá, công nghệ du
lịch...
- Những nghề
truyền thống về thủ công mỹ nghệ như: khảm trai, khắc chạm, gia công đá quý,
thêu ren và chế biến thuỷ sản, ươm tơ dệt lụa tuy đã được khôi phục nhưng chưa
phát triển mạnh. Vốn nghề trong nhân dân, những nghệ nhân chưa được khai thác,
việc truyền nghề chưa được tổ chức rộng rãi.
- Các điều kiện
đảm bảo chất lượng dạy nghề còn nhiều hạn chế, chất lượng dạy nghề chưa đáp ứng
yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
kinh tế quốc tế.
Những tồn tại,
hạn chế, bất cập nêu trên do những nguyên nhân chủ yếu sau:
- Việc triển
khai Luật Dạy nghề còn lúng túng do hệ thống văn bản quy phạm pháp luật quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Dạy nghề chưa được ban hành đầy đủ.
- Hệ thống cơ
chế, chính sách về lĩnh vực dạy nghề và học nghề chưa đồng bộ, chưa thật sự tạo
động lực thúc đẩy dạy nghề phát triển mạnh.
- Việc tuyên
truyền giáo dục pháp luật về dạy nghề trong nhân dân chưa được đẩy mạnh, nhận
thức của người lao động về dạy nghề chưa đúng, còn tư tưởng coi trọng bằng cấp,
chỉ học nghề khi không đủ điều kiện theo học đại học, cao đẳng, chưa thấy được
lợi thế của học nghề trong quá trình tham gia vào sự nghiệp phát triển kinh tế
xã hội của đất nước và sự tiến thân của mỗi người với phương châm học tập suốt
đời. Chưa chỉ đạo triển khai mạnh mẽ chính sách phân luồng đào tạo hợp lý cho học
sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông.
- Đầu tư cho
dạy nghề chưa đúng mức, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, mở rộng quy mô và nâng
cao chất lượng đào tạo nghề; nhiều dự án đầu tư xây dựng mới, nâng cấp cơ sở dạy
nghề, đầu tư mua sắm thiết bị dạy nghề đã được phê duyệt nhưng thiếu vốn đầu
tư, không đảm bảo tiến độ thực hiện. Cơ cơ vật chất, thiết bị dạy nghề của các
cơ sở dạy nghề ngoài công lập còn rất thiếu thốn, lạc hậu chưa đáp ứng được yêu
cầu phát triển của khoa học công nghệ hiện nay.
- Trình độ,
năng lực của đội ngũ giáo viên dạy thực hành nghề còn nhiều bất cập, thiếu về số
lượng và yếu về chất lượng, đặc biệt, rất thiếu đội ngũ giáo viên có tay nghề
giỏi, vì vậy, chưa đáp ứng được yêu cầu đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật chất
lượng cao. Phần lớn giáo viên dạy nghề của tỉnh hiện nay không được đào tạo từ
các trường sư phạm kỹ thuật, mà chủ yếu được đào tạo ở các trường kinh tế, kỹ
thuật và sư phạm.
- Chưa coi
đào tạo nhân lực là một yếu tố cần thiết trong việc xây dựng kết cấu hạ tầng,
chưa có sự quan tâm đúng mức từ các nhà hoạch định chính sách, những người quản
lý sản xuất. Hiện nay, hoạt động đào tạo đang đứng ngoài sản xuất, dịch vụ, người
chủ sản xuất, dịch vụ không cần phải đầu tư cho đào tạo nhưng lại toàn quyền sử
dụng nhân lực đào tạo.
IV. Bài học kinh nghiệm.
Từ những kết quả
đã đạt được và những tồn tại trong quá trình thực hiện công tác dạy nghề giai
đoạn 2003 - 2007, đã đúc kết được những bài học kinh nghiệm như sau:
- Dạy nghề chỉ
phát triển mạnh và đạt chất lượng cao khi các cấp, các ngành và toàn xã hội có
nhận thức đúng đắn, đầy đủ về vị trí, vai trò của nó trong sự nghiệp phát triển
nguồn nhân lực phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội trong tiến trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế.
- Phải xây dựng
và ban hành những cơ chế, chính sách cụ thể, phù hợp, tạo hành lang pháp lý và
động lực cho dạy nghề phát triển.
- Thực hiện một
cách mềm dẻo và linh hoạt chủ trương xã hội hoá dạy nghề để huy động mọi nguồn
lực đầu tư cho dạy nghề. Xã hội hóa dạy nghề không chỉ là đa dạng hóa nguồn lực
tài chính mà đa dạng hóa các loại nguồn lực, đa dạng hóa nội dung và phương thức
thực hiện.
- Bên cạnh việc
đẩy mạnh xã hội hoá dạy nghề, Nhà nước cần giữ vai trò chủ đạo trong việc đầu
tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị đào tạo nghề. Đặc biệt, là phải tập
trung đầu tư mạnh các cơ sở dạy nghề trọng điểm.
- Dạy nghề sẽ
phát triển nhanh khi có sự đóng góp trách nhiệm của bên sử dụng lao động: các
doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất, hợp tác xã, làng nghề. Vì vậy, cần phải có cơ
chế phối hợp giữa bên sử dụng và cơ sở dạy nghề nhằm tạo điều kiện gắn đào tạo
với sản xuất, phải có cơ chế để huy động nguồn kinh phí từ người sử dụng lao động
và các thành phần kinh tế phục vụ đào tạo nghề.
Phần thứ hai
NHIỆM VỤ ĐÀO TẠO NGHỀ PHỤC
VỤ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA TỈNH GIAI ĐOẠN 2008 - 2015
I. Quan điểm chỉ đạo.
1. Tập
trung đầu tư phát triển nhanh đào tạo nghề cả về quy mô, chất lượng và hiệu quả
ở tất cả các loại hình đào tạo, cấp trình độ đào tạo: cao đẳng nghề, trung cấp
nghề, sơ cấp nghề và dạy nghề thường xuyên, nhằm tăng nhanh tỷ lệ lao động qua
đào tạo nghề. Phát triển dạy nghề gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
của tỉnh trong từng giai đoạn, đáp ứng nhu cầu nhân lực cho việc chuyển tỉnh Quảng
Nam thành tỉnh công nghiệp vào giai đoạn 2015 - 2020, đồng thời đảm bảo hợp lý
về cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng miền; kết hợp giữa đào tạo
và sử dụng; coi trọng thực hành, gắn đào tạo với yêu cầu thực tế sản xuất, gắn
với cơ sở sản xuất kinh doanh, đảm bảo chất lượng và hiệu quả cao.
2. Đầu
tư dạy nghề là đầu tư cho phát triển, vì vậy Nhà nước tiếp tục ưu tiên và tập
trung đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở, trang thiết bị, đất đai và tín dụng cho cơ
sở dạy nghề và người học nghề; đầu tư đào tạo, bồi dưỡng, phát triển mạnh đội
ngũ giáo viên và cán bộ quản lý dạy nghề; đầu tư phát triển dạy nghề ở miền
núi, các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn.
3.
Cùng với việc tập trung đầu tư cho dạy nghề, Nhà nước sẽ tiếp tục có cơ chế,
chính sách, giải pháp để đẩy mạnh xã hội hóa dạy nghề; tạo mọi điều kiện cho tổ
chức, cá nhân phát huy tối đa tiềm lực và khả năng tham gia phát triển dạy nghề,
đáp ứng tốt nhất nhu cầu học nghề của người lao động. Xã hội hóa dạy nghề không
chỉ là đa dạng hóa nguồn lực tài chính mà đa dạng hóa các loại nguồn lực, bao gồm
nhân lực (cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước), tài lực (tài chính), vật lực
(trang thiết bị, cơ sở vật chất khác); đa dạng hóa nội dung và phương thức thực
hiện.
4. Bên
cạnh việc đáp ứng yêu cầu đào tạo nghề phổ thông cho người lao động, cần đầu tư
có trọng điểm để đào tạo nghề chất lượng cao. Đa dạng hóa trình độ, ngành nghề
đào tạo; đảm bảo liên thông giữa các trình độ đào tạo nghề với các trình độ đào
tạo khác trong hệ thống giáo dục quốc dân.
II. Nhu cầu đào tạo nghề phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế -
xã hội của tỉnh giai đoạn 2008 - 2015
Với sự hình
thành và phát triển của Khu kinh tế mở Chu Lai, Khu công nghiệp Điện Nam - Điện
Ngọc và nhiều khu, cụm công nghiệp khác như: Khu công nghiệp Bắc Chu Lai, Khu
công nghiệp Thuận Yên, Khu công nghiệp Đông Quế Sơn…; sự khôi phục và phát triển
của các làng nghề truyền thống, đồng thời, trước yêu cầu phát triển kinh tế -
xã hội, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, hội nhập kinh tế quốc tế, phấn đấu thực hiện
đạt mục tiêu đưa Quảng Nam cơ bản thành tỉnh công nghiệp vào giai đoạn 2015 -
2020, đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ khoa học kỹ thuật, chuyên
gia kỹ thuật, công nhân lành nghề trình độ cao, với số lượng lớn mới đáp ứng
nhu cầu sử dụng lao động của tỉnh trong thời gian đến. Trên cơ sở nguồn lao động,
quy hoạch phát triển ngành và quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh
Quảng Nam đến năm 2015, dự báo nhu cầu lao động qua đào tạo nghề của tỉnh giai
đoạn 2008 - 2015 như sau:
Chỉ tiêu
|
ĐVT
|
2008
|
2009
|
2010
|
2015
|
1. Dân số
|
ngàn
người
|
1.503
|
1.518
|
1.534
|
1.614
|
2. Dân số
trong độ tuổi lao động
|
ngàn
người
|
918
|
927
|
937
|
1.000
|
- Tỷ lệ %
so với dân số
|
%
|
61,11
|
61,11
|
61,11
|
62
|
3. Lao động
đang làm việc trong các ngành kinh tế
|
ngàn
người
|
794
|
804
|
815
|
880
|
4. Số lao động
qua đào tạo nghề
|
ngàn
người
|
174
|
207
|
244
|
352
|
5. Tỷ lệ
lao động qua đào tạo
|
%
|
29,5
|
34,0
|
40,0
|
50,0
|
6. Tỷ lệ lao
động qua đào tạo nghề
|
%
|
22,0
|
25,8
|
30,0
|
40,0
|
* Ghi chú:
- Tỷ lệ lao động
qua đào tạo nghề là tỷ lệ lao động qua mọi cấp trình độ đào tạo nghề: cao đẳng
nghề, trung cấp nghề, sơ cấp nghề và dạy nghề thường xuyên (dưới 3 tháng) trên
tổng số lao động hoạt động kinh tế thường xuyên.
- Tỷ lệ lao động
qua đào tạo là tỷ lệ lao động qua đào tạo ở mọi cấp độ, mọi loại hình đào tạo
(đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và đào tạo nghề) trên tổng số lao động
hoạt động kinh tế thường xuyên.
III. Mục tiêu:
Trên cơ sở
quan điểm chỉ đạo công tác đào tạo nghề phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của
tỉnh giai đoạn 2008 - 2015; mục tiêu, chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội và
nhu cầu lao động qua đào tạo nghề của tỉnh giai đoạn 2008 - 2015, tỉnh Quảng
Nam đề ra mục tiêu phát triển dạy nghề giai đoạn 2008 - 2015 như sau:
1. Mục
tiêu chung.
- Đào tạo nguồn
nhân lực kỹ thuật trực tiếp trong sản xuất, dịch vụ có năng lực thực hành nghề
tương ứng với trình độ đào tạo, có sức khỏe, đạo đức nghề nghiệp, ý thức tổ chức
kỷ luật, tác phong công nghiệp, có khả năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc
học lên trình độ cao hơn, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
- Hướng tới mục
tiêu dạy nghề phải đáp ứng yêu cầu đào tạo nhân lực kỹ thuật trong điều kiện
khoa học công nghệ phát triển, phục vụ các ngành kinh tế chiến lược của tỉnh.
2. Mục
tiêu cụ thể (chi tiết tại Phụ lục 2B kèm theo).
2.1. Về
xây dựng và phát triển hệ thống mạng lưới cơ sở dạy nghề.
STT
|
CHỈ TIÊU
|
ĐVT
|
ĐẾN
NĂM 2010
|
ĐẾN
NĂM 2015
|
1
|
- Trường
Cao đẳng nghề
- Trường
Trung cấp nghề
- Trung tâm
dạy nghề
|
|
01
03
39
|
03
03
50
|
2
|
Tỷ lệ lao động
qua đào tạo nghề
|
%
|
30
|
40
|
3
|
Tỷ lệ giáo
viên dạy nghề có trình độ sau đại học:
- Cao đẳng
nghề
- Trung cấp
nghề
|
%
|
15
10
|
25
25
|
4
|
Tỷ lệ giáo
viên/học sinh
|
|
1/20
|
1/17
|
5
|
Tỷ lệ Trường
Cao đẳng nghề, Trung cấp nghề đạt chuẩn về cơ sở vật chất
|
%
|
60
|
80
|
2.2. Về cơ
cấu đào tạo nghề theo ba cấp trình độ (cao đẳng nghề, trung cấp nghề, sơ cấp
nghề và dạy nghề thường xuyên trong tổng số lượng tuyển sinh đào tạo nghề).
CÁC
CẤP TRÌNH ĐỘ
|
Năm
2008
|
Năm
2009
|
Năm
2010
|
Đến
năm 2015
|
1. Cao đẳng
nghề (%)
|
-
|
1,52
|
1,89
|
6,00
|
2. Trung cấp
nghề (%)
|
8,33
|
9,09
|
10,81
|
20,00
|
3. Sơ cấp
nghề (%)
|
48,34
|
46,97
|
45,41
|
40,00
|
4. Dạy nghề
thường xuyên (%)
|
43,33
|
42,42
|
41,89
|
34,00
|
2.3. Về
quy mô tuyển sinh đào tạo nghề.
CÁC
CẤP TRÌNH ĐỘ
|
2008
|
2009
|
2010
|
2011
- 2015
|
1. Cao đẳng
nghề
|
-
|
500
|
700
|
10.000
|
2. Trung cấp
nghề
|
2.500
|
3.000
|
4.000
|
30.000
|
3. Sơ cấp
nghề
|
14.500
|
15.500
|
16.800
|
90.000
|
4. Dạy nghề
thường xuyên
|
13.000
|
14.000
|
15.500
|
70.000
|
Tổng cộng
|
30.000
|
33.000
|
37.000
|
200.000
|
Phần thứ ba
CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
DẠY NGHỀ
I. Giải pháp về nâng cao nhận thức.
Tăng cường
công tác tuyên truyền, phổ biến rộng rãi Luật Dạy nghề và các văn bản quy phạm
pháp luật về dạy nghề nhằm nâng cao nhận thức của các cấp lãnh đạo và toàn xã hội
về dạy nghề, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội về vai trò, vị trí của công tác
dạy nghề trong phát triển nguồn nhân lực.
II. Giải pháp về quy hoạch, củng cố và phát triển hệ thống cơ
sở dạy nghề.
- Phân bố hợp
lý các cơ sở dạy nghề trên địa bàn tỉnh, kết hợp với đa dạng hóa các hình thức
dạy nghề, tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động ở mọi vùng miền của tỉnh đều
có cơ hội học nghề.
- Đầu tư tập
trung cho các cơ sở dạy nghề trọng điểm theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, đảm
bảo đến năm 2015, Quảng Nam có trên 60 cơ sở dạy nghề. Giai đoạn sau năm 2015,
tập trung đầu tư để các cơ sở dạy nghề trọng điểm đạt chuẩn quốc gia, đảm bảo
năng lực đào tạo nghề ở 3 cấp trình độ: cao đẳng nghề, trung cấp nghề và sơ cấp
nghề; đổi mới cơ cấu ngành nghề đào tạo, cơ cấu vùng, miền nhằm đáp ứng yêu cầu
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, của từng ngành kinh tế, của thị trường
lao động trong nước và xuất khẩu lao động; mở rộng các ngành nghề đào tạo thuộc
lĩnh vực công nghệ sinh học, tự động hóa, công nghệ thông tin, điện tử viễn
thông, công nghiệp đóng tàu, công nghiệp quốc phòng.
- Đẩy mạnh thực
hiện chủ trương xã hội hóa dạy nghề, khuyến khích phát triển các cơ sở dạy nghề
ngoài công lập; huy động các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp,
các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất trên địa bàn tỉnh tham gia đào tạo nghề. Trong
đó, đặc biệt chú trọng phát triển loại hình dạy nghề ngay tại doanh nghiệp và dạy
nghề lưu động nhằm gắn đào tạo nghề với giải quyết việc làm tại chổ.
- Phát triển
mạnh hệ thống dạy nghề thường xuyên thông qua việc khôi phục và phát triển các
làng nghề truyền thống: mộc mỹ nghệ (Kim Bồng - Hội An); đúc nhôm đồng (Điện
Phương - Điện Bàn); trồng dâu nuôi tằm, ươm tơ dệt vải (Duy Xuyên, Điện Bàn, Đại
Lộc); đánh bắt, chế biến thủy hải sản (Núi Thành, Tam Kỳ, vùng Đông Duy Xuyên);
đồ gốm (Thăng Bình); đồ đá mỹ nghệ (Điện Ngọc - Điện Bàn); đan mây tre lát (Núi
Thành, Duy Xuyên, Tam Kỳ); Dệt thổ cẩm (Đông Giang, Nam Giang)...
Trên cơ sở rà
soát lại quy hoạch hệ thống trường lớp, cơ sở đào tạo nghề của tỉnh Quảng Nam
giai đoạn 1999 - 2010; căn cứ quy hoạch phát triển dạy nghề của Trung ương và định
hướng phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh giai đoạn 2008 - 2015, quy hoạch
phát triển hệ thống mạng lưới cơ sở dạy nghề của tỉnh giai đoạn 2008 - 2015 như
sau:
Giai đoạn
2008 - 2010:
+ Tập trung đầu
tư cơ sở vật chất, thiết bị dạy nghề theo hướng chuẩn hóa; mở rộng ngành nghề
và tăng quy mô đào tạo của các cơ sở dạy nghề trọng điểm.
+ Thành lập mới
01 trường cao đẳng nghề trên cơ sở nâng cấp Trường Trung cấp nghề tỉnh Quảng
Nam vào năm 2008;
+ Thành lập mới
01 trường trung cấp nghề miền núi Quảng Nam trên cơ sở nâng cấp Trung tâm dạy
nghề Nam Giang;
+ Thành lập mới
02 trung tâm dạy nghề tại 02 huyện: Bắc Trà My, Đại Lộc;
+ Phát triển 05
cơ sở dạy nghề của doanh nghiệp.
Đến năm 2010,
toàn tỉnh có 50 cơ sở dạy nghề, bao gồm: 01 trường cao đẳng nghề; 03 trường
trung cấp nghề; 07 trường cao đẳng, trung học chuyên nghiệp có dạy nghề; 39
trung tâm dạy nghề (trong đó có 08 cơ sở thuộc doanh nghiệp); được phân bố như
sau:
+ Khu vực
thành phố Tam Kỳ, Phú Ninh, Thăng Bình có 24 cơ sở, gồm: 01 trường cao đẳng nghề;
04 trường cao đẳng, trung học chuyên nghiệp có dạy nghề; 19 trung tâm dạy nghề
(trong đó, có 03 cơ sở dạy nghề thuộc doanh nghiệp).
+ Khu vực các
huyện đồng bằng phía Bắc của tỉnh có 17 cơ sở, gồm: 01 trường trung cấp nghề;
03 trường cao đẳng, trung học chuyên nghiệp có dạy nghề; 13 trung tâm dạy nghề
(trong đó, có 03 cơ sở dạy nghề thuộc doanh nghiệp).
+ Khu vực các
huyện đồng bằng phía Nam của tỉnh có 4 cơ sở, gồm: 01 trường trung cấp nghề; 3
trung tâm dạy nghề (trong đó, có 02 cơ sở dạy nghề thuộc doanh nghiệp).
+ Khu vực các
huyện miền núi phía Bắc (Đông Giang, Tây Giang, Nam Giang, Phước Sơn, Hiệp Đức)
có 02 cơ sở dạy nghề, gồm: 01 trường trung cấp nghề; 01 trung tâm dạy nghề.
+ Khu vực các
huyện miền núi phía Nam (Bắc Trà My, Nam Trà My, Tiên Phước): có 03 trung tâm dạy
nghề.
Giai đoạn
2011 - 2015:
+ Tập trung đầu
tư hoàn thiện, hiện đại hóa hệ thống cơ sở dạy nghề của tỉnh.
+ Nâng cấp
Trường Trung cấp nghề Bắc Quảng Nam và Trường Trung cấp nghề Nam Quảng Nam lên
Trường Cao đẳng nghề.
+ Thành lập mới
02 trường trung cấp nghề trên cơ sở nâng cấp Trung tâm Dạy nghề và Hỗ trợ việc
làm nông dân trực thuộc Hội Nông dân tỉnh và Trung tâm đào tạo nghề giao thông
vận tải trực thuộc Công ty cổ phần Giao thông vận tải Quảng Nam.
+ Thành lập mới
05 trung tâm dạy nghề tại Tiên Phước, Duy Xuyên, Đông Giang, Hiệp Đức, Phước
Sơn.
+ Phát triển
08 cơ sở dạy nghề của doanh nghiệp.
Như vậy, đến
năm 2015, toàn tỉnh có 63 cơ sở dạy nghề gồm: 03 trường cao đẳng nghề; 03 trường
trung cấp nghề; 07 trường cao đẳng, trung học chuyên nghiệp có dạy nghề; 50
trung tâm dạy nghề (trong đó có 16 cơ sở dạy nghề thuộc doanh nghiệp); được
phân bố như sau:
+ Khu vực
thành phố Tam Kỳ, Phú Ninh, Thăng Bình có 26 cơ sở, gồm: 01 trường cao đẳng nghề;
02 trường trung cấp nghề; 04 trường cao đẳng, trung học chuyên nghiệp có dạy
nghề; 19 trung tâm dạy nghề (trong đó có 05 cơ sở dạy nghề thuộc doanh nghiệp,
cơ sở sản xuất).
+ Khu vực các
huyện đồng bằng phía Bắc của tỉnh có 21 cơ sở, gồm: 01 trường cao đẳng nghề; 03
trường cao đẳng, trung học chuyên nghiệp có dạy nghề; 17 trung tâm dạy nghề
(trong đó có 06 cơ sở dạy nghề thuộc doanh nghiệp, cơ sở sản xuất).
+ Khu vực các
huyện đồng bằng phía Nam của tỉnh có 7 cơ sở, gồm: 01 trường cao đẳng nghề, 06
trung tâm dạy nghề (trong đó có 05 cơ sở dạy nghề thuộc doanh nghiệp);
+ Khu vực các
huyện miền núi phía Bắc của tỉnh (Đông Giang, Tây Giang, Nam Giang, Phước Sơn,
Hiệp Đức) có 05 cơ sở, gồm: 01 trường trung cấp nghề, 04 trung tâm dạy nghề.
+ Khu vực các
huyện miền núi phía Nam của tỉnh (Bắc Trà My, Nam Trà My, Tiên Phước) có 04
trung tâm dạy nghề.
Giai đoạn
sau 2015:
Tập trung đầu
tư nâng cấp các cơ sở dạy nghề trọng điểm của tỉnh lên tầm quốc gia, quốc tế; mở
rộng ngành nghề đào tạo thuộc các lĩnh vực công nghệ sinh học, tự động hóa,
công nghệ thông tin, điện tử viễn thông, công nghiệp đóng tàu, công nghiệp quốc
phòng...; phát triển mạnh loại hình cơ sở dạy nghề thuộc doanh nghiệp. Đến năm
2020, toàn tỉnh có 70 cơ sở dạy nghề gồm: 03 trường cao đẳng nghề; 03 trường
trung cấp nghề; 10 trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp có dạy nghề;
54 trung tâm dạy nghề.
III. Giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo nghề.
1. Về
chương trình, giáo trình dạy nghề.
Tập trung chỉ
đạo, hướng dẫn các cơ sở dạy nghề trên địa bàn tỉnh xây dựng và đổi mới nội
dung chương trình, giáo trình dạy nghề ở 3 cấp trình độ đào tạo: sơ cấp nghề,
trung cấp nghề, cao đẳng nghề theo quy định chương trình khung của Bộ Lao động
- Thương binh và Xã hội và tiêu chuẩn kỹ năng nghề phù hợp với tiến bộ kỹ thuật,
công nghệ sản xuất, tiếp cận trình độ tiến tiến trong khu vực và thế giới; đảm
bảo đào tạo liên thông giữa các trình độ đào tạo nghề với các trình độ đào tạo
khác trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Đến năm
2010:
+ Các trường
cao đẳng nghề và trung cấp nghề phải xây dựng đầy đủ chương trình, giáo trình dạy
nghề phù hợp với chương trình khung do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban
hành, đảm bảo liên thông với các trình độ đào tạo khác trong hệ thống giáo dục
quốc dân.
+ Các cơ sở dạy
nghề phối hợp với các cơ sở sản xuất, các nghệ nhân để xây dựng hoàn chỉnh
chương trình dạy nghề trình độ sơ cấp đối với các nghề tiểu thủ công nghiệp,
nghề truyền thống (khoảng 50% số lượng nghề trong danh mục các nghề tiểu thủ
công nghiệp, nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh).
Giai đoạn
sau 2015:
+ Các trường
cao đẳng nghề và trung cấp nghề có chương trình, giáo trình dạy nghề được xây dựng
theo phương pháp tiến tiến, sát với công nghệ sản xuất, đảm bảo liên thông với
các trình độ đào tạo khác trong hệ thống giáo dục quốc dân.
+ Các cơ sở dạy
nghề phối hợp với các cơ sở sản xuất, các nghệ nhân xây dựng hoàn chỉnh chương
trình dạy nghề trình độ sơ cấp đối với các nghề tiểu thủ công nghiệp, nghề truyền
thống còn lại.
2. Về đội
ngũ giáo viên và cán bộ quản lý dạy nghề.
- Tập trung
tuyển chọn, đào tạo, phát triển đội ngũ giáo viên đủ về số lượng, có phẩm chất,
đạo đức nghề nghiệp; đạt chuẩn trình độ đào tạo về lý thuyết, thực hành, nghiệp
vụ sư phạm dạy nghề; có trình độ tin học, ngoại ngữ để áp dụng vào giảng dạy và
nghiên cứu khoa học.
- Quy hoạch đào tạo trình độ tiến sĩ, thạc sĩ cho đội
ngũ cán bộ quản lý, giáo viên dạy nghề ở các trường cao đẳng nghề, trung cấp
nghề trên địa bàn tỉnh. Thực hiện chính sách hỗ trợ đào tạo và đào tạo nguồn
cán bộ có trình độ sau đại học theo Quyết định số 10/2008/QĐ-UBND ngày
02/4/2008 của UBND tỉnh và chính sách thu hút cán bộ có trình độ sau đại học
theo Quyết định số 11/2008/QĐ-UBND ngày 02/4/2008 của UBND tỉnh đối với cán bộ
quản lý và giáo viên dạy nghề.
- Thực hiện
chế độ cử tuyển đào tạo cán bộ quản lý, giáo viên dạy nghề cho các trường,
trung tâm dạy nghề, đặc biệt, đối với miền núi; đào tạo giáo viên dạy nghề thuộc
các lĩnh vực công nghệ cao, ngành nghề quan trọng như: công nghệ sinh học, tự động
hóa, công nghệ thông tin, điện tử viễn thông, công nghiệp đóng tàu, công nghiệp
quốc phòng... tại các cơ sở đào tạo trong nước và nước ngoài.
- Định kỳ tổ
chức bồi dưỡng, nâng cao năng lực quản lý, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm
cho đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý dạy nghề bằng nhiều hình thức phù hợp,
hiệu quả; kể cả nghiên cứu thực tế, giao lưu, hội thảo khoa học tại các cơ sở dạy
nghề tiên tiến trong và ngoài nước.
- Thực hiện chế độ phụ cấp đứng lớp đối với giáo viên tại
các cơ sở dạy nghề công lập theo đúng quy định của Nhà nước.
- Thành lập
khoa sư phạm kỹ thuật trong Trường Cao đẳng nghề tỉnh Quảng Nam vào năm 2012 để
đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên đội ngũ giáo viên dạy nghề của tỉnh và khu vực
Miền Trung - Tây nguyên.
Đến năm
2010: Đảm bảo tỷ lệ giáo viên/học sinh đạt khoảng 1/20; có 100% giáo viên đạt
chuẩn trình độ đào tạo; 15% giáo viên trong các trường cao đẳng nghề và 10%
giáo viên dạy nghề trong các trường trung cấp nghề có trình độ sau đại học.
Đến năm
2015: Đảm bảo tỷ lệ giáo viên/học sinh đạt khoảng 1/17; 25% giáo viên trong
các trường cao đẳng nghề và trung cấp nghề có trình độ sau đại học; 50% các nghệ
nhân, thợ lành nghề tham gia hoạt động dạy nghề được chuẩn hoá về trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm dạy nghề.
Giai đoạn
sau 2015: Đảm bảo tỷ lệ giáo viên/học sinh đạt khoảng 1/15; 35% giáo viên
trong các trường cao đẳng nghề và trung cấp nghề có trình độ sau đại học; 100%
các nghệ nhân, thợ lành nghề tham gia hoạt động dạy nghề được chuẩn hoá về
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm dạy nghề.
3. Về cơ sở
vật chất, trang thiết bị dạy nghề.
- Tập trung
huy động mọi nguồn lực tài chính theo phương thức xã hội hoá đầu tư cho phát
triển dạy nghề; ngân sách nhà nước đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và
trang thiết bị dạy nghề cho các cơ sở dạy nghề trọng điểm theo hướng chuẩn hoá
và hiện đại hóa, đảm bảo đầu tư các phân khu chức năng, các hạng mục công trình
đáp ứng cho hoạt động dạy, học nghề và giáo dục toàn diện.
- Có cơ chế
phù hợp để kêu gọi sự hợp tác đầu tư của các doanh nghiệp trong việc tăng cường
thiết bị dạy nghề cho các cơ sở dạy nghề hoặc theo hướng liên kết đào tạo, đào
tạo kỹ năng cơ bản tại trường, kỹ năng chuyên sâu tại doanh nghiệp.
Đến năm
2010: 60% số trường cao đẳng nghề, trường trung cấp nghề đạt chuẩn về đất
đai, trang thiết bị, nhà xưởng, phòng học, thư viện, ký túc xá và khu rèn luyện
thể chất.
Đến năm
2015: 80% số trường cao đẳng nghề, trường trung cấp nghề đạt chuẩn về đất
đai, trang thiết bị, nhà xưởng, phòng học, thư viện, ký túc xá và khu rèn luyện
thể chất.
Giai đoạn
sau 2015: 100% số trường cao đẳng nghề, trường trung cấp nghề đạt chuẩn về
đất đai, trang thiết bị, nhà xưởng, phòng học, thư viện, ký túc xá và khu rèn
luyện thể chất.
IV. Giải pháp về tài chính.
- Đẩy mạnh thực
hiện chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực
giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường theo Nghị định số
69/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008 của Chính phủ; Đề án phát triển xã hội hóa dạy nghề
đến năm 2010 theo Quyết định số 1000/2005/QĐ-BLĐTBXH ngày 07/6/2005 của Bộ trưởng
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi
cho các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài đầu tư thành lập cơ sở dạy
nghề tư thục, cơ sở dạy nghề có vốn đầu tư nước ngoài; mở rộng hình thức hợp đồng
liên kết đào tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ giữa cơ sở dạy nghề
của tỉnh với các cơ sở dạy nghề trong nước và nước ngoài. Tăng cường huy động
nguồn lực tài chính từ các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất và sự đóng góp của người
học vào phát triển dạy nghề. Xây dựng các dự án cơ hội để tranh thủ nguồn viện
trợ không hoàn lại, nguồn vốn vay với lãi suất ưu đãi của các nước, các tổ chức
quốc tế, tổ chức phi Chính phủ để đầu tư cho dạy nghề.
- Tăng đầu tư
từ ngân sách Nhà nước cho công tác đào tạo nghề hằng năm theo hướng tập trung đầu
tư cho các cơ sở dạy nghề trọng điểm và đầu tư có mục tiêu như: xây dựng cơ sở
vật chất kỹ thuật, mua sắm trang thiết bị dạy nghề; đào tạo, bồi dưỡng nâng cao
chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý dạy nghề; hỗ trợ đào tạo nghề
cho đồng bào dân tộc thiểu số, lao động nông thôn, lao động là người tàn tật và
lao động thuộc hộ nghèo.
(Dự kiến
nhu cầu kinh phí đầu tư cho dạy nghề giai đoạn 2008 – 2015 theo Phụ lục 4A và
4B kèm theo)
- Đẩy mạnh thực hiện phân cấp, giao quyền
tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và
tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập theo Nghị định 43/2006/NĐ-CP ngày
25/4/2006 của Chính phủ cho các cơ sở dạy nghề công lập của tỉnh.
- Từng bước thực hiện mô hình sản xuất
gắn với việc thực tập của học sinh trong các cơ sở dạy nghề nhằm nâng cao kỹ
năng thực hành cho học sinh và tạo nguồn thu để bổ sung kinh phí đào tạo. Đến
năm 2015, nguồn thu từ sản xuất dịch vụ, nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật công nghệ
mới đạt khoảng 25% trong tổng số thu của cơ sở dạy nghề; 100% số trường trung cấp
nghề, trường cao đẳng nghề thực hiện hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học
công nghệ vào hoạt động dạy nghề, phục vụ xã hội và tổ chức sản xuất kinh doanh
gắn với hoạt động dạy nghề.
- Thí điểm và từng bước mở rộng mô hình
đào tạo theo cơ chế chia sẻ kinh phí đào tạo giữa nhà nước và doanh nghiệp (mô
hình đào tạo kép).
V. Giải pháp nâng cao năng lực quản
lý dạy nghề.
- Kiện toàn hệ thống quản lý nhà nước về dạy nghề từ tỉnh
đến huyện, thành phố; tăng cường biên chế cán bộ, công chức làm công tác quản
lý nhà nước về dạy nghề nhằm đảm bảo thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước về
dạy nghề trên địa bàn. Thống nhất một đầu mối quản lý nhà nước đối với tất cả
các cơ sở dạy nghề trên địa bàn tỉnh, thực hiện phân cấp hợp lý nhằm phát huy
tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cấp, các cơ sở dạy nghề trong tổ chức
và quản lý hoạt động dạy nghề. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao năng lực
quản lý và lập kế hoạch của đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý nhà
nước về dạy nghề.
- Tăng cường hợp tác trong nước và quốc tế trong lĩnh vực
dạy nghề. Rút kinh nghiệm và nhân rộng mô hình hợp tác giữa Công ty Thương mại
Toàn cầu (Nhật Bản), Trung tâm giao lưu kỹ thuật công nghệ hàn Nhật - Việt với
Trường Trung cấp nghề Bắc Quảng Nam ra các cơ sở dạy nghề trong tỉnh để đào tạo
công nhân kỹ thuật chất lượng cao.
- Tổ chức sàn giao dịch việc làm tại Trung tâm Giới thiệu
việc làm tỉnh và xây dựng hệ thống thông tin thị trường lao động nhằm tăng cường
công tác tư vấn học nghề và tư vấn việc làm cho người lao động, giúp người lao
động lựa chọn học nghề phù hợp, có khả năng tự tạo việc làm hoặc tìm được việc
làm sau khi tốt nghiệp.
- Thực hiện tốt công tác kiểm định chất
lượng dạy nghề theo quy định của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội; đến năm
2010, 20% số trường cao đẳng nghề, trung cấp nghề được kiểm định và công nhận
các điều kiện đảm bảo chất lượng; đến năm 2015, 50% số trường cao đẳng nghề,
trung cấp nghề được kiểm định và công nhận các điều kiện đảm bảo chất lượng;
giai đoạn sau năm 2015, tất cả cơ sở dạy nghề được kiểm định và công nhận các
điều kiện đảm bảo chất lượng.
- Thực hiện đánh giá cấp chứng chỉ kỹ
năng nghề quốc gia theo chỉ đạo của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội nhằm đảm
bảo quyền lợi cho người lao động, là cơ sở để người lao động phấn đấu nâng cao
trình độ, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sản xuất, kinh doanh, góp phần nâng
cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
- Phối hợp triển khai thực hiện kế hoạch
bồi dưỡng, đánh giá và cấp chứng chỉ nghề trình độ sơ cấp cho tất cả công nhân
kỹ thuật trong các ngành đã có nghề nhưng chưa được công nhận qua đào tạo nghề.
- Cải cách thủ tục, quy trình thành lập và đăng ký hoạt
động của các cơ sở dạy nghề theo hướng đơn giản, hợp lý, đúng quy định.
- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành
pháp luật trong hoạt động dạy nghề.
VI. Giải pháp về cơ chế, chính sách:
- Đổi mới cơ chế chính sách kế hoạch, tài chính về dạy
nghề, từng bước thực hiện cơ chế đặt hàng, đấu thầu chỉ tiêu dạy nghề từ nguồn
kinh phí ngân sách.
- Thực hiện các chính sách khuyến khích phát triển xã hội
hóa như: cho thuê, xây dựng cơ sở vật chất; giao đất, cho thuê đất; miễn lệ phí
trước bạ, thuế giá trị gia tăng, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; về áp dụng thuế
thu nhập doanh nghiệp; chính sách ưu đãi về tín dụng; huy động vốn; bảo hiểm xã
hội, bảo hiểm y tế… quy định tại Nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008 của
Chính phủ về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong
lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường.
- Thực hiện tốt các chính sách của Trung ương đối với những
cơ sở có tham gia đào tạo nghề cho lao động là người dân tộc thiểu số, người
khuyết tật, quân nhân xuất ngũ, cơ sở dạy nghề có trên 50% học viên là nữ; hỗ
trợ người lao động tham gia học các nghề phục vụ các ngành kinh tế chiến lược của
tỉnh và có tính chất nặng nhọc, độc hại; hỗ trợ học nghề cho các đối tượng
chính sách.
- Xây dựng và thực hiện cơ chế phối hợp giữa Sở Lao động
- Thương binh và Xã hội với Ban quản lý Khu kinh tế mở Chu Lai trong đầu tư
phát triển dạy nghề.
- Xây dựng và thực hiện cơ chế phối hợp giữa Sở Lao động
- Thương binh và Xã hội với Sở Giáo dục và Đào tạo trong việc đẩy mạnh thực hiện
giáo dục định hướng nghề nghiệp cho học sinh Trung học cơ sở và Trung học phổ
thông nhằm phân luồng đào tạo hợp lý; thực hiện liên thông giữa các trình độ
đào tạo nghề với các trình độ đào tạo khác trong hệ thống giáo dục quốc dân.
- Chú trọng mở rộng đào tạo nghề trình độ trung cấp cho
đối tượng đã tốt nghiệp Trung học cơ sở, đảm bảo các em khi tốt nghiệp trung cấp
nghề thì đồng thời cũng có bằng tốt nghiệp Trung học phổ thông và được liên
thông lên cao đẳng nghề hoặc với các trường đại học, cao đẳng khác.
- Có cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh
thành lập cơ sở dạy nghề để đào tạo nghề cho lao động của doanh nghiệp, hoặc hợp
tác với các cơ sở dạy nghề của tỉnh để đào tạo và tuyển dụng lao động có nghề.
Phần thứ tư
TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Thành lập
Ban chỉ đạo thực hiện Đề án tiếp tục đổi mới và phát triển dạy nghề tỉnh Quảng Nam
giai đoạn 2008 - 2015 do đồng chí Phó Chủ tịch UBND tỉnh làm Trưởng ban, Sở Lao
động - Thương binh và Xã hội là cơ quan thường trực và thành viên là các sở,
ban, ngành, đoàn thể liên quan của tỉnh để chỉ đạo triển khai thực hiện đạt mục
tiêu đề ra.
2. Sở Lao động
- Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Kế hoạch
và Đầu tư, Sở Tài chính và các sở, ban, ngành liên quan có kế hoạch cụ thể triển
khai thực hiện Đề án.
3. Trên cơ sở
Đề án của tỉnh, các huyện, thành phố xây dựng và chỉ đạo thực hiện đề án phát
triển dạy nghề trên địa bàn, phù hợp với điều kiện và quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương.
4. Sở Kế hoạch
và Đầu tư, Sở Tài chính có trách nhiệm bố trí kinh phí trong dự toán kế hoạch
hàng năm kể từ năm 2009 để triển khai thực hiện đề án.
5. Đề nghị
các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận, Hội, đoàn thể và các địa phương tăng cường
phối hợp với ngành Lao động - Thương binh và Xã hội trong thực hiện Đề án tiếp
tục đổi mới và phát triển dạy nghề, nhằm đẩy mạnh phong trào học nghề, lập nghiệp,
nâng cao nhận thức của xã hội về vai trò, vị trí của đào tạo nghề trong sự nghiệp
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh./.