HỘI ĐỒNG NHÂN
DÂN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 27/NQ-HĐND
|
Bình Dương, ngày
26 tháng 7 năm 2023
|
NGHỊ QUYẾT
KẾT QUẢ GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH VỀ TÌNH HÌNH VÀ
KẾT QUẢ TRIỂN KHAI THỰC HIỆN CÁC CHÍNH SÁCH THU HÚT, ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG, PHÁT
TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TỈNH BÌNH DƯƠNG
HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
KHÓA X - KỲ HỌP THỨ 11
Căn cứ Luật Tổ chức chính quyền
địa phương ngày 19 tháng 6 năm 2015;
Căn cứ Luật sửa đổi, bổ sung
một điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày
22 tháng 11 năm 2019;
Căn cứ Luật Hoạt động giám
sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân ngày 20 tháng 11 năm 2015;
Thực hiện Nghị quyết số
11/NQ-HĐND ngày 20 tháng 7 năm 2022 của Hội đồng nhân dân tỉnh về việc thành lập
Đoàn giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh về tình hình và kết quả triển khai thực
hiện các chính sách thu hút, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực tỉnh
Bình Dương;
Trên cơ sở xem xét Báo cáo số
55/BC-ĐGS ngày 17 tháng 7 năm 2023 của Đoàn giám sát Hội đồng nhân dân tỉnh về
tình hình và kết quả triển khai thực hiện các chính sách thu hút, đào tạo, bồi
dưỡng, phát triển nguồn nhân lực tỉnh Bình Dương; ý kiến thảo luận của đại biểu
Hội đồng nhân dân tại kỳ họp.
QUYẾT NGHỊ:
Điều 1.
Hội đồng nhân dân tỉnh tán thành nội dung Báo cáo số
55/BC-ĐGS ngày 17 tháng 7 năm 2023 của Đoàn giám sát
Hội đồng nhân dân tỉnh về tình hình và kết quả triển khai thực hiện các chính
sách thu hút, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực tỉnh Bình Dương; đồng
thời, nhấn mạnh một số nội dung sau:
1. Kết quả
đạt được
Nhìn chung, trong thời gian qua,
công tác thu hút, đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trên
địa bàn tỉnh đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Bám sát các quy định của Trung
ương, của Tỉnh ủy về phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, Ủy ban
nhân dân tỉnh đã triển khai cơ bản toàn diện các nội dung và ban hành kế hoạch
để cụ thể hóa các nhiệm vụ, phân công trách nhiệm cụ thể từng sở, ngành, địa
phương. Quá trình thực hiện, các cơ quan, đơn vị đã bám sát nhiệm vụ được giao,
xác định các giải pháp để triển khai thực hiện.
- Cấp ủy, chính quyền địa
phương, lãnh đạo các cơ quan, đơn vị thường xuyên quan tâm công tác đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng,
kế hoạch bố trí sau đào tạo, bồi dưỡng. Cán bộ, công chức, viên chức được chọn
cử đi đào tạo, bồi dưỡng đều hoàn thành các khóa học theo quy định. Sau đào tạo,
bồi dưỡng, cán bộ, công chức, viên chức đã được nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ
năng, phương pháp lãnh đạo, điều hành và vận dụng tốt kiến thức vào thực tiễn
công việc.
- Các chế độ, chính sách của tỉnh
về thu hút, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực và các chế độ hỗ trợ
cho một số ngành, lĩnh vực được ban hành kịp thời, phù hợp với tình hình thực tế
của địa phương. Qua quá trình thực hiện, các chính sách đã khẳng định sự cần
thiết trong việc xây dựng, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho các
mục tiêu phát triển của tỉnh; góp phần duy trì và ổn định nguồn nhân lực, động
viên, khuyến khích cán bộ, công chức, viên chức, các lực lượng an tâm công tác,
tích cực học tập nâng cao trình độ, phát triển nghề nghiệp.
- Người được thu hút về tỉnh
công tác đã đáp ứng yêu cầu của vị trí cần thu hút, trong đó số lượng bác sĩ
thu hút đã góp phần đảm bảo công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Chính sách
thu hút người có học hàm, học vị về công tác tại Trường Đại học Thủ Dầu Một
trên cơ sở thu hút có chọn lọc (tiến sĩ, giáo sư, phó giáo sư) giúp cho chất lượng
nhân lực của trường được nâng lên, đáp ứng yêu cầu giảng dạy, nghiên cứu khoa học,
đóng góp quan trọng vào kết quả đào tạo trường.
- Tỉnh đã từng bước xây dựng và
phát triển mô hình “Ba nhà”, tạo dựng hệ sinh thái khởi nghiệp trong các trường
đại học để thu hút các nhà giáo, nhà khoa học có tài năng, kinh nghiệm trong và
ngoài nước tham gia đào tạo nhân lực đại học và nghiên cứu khoa học, công nghệ;
các Trung tâm đổi mới sáng tạo được thành lập và ngày càng hoạt động hiệu quả.
- Các hoạt động hợp tác quốc tế
về phát triển giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao được tỉnh đặc biệt
quan tâm.
- Các lực lượng trị an cơ sở
ngày càng được củng cố, kiện toàn, lớn mạnh, phối hợp chặt chẽ với lực lượng
công an, quân đội chính quy trong việc thực hiện nhiệm vụ bảo đảm an ninh, trật
tự, an toàn xã hội tại cơ sở. Việc triển khai các Đề án đào tạo cũng như thực
hiện các chế độ, chính sách cho lực lượng trị an tại cơ sở cơ bản được đảm bảo
theo các quy định của Trung ương và của tỉnh như: hỗ trợ Công an viên xã bán
chuyên trách, Bảo vệ dân phố, Đội dân phòng, Tổ nhân dân tự quản, Dân quân tự vệ,
Dân quân thường trực. Qua đó góp phần hỗ trợ, động viên tinh thần các lực lượng
an tâm công tác, hoàn thành nhiệm vụ được giao.
2. Hạn chế,
khó khăn
- Thực hiện tinh giản biên chế
theo yêu cầu của Trung ương, số lượng biên chế của nhiều cơ quan, đơn vị không
đủ để đáp ứng yêu cầu công tác. Hầu hết các cơ quan không còn chỉ tiêu để thu
hút sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ theo quy định tại khoản
3 Điều 3 Nghị định số 140/2017/NĐ-CP[1] của Chính
phủ. Việc thu hút chủ yếu thực hiện ở các đơn vị sự nghiệp y tế có nhu cầu thu
hút bác sĩ đa khoa, chuyên khoa nhưng số lượng thu hút hàng năm đều thấp hơn so
với số lượng theo danh mục thu hút tỉnh ban hành.
- Chưa có trường hợp được thu
hút về công tác tại các cơ quan Đảng, đoàn thể, số trường hợp thu hút về các cơ
quan hành chính rất ít.
- Một số trường hợp cán bộ,
công chức, viên chức sau khi được cử đi đào tạo, bồi dưỡng nghỉ việc khi chưa
phục vụ đủ thời gian theo quy định.
- Trong lĩnh vực giáo dục nghề
nghiệp:
+ Số lượng người tham gia học
nghề vẫn còn ít so với cơ cấu trình độ lao động hiện nay. Việc phân luồng học
sinh tốt nghiệp trung học cơ sở đi học nghề còn gặp nhiều khó khăn, tỷ lệ học
sinh tốt nghiệp Trung học cơ sở và Trung học phổ thông vào trường nghề còn thấp.
+ Đội ngũ giáo viên trong khối
giáo dục nghề nghiệp còn thiếu về số lượng, thiếu giáo viên dạy các nghề mới,
giáo viên giỏi chuyên môn kỹ thuật và có kỹ năng nghề cao. Cơ sở vật chất của
các cơ sở giáo dục nghề nghiệp công lập chưa đáp ứng yêu cầu của công tác đào tạo
nghề trong giai đoạn hiện nay như: trang thiết bị dạy học, thực hành đã cũ;
phòng học chưa đảm bảo theo tiêu chuẩn.
+ Việc liên kết đào tạo văn hóa
phổ thông cho học sinh trường nghề còn nhiều bất cập, chủ yếu do chưa có hướng
dẫn đồng bộ về phối hợp giữa các cơ sở giáo dục nghề nghiệp và các Trung tâm
Giáo dục thường xuyên và bồi dưỡng nghiệp vụ.
+ Chưa tạo được sự gắn kết chặt
chẽ giữa thị trường lao động, yêu cầu của doanh nghiệp với các cơ sở đào tạo
nghề. Trong đó, một số nội dung thuộc Quyết định số 1745/QĐ-UBND ngày 05 tháng
7 năm 2021 của UBND tỉnh ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Chương trình số
19-CT/TU ngày 31 tháng 5 năm 2021 của Tỉnh ủy Bình Dương về phát triển và nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu xây dựng Bình Dương phát triển bền
vững theo hướng đô thị thông minh, văn minh, hiện đại giai đoạn 2021 - 2025, định
hướng đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045 (gọi tắt là Kế hoạch số 1745) chưa
được triển khai như: chưa xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích các cơ sở
giáo dục nghề nghiệp liên kết với doanh nghiệp để đào tạo mới, đào tạo lại cho
doanh nghiệp, tạo điều kiện để các doanh nghiệp cùng tham gia vào hoạt động dạy
nghề; khảo sát, xây dựng cơ sở dữ liệu và cổng thông tin chung về tuyển dụng để
phục vụ các doanh nghiệp…
- Trong lĩnh vực y tế:
+ Nguồn nhân lực y tế công lập
chỉ chiếm khoảng 43% tổng số nhân lực của ngành, trong khi khuynh hướng dịch
chuyển nguồn nhân lực y tế từ khu vực công qua khu vực tư ngày càng nhiều.
+ Số lượng viên chức y tế chưa
đáp ứng yêu cầu khám chữa bệnh, còn thấp so với chỉ tiêu Bộ Y tế. Số lượng bác
sĩ tuyển mới chưa đủ bù đắp số bác sĩ nghỉ việc, nghỉ hưu, chuyển công tác; thiếu
số lượng lớn điều dưỡng, nữ hộ sinh; thiếu nhân viên quản lý trang thiết bị y tế;
một số trường hợp thu hút sau một thời gian làm việc đã xin thôi việc.
- Trong lĩnh vực giáo dục, khoa
học công nghệ:
+ Việc đảm bảo nguồn nhân lực
cho các cơ sở giáo dục phổ thông vẫn còn gặp nhiều khó khăn: có chỉ tiêu biên
chế viên chức nhưng không đủ người đăng ký thi tuyển, phải sử dụng nhiều giáo
viên hợp đồng, chính sách đặt hàng đào tạo hoặc đào tạo có địa chỉ chưa thực sự
hiệu quả.
+ Hoạt động đổi mới sáng tạo
tuy có nhiều đổi mới nhưng chưa tương xứng với yêu cầu của tỉnh.
+ Số lượng công chức, viên chức
làm công tác công nghệ thông tin và viễn thông trong các cơ quan Đảng, đoàn thể,
các cơ quan hành chính, sự nghiệp trên địa bàn tỉnh rất ít; nhiều cơ quan, đơn
vị chưa có cán bộ chuyên trách công nghệ thông tin, nhất là cấp huyện và cấp
xã. Việc tuyển dụng sinh viên tốt nghiệp công nghệ thông tin vào làm việc trong
các cơ quan, đơn vị còn khó khăn.
- Trong lĩnh vực đào tạo nghề
cho lao động nông thôn:
+ Hàng năm tỉnh đều có kế hoạch
mở các lớp đào tạo nghề cho lao động nông thôn nhưng chưa thu hút được nhiều người
theo học, có trường hợp không thể mở lớp vì không đủ số lượng học viên tham
gia.
+ Hoạt động của Trung tâm dịch
vụ nông nghiệp cấp huyện còn nhiều khó khăn, hạn chế như: thiếu nhân lực có
trình độ chuyên môn cao; hoạt động của trung tâm vẫn do ngân sách đảm bảo kinh
phí chi thường xuyên, chưa tăng mức độ tự chủ.
- Trong lĩnh vực an ninh - quốc
phòng, xây dựng lực lượng trị an cơ sở:
+ Một số địa phương bố trí Phó
Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy Quân sự cấp xã chưa qua đào tạo; tỷ lệ Chỉ huy trưởng
Ban Chỉ huy Quân sự cấp xã đạt chuẩn trình độ cao đẳng, đại học còn thấp. Một số
địa phương chọn người cử đi đào tạo ngành quân sự cơ sở chưa kỹ, chưa sát, do vậy
sau khi đào tạo có trường hợp xin nghỉ việc.
+ Công tác bố trí sắp xếp cán bộ
sau đào tạo vào Ban Chỉ huy Quân sự cấp xã của một số địa phương chưa theo đúng
lộ trình.
+ Một số lực lượng trị an tại
cơ sở gặp khó khăn trong việc tuyển chọn các thành viên đủ tiêu chuẩn, số lượng
(công an xã bán chuyên trách, bảo vệ dân phố, dân phòng).
+ Hiện nay tại cơ sở có bố trí
02 Đội Dân phòng: Đội Dân phòng thực hiện công tác phòng cháy chữa cháy tại cơ
sở được thành lập theo Nghị định số 136/2020/NĐ-CP[2]
và Đội Dân phòng được thành lập theo Quyết định số 01/2021/QĐ-UBND[3]. Trong đó, nhiệm vụ của 02 Đội này có trùng lắp;
Đội Dân phòng được thành lập theo Nghị định số 136/2020/NĐ-CP chưa có các chế độ,
chính sách cũng như các điều kiện về cơ sở vật chất để đảm bảo hoạt động.
+ Một số chế độ, chính sách do
tỉnh ban hành trên lĩnh vực quốc phòng chưa được triển khai thực hiện thống nhất
tại các địa phương như: Nghị quyết số 19/2020/NQ-HĐND[4]
và Nghị quyết số 22/2021/NQ-HĐND[5] của HĐND tỉnh.
- Một số quy định về đào tạo, bồi
dưỡng theo Nghị quyết số 05/2019/NQ- HĐND[6];
chính sách hỗ trợ đặc thù cho cán bộ, công chức, người hoạt động không chuyên
trách ở cấp xã, ở ấp, khu phố theo Nghị quyết số 21/2019/NQ-HĐND[7] đã không còn phù hợp với yêu cầu thực tiễn.
3. Nguyên
nhân hạn chế
a) Nguyên nhân khách quan
- Sự gia tăng dân số cơ học, nhận
thức của người dân về giáo dục nghề nghiệp, đào tạo nghề lao động nông thôn đã ảnh
hưởng đến công tác đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực trên các lĩnh
vực như: y tế, giáo dục, đào tạo nghề…
- Nguồn ngân sách của tỉnh còn
nhiều khó khăn, đặc biệt, nguồn ngân sách đang được tập trung cho các dự án
giao thông trọng điểm, do đó, một số dự án đầu tư liên quan đến giáo dục phổ
thông, giáo dục nghề nghiệp được giãn, hoãn tiến độ đầu tư.
- Do ảnh hưởng của dịch
Covid-19, nhiều nhiệm vụ, công việc tại Kế hoạch số 1745 của UBND tỉnh không đảm
bảo theo tiến độ dự kiến.
- Việc triển khai các quy định
của Trung ương còn nhiều vướng mắc, chưa phù hợp thực tiễn địa phương.
- Việc tuyển dụng giáo viên gặp
nhiều khó khăn do chưa thể áp dụng các hình thức giao nhiệm vụ, đặt hàng, đấu
thầu với cơ sở đào tạo giáo viên vì phần lớn các cơ sở giáo dục đại học chưa có
định mức kinh tế kỹ thuật và đơn giá dịch vụ.
b) Nguyên nhân chủ quan
- Một số nơi, cấp ủy, tổ chức Đảng
chưa quan tâm đúng mức công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Chương trình số
19-CT/TU của Tỉnh ủy Bình Dương và Kế hoạch số 1745 của UBND tỉnh.
- Một số sở, ngành, địa phương
được giao nhiệm vụ nhưng chưa chủ động trong tham mưu, xây dựng các kế hoạch, Đề
án đảm bảo tiến độ, nội dung đã đề ra trong Kế hoạch số 1745 của UBND tỉnh.
- Một số đơn vị chưa quan tâm
công tác quy hoạch, xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, chưa gắn đào tạo với
bố trí, sử dụng sau đào tạo; công tác khảo sát, rà soát nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng
ở một số cơ quan, đơn vị chưa sát với thực tế nhiệm vụ được giao và vị trí việc
làm của cán bộ, công chức, viên chức.
- Trong lĩnh vực giáo dục nghề
nghiệp:
+ Công tác phối hợp giữa các sở,
ngành trong công tác tuyển sinh, hướng nghiệp, liên kết đào tạo văn hóa phổ
thông cho học sinh trường nghề chưa nhịp nhàng, chặt chẽ.
+ Một số cơ sở giáo dục nghề
nghiệp chưa chủ động trong liên kết doanh nghiệp, hợp tác quốc tế, nhất là duy
trì, phát triển các mối quan hệ hợp tác quốc tế sẵn có.
+ Việc tham mưu xây dựng cơ chế,
chính sách khuyến khích các cơ sở giáo dục nghề nghiệp liên kết với doanh nghiệp
để đào tạo mới, đào tạo lại cho doanh nghiệp, tạo điều kiện để các doanh nghiệp
cùng tham gia vào hoạt động dạy nghề; khảo sát, xây dựng cơ sở dữ liệu và cổng
thông tin chung về tuyển dụng để phục vụ các doanh nghiệp, việc tổ chức học và
thi các lớp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia chưa được quan tâm kịp thời.
- Trong lĩnh vực Y tế: do áp lực
từ dịch bệnh Covid-19, ngành Y tế chưa kịp thời hoàn chỉnh Đề án Tổng thể Phát
triển ngành Y tế của tỉnh; các chính sách đặc thù của ngành Y tế thời gian qua
cũng chưa được tham mưu, xây dựng kịp thời.
- Trong lĩnh vực an ninh - quốc
phòng:
+ Một số cấp ủy, địa phương
chưa nghiên cứu kỹ mục tiêu, yêu cầu đề án đào tạo cán bộ Ban Chỉ huy Quân sự cấp
xã trên địa bàn tỉnh, do vậy công tác tuyển chọn nguồn đào tạo, bố trí, sắp xếp
cán bộ theo từng giai đoạn chưa hợp lý dẫn đến chưa đạt được mục tiêu, yêu cầu;
một số địa phương chưa mạnh dạn đề xuất bố trí, sắp xếp cán bộ vào vị trí mới đối
với cán bộ sau khi được đào tạo theo Thông tư liên tịch số 01/2013/TT-BNV-BQP[8].
+ Các sở, ngành chưa phối hợp
chặt chẽ trong triển khai, hướng dẫn thực hiện các chế độ, chính sách cho lực
lượng Dân quân thường trực đảm bảo thống nhất.
+ Các phòng, ban chuyên môn
Công an tỉnh chưa chủ động trong tham mưu Ban Giám đốc về cơ chế hoạt động của
Đội Dân phòng theo quy định tại Luật Phòng cháy chữa cháy và Đội Dân phòng theo
mô hình đặc thù của tỉnh.
- Mặc dù đã có quy định tại Nghị
quyết số 05/2019/NQ-HĐND, tuy nhiên, thời gian qua, một số Sở, ngành chưa thực
sự quan tâm việc đề xuất đối với các nhóm danh mục ngành nghề, lĩnh vực cần thu
hút.
Điều 2.
Trên cơ sở kết quả giám sát, Hội đồng nhân dân tỉnh đề
nghị Ủy ban nhân dân tỉnh thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp sau đây:
- Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, quán triệt các quan điểm, mục tiêu, định hướng phát triển nguồn nhân lực
đã nêu trong Chương trình số 19-CTr/TU của Tỉnh ủy và Kế hoạch số 1745 của UBND
tỉnh. Đồng thời, tiếp tục chỉ đạo các ngành, địa phương thực hiện có hiệu quả,
đúng lộ trình các nội dung của Kế hoạch đề ra.
- Tiếp tục thực hiện hiệu quả Đề
án vị trí việc làm gắn với việc thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW[9]. Trong bối cảnh chỉ tiêu biên chế chưa được điều chỉnh, Ủy ban
nhân dân tỉnh cần tiếp tục tập trung chỉ đạo việc sắp xếp hệ thống các đơn vị sự
nghiệp công lập theo Chương trình số 77-Ctr/TU của Tỉnh ủy trên cơ sở tinh gọn,
hiệu lực, hiệu quả, có phân loại phù hợp với các đơn vị sự nghiệp công lập, từng
bước giảm biên chế viên chức.
- Chỉ đạo các sở, ngành nghiên
cứu, tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh trình Hội đồng nhân dân tỉnh ban hành kịp thời,
đồng bộ các chính sách quản lý, sử dụng và đãi ngộ nguồn nhân lực hợp lý. Trong
đó, cần đặc biệt quan tâm nguồn nhân lực để phục vụ hoạt động của bệnh viện
1500 giường (dự kiến đi vào hoạt động vào cuối năm 2023).
- Quan tâm việc đào tạo theo địa
chỉ sử dụng, trong đó ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng nguồn nhân lực tại chỗ.
- Thường xuyên rà soát, xác định
nhu cầu thu hút trong từng ngành, lĩnh vực để phục vụ yêu cầu công tác quản lý
và phục vụ các dịch vụ công trong tỉnh, trong đó chú trọng thu hút đối với một
số ngành phục vụ chuyển đổi số, xây dựng thành phố thông minh, các lĩnh vực xây
dựng, giao thông, quy hoạch và nhu cầu nhân lực y tế.
- Chỉ đạo các ngành chuyên môn
phối hợp với ngành tài chính rà soát, hướng dẫn các cơ quan, đơn vị, địa phương
đảm bảo việc chi các chế độ, chính sách theo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh
đã ban hành một cách thống nhất, đồng bộ.
- Sớm hoàn thành việc xây dựng
cơ sở dữ liệu về học sinh có thành tích xuất sắc của tỉnh, cơ sở dữ liệu về thị
trường lao động... Triển khai thực hiện có hiệu quả thỏa thuận hợp tác quốc tế
giữa tỉnh với các địa phương, các trường Đại học quốc tế.
- Chỉ đạo các sở, ngành, địa
phương thực hiện một số nội dung cụ thể:
+ Sở Lao động - Thương binh và
Xã hội và Sở Giáo dục và Đào tạo sớm xây dựng quy chế phối hợp trong công tác
liên kết đào tạo văn hóa cho học sinh các trường Trung cấp nghề.
+ Sở Giáo dục và Đào tạo tích cực
phối hợp Sở Tài chính để hướng dẫn việc chi trả các chế độ hỗ trợ đóng học phí,
chi phí sinh hoạt cho sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một theo nhu cầu xã hội
trong chỉ tiêu Bộ Giáo dục và Đào tạo thông báo từ năm học 2021 - 2022. Đồng thời,
tiếp tục có kiến nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo tham mưu Chính phủ sửa đổi, bổ
sung các điểm còn bất cập trong Nghị định số 116/2020/NĐ-CP của Chính phủ[10].
+ Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh, Công
an tỉnh chủ động phối hợp Sở Tài chính và các ngành nhằm hướng dẫn các địa
phương triển khai thực hiện thống nhất các chế độ, chính sách cho lực lượng Dân
quân tự vệ, Dân phòng, Bảo vệ dân phố đúng theo quy định của pháp luật.
+ Sở Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn: có giải pháp đảm bảo việc mở các lớp đào tạo nghề cho lao động nông
thôn, tiếp tục nâng cao chất lượng đào tạo nghề, đổi mới các ngành nghề phù hợp
với yêu cầu của người học. Quan tâm hướng dẫn, tạo điều kiện, có lộ trình cụ thể
để các Trung tâm dịch vụ nông nghiệp cấp huyện từng bước tự chủ về kinh phí hoạt
động.
+ Sở Khoa học và Công nghệ: có
giải pháp tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh triển khai hiệu quả nội dung tại Nghị
quyết số 24-NQ/TW ngày 7 tháng 10 năm 2022 của Bộ Chính trị về phát triển kinh
tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đông Nam Bộ đến năm 2030, tầm
nhìn đến năm 2045, trong đó phấn đấu vùng Đông Nam Bộ đến năm 2050 là khu vực
“Trung tâm kinh tế, tài chính, thương mại, dịch vụ, giáo dục và đào tạo, phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao, khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo,
chuyển đổi số hàng đầu cả nước và khu vực Đông Nam Á”.
+ Ủy ban nhân dân cấp huyện
quan tâm tuyên truyền, khuyến khích lao động nông thôn tham gia học nghề nâng
cao kỹ năng tay nghề đáp ứng nhu cầu thị trường lao động. Chú trọng phân luồng
học sinh học trung học cơ sở, nâng tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở và
trung học phổ thông vào trường nghề.
Điều 3.
Giao Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ đạo và tổ chức triển
khai thực hiện Nghị quyết này và báo cáo Hội đồng nhân dân tỉnh về kết quả thực
hiện Nghị quyết.
Điều 4.
Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban của Hội đồng
nhân dân, Tổ đại biểu và đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh giám sát việc thực hiện
Nghị quyết này.
Nghị quyết này đã được Hội đồng
nhân dân tỉnh Bình Dương khóa X, kỳ họp thứ sáu thông qua ngày 21 tháng 7 năm
2023 và có hiệu lực kể từ ngày thông qua./.
Nơi nhận:
- Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Chính phủ;
- Văn phòng: Quốc hội, Chính phủ;
- Ban Công tác đại biểu - UBTVQH;
- Các Bộ: Nội vụ, Tài chính;
- Thường trực Tỉnh ủy;
- Đoàn ĐBQH tỉnh;
- Thường trực HĐND, UBND, UBMTTQVN tỉnh;
- Đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh;
- Các sở, ban, ngành, đoàn thể cấp tỉnh;
- LĐVP: Tỉnh ủy, Đoàn ĐBQH và HĐND tỉnh, UBND tỉnh;
- Thường trực HĐND, UBND cấp huyện;
- Trung tâm Công báo tỉnh Bình Dương;
- Website, Báo, Đài PTTH Bình Dương;
- Các phòng thuộc Văn phòng, App, Web;
- Lưu: VT, Cúc (4).
|
CHỦ TỊCH
Nguyễn Văn Lộc
|
[1] Nghị định số
140/2017/NĐ-CP ngày 05 tháng 12 năm 2017 của Chính phủ về chính sách thu hút, tạo
nguồn cán bộ từ sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ.
[2] Nghị định số
136/2020/NĐ-CP ngày 24/11/2020 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và
biện pháp thi hành luật phòng cháy và chữa cháy và luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của luật phòng cháy và chữa cháy
[3] Quyết định
số 01/2021/QĐ-UBND ngày 22/01/2021 của UBND tỉnh ban hành quy định tổ chức và
hoạt động của Đội dân phòng ở cấp xã trên địa bàn tỉnh Bình Dương.
[4] Nghị quyết
số 19/2020/NQ-HĐND4 quy định số lượng Phó Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy
quân sự ở xã, phường, thị trấn loại I; Nghị quyết số 22/2021/NQ-HĐND quy định về
số lượng và chế độ hỗ trợ đối với Công an viên bán chuyên trách trên địa bàn tỉnh.
[5] Nghị quyết số
22/2021/NQ-HĐND ngày 10/12/2021 Quy định số lượng và chế độ hỗ trợ đối với Công
an viên bán chuyên trách trên địa bàn tỉnh Bình Dương.
[6] Nghị quyết
số 05/2019/NQ-HĐND ngày 31/7/2019 của HĐND tỉnh ban hành Quy định về chính sách
thu hút, chế độ hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tỉnh
Bình Dương.
[7] Nghị quyết
số 21/2019/NQ-HĐND ngày 12/12/2019 của Hội đồng nhân dân tỉnh Bình Dương quy định
về số lượng, chức danh, một số chế độ, chính sách, mức hỗ trợ đối với người hoạt
động không chuyên trách ở cấp xã, ở ấp, khu phố; mức bồi dưỡng người trực tiếp
tham gia công việc của ấp, khu phố; mức khoán kinh phí hoạt động của các tổ chức
chính trị - xã hội ở cấp xã và ấp, khu phố trên địa bàn tỉnh Bình Dương.
[8] Thông tư
liên tịch số 01/2013/TT-BNV-BQP8 ngày 10 tháng 4 năm 2013 của Bộ Nội vụ và Bộ
Quốc phòng về hướng dẫn việc quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng Chỉ
huy trưởng, Phó Chỉ huy trưởng Ban CHQS cấp xã sau đào tạo.
[9] Nghị quyết
số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa XII “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống
chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”.
[10] Nghị định
số 116/2020/NĐ-CP ngày 25/9/2020 của Chính phủ quy định về chính sách hỗ trợ tiền
đóng học phí, chi phí sinh hoạt đối với sinh viên sư phạm.