BỘ GIAO THÔNG VÀ
BƯU ĐIỆN
*******
|
VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
*******
|
Số: 24-NĐ
|
Hà Nội, ngày 13
tháng 03 năm 1959
|
NGHỊ
ĐỊNH
BAN
HÀNH NHỮNG VĂN KIỆN VỀ CÔNG TÁC BẢO HỘ LAO ĐỘNG
BỘ TRƯỞNG BỘ GIAO
THÔNG VÀ BƯU ĐIỆN
Căn cứ Thông tư của Thủ tướng Chính phủ số
3871-CN ngày 07-9-1958 về việc tăng cường công tác bảo hộ lao động;
Căn cứ Nghị quyết Hội nghị giữa Bộ với các Tổng cục trưởng và thư ký công đoàn
đường sắt, bưu điện, vận tải, công trình;
Để đảm bảo an toàn lao động và sức khỏe công nhân trong ngành Giao thông và Bưu
điện,
NGHỊ ĐỊNH:
Điều
1. – Nay ban hành những văn kiện sau đây về công
tác bảo hộ lao động:
a) Quy định về việc
điều tra, đăng ký và báo cáo thống kê về tai nạn lao động.
b) Điều lệ tạm thời
về tổ chức công tác bảo hộ lao động.
c) Quy định về việc
giáo dục an toàn kỹ thuật.
Điều
2. - Các ông Tổng cục Trưởng, Vụ trưởng và Chánh
văn phòng Bộ Giao thông và Bưu điện có trách nhiệm thi hành Nghị định này.
|
BỘ TRƯỞNG
BỘ GIAO THÔNG VÀ BƯU ĐIỆN
Nguyễn Văn Trân
|
QUY
ĐỊNH TẠM THỜI
VỀ
GIÁO DỤC AN TOÀN KỸ THUẬT CỦA CÔNG NHÂN VIÊN NGÀNH GIAO THÔNG VẬN TẢI VÀ BƯU
ĐIỆN
Điều
1. – Tăng cường giáo dục an toàn kỹ thuật trong
toàn thể công nhân viên ngành giao thông vận tải và bưu điện là một công tác
trọng yếu để không ngừng nâng cao ý thức sản xuất phải an toàn, không ngừng
nâng cao trình độ thành thạo về kỹ thuật của mọi người nhằm ngăng ngừa những
tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp có thể xảy ra, đảm bảo công việc không bị
gián đoạn, hiệu suất lao động được nâng cao.
Điều
2.
– Toàn thể cán bộ lãnh đạo và công nhân viên các ngành
thuộc Bộ Giao thông và Bưu điện đều có trách nhiệm coi trọng việc giáo dục an
toàn kỹ thuật và phải tiến hành theo bản quy định này.
Điều
3.
- Chế độ giáo dục an toàn kỹ thuật gồm có:
- Giáo dục 3 bước cho
công nhân mới,
- Giáo dục thường
xuyên,
- Giáo dục định kỳ.
Điều
4. – Giáo dục 3 bước cho công nhân mới là giáo dục
sơ bộ về an toàn kỹ thuật cho những công nhân viên mới tuyển dụng, mới thuyên
chuyển công tác nơi khác đến.
Bước 1. – Khi người công nhân
mới đến (kể cả công nhân học nghề, học sinh thực tập, công nhân tạm thời, trừ
trường hợp thay đổi công tác từ nơi này sang nơi khác ở trong một đơn vị), kỹ
thuật viên an toàn kỹ thuật (hoặc chủ nhiệm nhân sự) của đơn vị phải sơ bộ giáo
dục về an toàn kỹ thuật. Mục đích giáo dục của bước này chủ yếu là làm cho
người công nhân đó hiểu biết được một số về an toàn kỹ thuật và vệ sinh công
nghiệp ở đơn vị, như: những nơi cấm đi lại, những nơi nguy hiểm trong đơn vị,
qui tắc an toàn, kỷ luật lao động, sự cần thiết phải tôn trọng qui tắc an toàn
kỹ thuật.
Kỹ thuật viên an toàn
kỹ thuật đưa người công nhân viên mới đến nơi làm việc (khi đưa công nhân viên
mới đến nơi làm việc phải đưa theo cả giấy “đăng ký về giáo dục an toàn kỹ
thuật công nhân viên mới” (mẫu 1). Giấy này là một tài liệu phải có trong hồ sơ
nhân sự, do bộ môn nhân sự bảo quản.
Bước 2. - Khi người công nhân
viên mới đến nơi làm việc thì lĩnh công viên, công trưởng hoặc cung trưởng,
trưởng ban, trưởng kíp, trưởng máy, trưởng ga trực ban, trưởng phòng bưu điện
huyện, và những người phụ trách chức vụ tương đương chịu trách nhiệm trực tiếp
chỉ dẫn cho người mới nhận việc thấy rõ những điều cần hiểu biết về an toàn kỹ
thuật ở nơi làm việc, cách làm việc, cách điều khiển và sử dụng máy móc, dụng
cụ trong thực tế. Khi người công nhân mới đã hiểu rõ những vấn đề đó trong
cương vị công tác của mình, mới cho tham gia công tác hoặc thực tập.
Bước 3. – Khi người công nhân
mới đó đã bắt đầu làm việc hoặc thực tập, người lãnh đạo trực tiếp có trách
nhiệm chỉ định một công nhân viên cũ thành thạo thường xuyên theo dõi giúp đỡ
trong công tác theo quan hệ “thợ cũ dìu dắt thợ mới”. Có thể 2 người cùng ký
hợp đồng giảng dạy và học tập trong một thời gian nhất định.
Điều
5.
– Giáo dục thường xuyên về an toàn kỹ thuật là
cán bộ lãnh đạo (như chủ nhiệm phân xưởng, phân đội trưởng, lĩnh, công viên,
trưởng ban, trưởng kíp, trưởng ga trực ban, giám dốc xưởng, trưởng xưởng, đội
trưởng, đoàn trưởng, thuyền trưởng, giám đốc cảng, giám đốc khu, sở và những
người phụ trách chức vụ tương đương) dựa vào tình hình thực tế của từng đơn vị,
kịp thời đề ra những biện pháp cần thiết để giáo dục anh chị em công nhân luôn
luôn đề cao ý thức và trách nhiệm đối với công việc đảm bảo an toàn kỹ thuật
trong sản xuất, đề phòng tai nạn, nâng cao trình độ thuộc luyện về nghề nghiệp
của công nhân viên, lấy việc xây dựng tư tưởng sản xuất phải an toàn làm trọng
tâm, đồng thời kết hợp với việc nâng cao trình độ kỹ thuật cho công nhân viên.
Tài liệu học tập sẽ căn cứ vào yêu cầu của từng đơn vị hay từng thời gian mà
quy định.
Khi thời tiết thay đổi, hoặc dự đoán thiên tai có
thể xảy đến, như bão, lụt v.v…. thủ trưởng đơn vị phải dựa vào tình hình cụ thể
của địa điểm công tác, các kho chứa nguyên vật liệu, vào tình hình sản xuất, mà
bố trí các biện pháp an toàn cần thiết, tuyên truyền giáo dục công nhân viên
nắm vững, và thi hành các biện pháp đó; phân tích nguyên nhân những vụ tai nạn
xảy ra trong ngành, hướng dẫn làm việc đúng với quy tắc kỹ thuật và an toàn,
phê phán những hiện tượng mạo hiểm và sai lầm.
Điều
6. - Giáo dục định kỳ an toàn kỹ thuật là căn cứ vào yêu cầu cụ
thể ở mỗi ngành, mỗi năm tổ chức học tập vào một kỳ nhất định cho toàn thể cán
bộ và công nhân viên về các vấn đề có liên quan đến phương pháp làm việc, qui
trình và qui tắc kỹ thuật, sự hiểu biết về kỹ thuật cơ bản đối với những thiết
bị và dụng cụ thường dùng đến, để ngày càng củng cố thêm ý thức của mỗi người
đối với việc đảm bảo an toàn trong sản xuất, và ngày một làm cho mọi người nắm
vững phương pháp làm việc hoàn thiện nhất.
Riêng các công nhân
kỹ thuật trọng yếu hoặc làm những công việc dễ xảy ra tai nạn, thì qua kỳ học
tập này phải được tổ chức kiểm tra từng người theo quy định ở điều 10.
Tổ chức việc giáo dục
về an toàn kỹ thuật định kỳ hàng năm, do thủ trưởng đơn vị (hoặc công trình sư)
người lãnh đạo trực tiếp, kỹ thuật các bộ môn, kỹ thuật viên bảo hộ lao động
của đơn vị trực tiếp phụ trách với sự tham gia của ủy viên phụ trách bảo hộ lao
động của công đoàn cấp tương đương.
Hàng năm, các tổng
cục phải qui định cụ thể chương trình giáo dục định kỳ một cách có thể thống và
tỷ mỷ cho ngành mình.
Điều
7. - Trước khi tiến hành một quá trình sản xuất mới, một phương
pháp thi công mới, hoặc lắp các máy móc mới, thì phải đặt ra quy tắc tỷ mỹ về
cách sử dụng và điều khiển được an toàn, rồi giáo dục những công nhân và cán bộ
có liên quan thấm nhuần.
Điều
8. -
Mỗi khi thi công ở một địa điểm nào, cán bộ lãnh đạo công
trình phải căn cứ vào tình hình cụ thể, đặt ra quy tắc an toàn về mọi mặt, để
giáo dục một lần rộng rãi trong toàn thể cán bộ và công nhân viên, kể cả công
nhân tạm thời và dân công được thấu triệt rồi mới tiến hành.
Điều
9. – Trong các trường kỹ thuật và nghiệp vụ, các
lớp học bổ túc về giao thông vận tải và bưu điện, đều phải có các bài học về
“an toàn kỹ thuật, bảo hộ lao động”. Các bài đó cũng được coi trọng như những
bài học chuyên nghiệp. Khi ra thực tập, cũng phải thực tập về các mặt này.
Điều
10. - Tất cả những công nhân kỹ thuật và nhân viên trực tiếp sản
xuất trọng yếu hoặc làm các loại công việc dễ xảy ra tai nạn thì khi mới tuyển
dụng hoặc mới thuyên chuyển từ một công tác khác đến, đều phải được giáo dục về
an toàn kỹ thuật một cách có hệ thống và được xác nhận đủ điều kiện mới được
công tác độc lập và mỗi năm phải được kiểm tra lại một lần.
Điểm kiểm tra quy
định 10 điểm về lý thuyết và 10 điểm về công tác thực tế ở hiện trường.
Hình thức kiểm tra về
lý thuyết, thì tùy hoàn cảnh từng nơi, tùy trình độ văn hóa của công nhân mà tổ
chức, bằng cách nêu câu hỏi, viết bài trả lời hoặc trả lời bằng miệng. Hình
thức kiểm tra về công tác thực tế thì do anh em trong từng bộ phận tự nhận xét
và cho điểm.
Những người qua kỳ
kiểm tra không đủ điểm quy định, có trách nhiệm ôn tập thêm, và sau một tháng,
được kiểm tra lại.
Nếu qua nhiều lần
kiểm tra lại cũng không đủ điểm và bản thân người công nhân viên không chăm chỉ
học tập, thì phải chuyển sang một công tác khác thấp hơn hoặc đơn giản hơn.
Khi tiến hành kiểm
tra ở mỗi đơn vị sẽ thiết lập một hội đồng kiểm tra an toàn kỹ thuật, thành phần
gồm có:
- Phó thủ trưởng phụ
trách về kỹ thuật làm chủ tịch.
Ủy viên Ban chấp hành
công đoàn cấp tương đương phụ trách về bảo hộ lao động làm phó chủ tịch.
- Trưởng ban hoặc chủ
nhiệm kỹ thuật làm hội viên.
- Trưởng ban hoặc chủ
nhiệm nhân sự làm hội viên.
- Kỹ thuật viên bảo
hộ lao động làm thư ký.
Hội đồng kiểm tra có
trách nhiệm đề ra kế hoạch kiểm tra, lãnh đạo thực hiện kế hoạch đó, và tổng
kết việc kiểm tra, khi làm xong nhiệm vụ thì giải tán.
Hội đồng có thể căn
cứ vào tình hình thực tế để tổ chức thêm các tổ kiểm tra ở từng bộ phận sản
xuất.
Khi kiểm tra xong
những người đủ điểm trung bình (14 điểm cả lý thuyết và thực tế công tác) trở
lên, thì được coi là hợp cách về an toàn kỹ thuật. Kết quả ghi vào “biểu ghi về
giáo dục an toàn” của hồ sơ nhân sự (mẫu số 2 kèm theo).
Công nhân kỹ thuật
trọng yếu hoặc làm các loại công việc dễ xảy ra tai nạn, nếu chưa qua cuộc kiểm
tra này, hoặc đã qua cuộc kiểm tra mà chưa đủ điểm, thì không được dự vào các
kỳ xét chuyển cấp.
Các Tổng cục sẽ căn
cứ vào tình hình cụ thể để quy định bảng chức danh những công nhân kỹ thuật và
nhân viên trực tiếp sinh sản trọng yếu hoặc làm các loại công việc dễ xảy ra
tai nạn.
Điều
11. - Tài liệu để giáo dục về an toàn kỹ thuật là, Nghị định,
thông tư, chỉ thị, qui trình, qui tắc, thông báo của Chính phủ, của bộ, của
tổng cục về bảo hộ lao động, an toàn kỹ thuật, vệ sinh công nghiệp và những tài
liệu có liên quan.
Các Tổng cục có trách
nhiệm căn cứ vào tình hình cụ thể để công bố các qui tắc tỷ mỷ về an toàn kỹ
thuật cho các nghề cần thiết, riêng ở một số đơn vị trong ngành của mình.
Những qui tắc đó do
bộ môn kỹ thuật dự thảo, bộ môn bảo hộ lao động tham gia ý kiến, Tổng cục phó
phụ trách kỹ thuật thẩm tra rồi Tổng cục công bố.
Trong những trường
hợp cần thiết, đơn vị hiện trường cần phải định thêm nội quy an toàn cho đơn vị
mình.
Đối với những nghề
cần thiết phổ biến trong tất cả các ngành thuộc Bộ, thì qui tắc an toàn kỹ
thuật sẽ do bộ môn kỹ thuật của Bộ dự thảo, bộ môn bảo hộ lao động tham gia ý
kiến, hội đồng kỹ thuật của Bộ thẩm tra và Bộ công bố, hoặc tùy trường hợp đề
nghị Chính phủ công bố thi hành trong phạm vi toàn quốc.
Các văn bản kể trên
là tài liệu chính về giáo dục an toàn kỹ thuật.
Các Tổng cục có trách
nhiệm in và phổ biến những tài liệu đó trong công nhân viên và tùy điều kiện có
thể, sẽ dần dần bố trí ở phòng giáo dục hoặc phòng đọc sách các mô hình, tranh
vẽ, biểu đồ tranh ảnh và các thứ sách báo có liên quan đến bảo hộ lao động, an
toàn kỹ thuật.
Điều
12. – Cán bộ lãnh đạo các cấp phải thực sự phụ trách
công tác giáo dục an toàn kỹ thuật, thấm nhuần các nghị định, thông tư, chỉ
thị, qui trình qui tắc an toàn kỹ thuật, đặt ra và tổ chức thực hiện chương
trình giáo dục an toàn kỹ thuật; tiến hành kiểm tra, thống kê kinh nghiệm,
thường xuyên xây dựng quan điểm “sản xuất phải an toàn, an toàn để sản xuất”
trong toàn thể công nhân viên. Các kỹ sư và kỹ thuật viên, kỹ thuật viên giáo
dục kỹ thuật đều có trách nhiệm chấp hành đầy đủ những nghị định, thông tư, chỉ
thị, qui trình, qui tắc về an toàn kỹ thuật và tùy theo cương vị công tác của
mình, tham gia vào việc giáo dục và kiểm tra công nhân về an toàn kỹ thuật.
Người lãnh đạo trực
tiếp bộ phận sản xuất của đơn vị, như chủ nhiệm phân xưởng, công trường, tổ
trưởng, ga trưởng, thuyền trưởng v.v… có trách nhiệm trực tiếp thực hiện mọi kế
hoạch công tác về giáo dục an toàn kỹ thuật ở bộ phận mình.
Người chuyên trách
hoặc kiêm nhiệm công tác bảo hộ lao động an toàn kỹ thuật của đơn vị dưới sự
lãnh đạo của thủ trưởng chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện, hướng dẫn, theo dõi
và tổng kết việc giáo dục an toàn kỹ thuật và sau khi hội đồng kiểm tra đã
tuyên bố kết quả, thì biên chép vào “biểu ghi việc giáo dục” (mẫu 2) cho những
công nhân có đủ điểm trung bình trở lên, đồng thời lập bảng danh sách những
người không đủ điểm trung bình để tổ chức cho họ học tập thêm.
Điều
13. –
Hàng năm, Bộ, Tổng cục sẽ tổ chức một kỳ kiểm tra lớn về
công tác bảo hộ lao động an toàn kỹ thuật ở các đơn vị hiện trường
BỘ GIAO THÔNG BƯU ĐIỆN
Tổng cục…………………………..
Đơn vị……………………………...
|
Mẫu
số 1
|
BIỂU
GHI
VIỆC
GIÁO DỤC AN TOÀN KỸ THUẬT CHO CÔNG NHÂN MỚI
(dài
rộng 195 x 135)
Họ tên công nhân
|
Chức danh
|
Bộ phận công tác
|
Ngày giáo dục sơ bộ
|
Người giáo dục sơ
bộ ký tên
|
Người giáo dục sơ
bộ ký tên
|
Ngày giáo dục thực
tế ký tên
|
CHÚ THÍCH
|
|
|
|
|
|
|
|
|
GHI CHÚ: Sau khi ghi việc
giáo dục sơ bộ vào biểu này, cần phải đưa cho công nhân đem tới hiện trường
công tác. Việc giáo dục thực tế sẽ tiếp tục ghi vào biểu này, xong rồi gửi
phiếu này đến bộ phận nhân sự để xếp vào hồ sơ của người công nhân mới.
BỘ GIAO THÔNG BƯU ĐIỆN
Tổng cục……………………………
Đơn vị……………………………...
|
Mẫu
số 2
Trang 1
(Cao rộng 195 x
135)
|
BIỂU
GHI
Kết quả việc kiểm tra về giáo dục an toàn kỹ thuật cho
công nhân kỹ thuật trọng yếu hoặc làm công việc có tính cách nguy hiểm
Họ và tên
………………………………………………………….
Chức
danh…………………………………………………………
Trình độ văn
hóa………………………………………………….
Ngày nào làm
việc………………………………………………..
Ngày bắt đầu làm nghề
này……………………………………..
………………………………………………………………….......
………………………………………………………………….......
ĐIỀU
LỆ TẠM THỜI
Về
tổ chức công tác bảo hộ lao động ở các ngành thuộc Bộ Giao thông và Bưu điện
Chương
1:
MỤC
ĐÍCH
Điều
1.
– Qui định điều lệ tạm thời về tổ chức công tác bảo hộ
lao động ở các ngành thuộc Bộ Giao thông và Bưu điện nhằm mục đích tăng cường
các mặt công tác bảo hộ lao động, an toàn kỹ thuật, vệ sinh công nghiệp để đề
phòng và tiêu diệt mọi nguyên nhân gây ra tai nạn về người và bệnh nghề nghiệp,
đảm bảo sức khỏe của công nhân viên, đảm bảo công việc sản xuất, vận chuyển xây
dựng trong ngành được an toàn, đảm bảo việc sự dụng mọi công việc kỹ thuật tiền
tiến được tốt.
Chương
2:
TRÁCH
NHIỆM CÁC CẤP LÃNH ĐẠO ĐỐI VỚI CÔNG TÁC BẢO HỘ LAO ĐỘNG
Điều
2. – Các ông tổng cục trưởng, viện trưởng, hiệu
trưởng, vụ trưởng… phải chịu trách nhiệm đảm bảo thực hiện tốt công tác bảo hộ
lao động, an toàn kỹ thuật, vệ sinh công nghiệp trong ngành hoặc trong đơn vị
của mình.
Điều
3.
- Những cán bộ lãnh đạo trực tiếp ở các đơn vị hiện
trường như xưởng trưởng, đội trưởng, ty trưởng, chi nhánh trưởng, đoàn trưởng,
ga trưởng, thuyền trưởng, giám đốc cảng, giám đốc sở và các chức vụ tương đương
có trách nhiệm phối hợp chặt chẽ với công đoàn cung cấp, lãnh đạo thực hiện
công tác bảo hộ lao động trong đơn vị mình: cụ thể là:
- Thường xuyên theo
dõi, đôn đốc các nhân viên trực thuộc có trách nhiệm giữ gìn tốt nhà ở, công
trình kiến trúc và thiết bị vệ sinh, các dụng cụ phòng hộ, các thiết bị máy
móc, các thiết bị thông tin hiệu tín, v.v…
- Hướng dẫn các nhân
viên trực thuộc tôn trọng những qui trình, qui tắc chạy xe, xếp dỡ, sử dụng máy
cần trục, sử dụng thiết bị động lực, thi công các công trình.
- Trực tiếp lãnh đạo
các nhân viên phụ trách từng bộ phận thực hiện trình tự công tác cũng như các
biện pháp đề phòng tai nạn lao động, tránh bệnh nghề nghiệp, đảm bảo an toàn,
đảm bảo sức khỏe, đảm bảo năng suất của công nhân viên trong đơn vị.
Điều
4. - Các cán bộ lãnh đạo trực tiếp ở từng bộ phận sản xuất vận
chuyển và công trình như: chủ nhiệm phân xưởng, phân đội trưởng, lĩnh, công
viên, trưởng ban, trưởng kíp, trưởng ga trực ban, thuyền phó, trưởng bến,
trưởng cung, trưởng hạt, trưởng tổ bốc dỡ, trưởng phòng bưu điện huyện, giám
đốc sở và những người phụ trách chức vụ tương đương chịu trách nhiệm an toàn về
nơi ăn, nơi ở, nơi làm việc, thiết bị máy móc, và dụng cụ trong đơn vị, đồng
thời có nhiệm vụ như sau:
- Trực tiếp huấn
luyện, giáo dục về vệ sinh an toàn kỹ thuật cho những công nhân viên cũ cũng
như mới, cấp phát dụng cụ phòng hộ cho công nhân theo tiêu chuẩn qui định.
- Tổ chức sản xuất và
địa điểm công tác cho chính xác, kiểm tra tình hình máy móc dụng cụ thiết bị,
tình hình vệ sinh an toàn ở đơn vị cũng như ở địa điểm công tác.
- Kiểm tra tình hình
công nhân viên chấp hành quí trình, qui tắc an toàn kỹ thuật và tình hình sử
dụng bảo quản dụng cụ phòng hộ, áo quần công tác.
- Điều tra phân tích,
đăng ký tai nạn, bị thương, bệnh nghề nghiệp, định ra và thực hiện các biện
pháp đề phòng.
Điều
5. - Chủ tịch Hội đồng kỹ thuật của Bộ tổng công trình sư ở các
Tổng cục, các chức phó thủ trưởng phụ trách về kỹ thuật ở các cấp, các trưởng
phòng, trưởng ban kỹ thuật, các chủ nhiệm kỹ thuật, hoặc kỹ thuật viên ở các
đơn vị hiện trường chịu trách nhiệm về phương diện kỹ thuật trong các mặt công
tác an toàn kỹ thuật như sau:
- Tổ chức việc biên
soạn, thẩm tra, hướng dẫn thực hiện dùng các qui định về trình tự công tác.
- Tổ chức thẩm tra và
hướng dẫn thực hiện các công việc bảo hộ lao động, an toàn kỹ thuật.
- Biên soạn các qui
trình qui tắc an toàn kỹ thuật và quán triệt những quy trình, qui tắc đó.
- Tôn trọng những vấn
đề cần thiết về bảo hộ lao động, an toàn kỹ thuật trong khi thiết kế.
Để tiến hành công tác
bảo hộ lao động được đầy đủ, các cấp cần chú trọng kết hợp thật chặt chẽ với
công đoàn dưới sự lãnh đạo của Đảng để thực hiện công tác bảo hộ lao động được
tốt.
Chương
3:
BỘ
MÁY CHUYÊN TRÁCH VỀ CÔNG TÁC BẢO HỘ LAO ĐỘNG Ở CÁC CẤP
Điều
6. -
Ở Bộ, các mặt công tác bảo hộ lao động do Vụ nhân sự và
Hội đồng kỹ thuật chịu trách nhiệm.
Để giúp việc có các
kỹ sư ở Hội đồng kỹ thuật và bộ phận bảo hộ lao động. Bộ phận bảo hộ lao động
có nhiệm vụ:
- Dự thảo điều lệ bảo
hộ lao động, an toàn kỹ thuật, vệ sinh công nghiệp và theo dõi các đơn vị chấp
hành điều lệ đó.
- Hướng dẫn các Tổng
cục lập kế hoạch về công tác bảo hộ lao động hàng năm.
- Thẩm tra việc sử
dụng liền cải thiện điều kiện lao động, đôn đốc các đơn vị báo cáo đúng kỳ hạn
việc chi tiêu tiền cải thiện điều kiện lao động hàng năm.
- Theo dõi một cách
có hệ thống việc chấp hành các sắc lệnh, nghị định, thông tư, chỉ thị, qui
trình, qui tắc về an toàn kỹ thuật, vệ sinh công nghiệp và các luật lệ của Nhà
nước về lao động.
- Kết hợp với y tế tổ
chức việc thống kê và nghiên cứu nguyên nhân phát sinh ra tai nạn lao động và
bệnh nghề nghiệp.
- Qui định các công
việc ngăn ngừa tai nạn lao động và theo dõi tình hình chấp hành các công việc
đó.
- Tham gia các cuộc
kiểm tra lớn về an toàn kỹ thuật, vệ sinh công nghiệp.
- Làm báo cáo hàng
quý, hàng năm về công tác bảo hộ lao động.
- Theo dõi việc tôn
trọng các tiêu chuẩn và yêu cầu thực tế về an toàn kỹ thuật, vệ sinh công
nghiệp trong các công trình xây dựng mới hoặc sửa chữa lại, tham gia các Hội
đồng nghiệm thu trong những trường hợp cần thiết.
- Tham gia soạn các
tài liệu học tập về an toàn kỹ thuật, vệ sinh công nghiệp.
- Sưu tầm, in và phát
sách báo, tài liệu tuyên truyền về an toàn kỹ thuật bảo hộ lao động.
Để chấp hành những
nhiệm vụ trên đây, ông vụ trưởng vụ nhân sự có quyền hạn và trách nhiệm như
sau:
- Căn cứ vào các chế
độ hiện hành thảo ra các biện pháp về công tác bảo hộ lao động.
- Yêu cầu các tổng
cục, các đơn vị trực thuộc bộ báo cáo những tài liệu cần thiết về công tác bảo
hộ lao động và giải thích những vấn đề cần thiết.
- Yêu cầu bộ phận
thiết kế giải thích về an toàn kỹ thuật, vệ sinh công nghiệp trên các đồ án xây
dựng mới hoặc sửa chữa lại và tham gia hội đồng nghiệm thu về phương diện an
toàn kỹ thuật, vệ sinh công nghiệp trong những trường hợp cần thiết.
- Đề nghị cấp lãnh
đạo khen thưởng những cá nhân hoặc đơn vị có thành tích về công tác bảo hộ lao
động và đề nghị xử trí những nhân viên vi phạm và sắc lệnh, nghị định, chỉ thị,
qui trình, qui tắc về bảo hộ lao động, an toàn kỹ thuật, vệ sinh công nghiệp.
- Đề nghị các bộ môn
có liên quan nghiên cứu những vấn đề cần thiết về an toàn kỹ thuật, vệ sinh
công nghiệp, tham gia các hội nghị có liên quan đến công tác bảo hộ lao động.
- Phải chịu trách
nhiệm khi không hoàn thành nhiệm vụ đã quy định. (Nhiệm vụ của hội đồng kỹ
thuật về phần này sẽ có qui định sau).
Điều
7. - Các Tổng cục sẽ căn cứ vào yêu cầu thực tế để tổ chức ban
bảo hộ lao động hoặc giám sát viên bảo hộ lao động thuộc Phòng lao động tiền
lương hoặc Phòng nhân sự. Ban bảo hộ lao động hoặc giám sát viên bảo hộ lao
động có nhiệm vụ:
- Theo dõi các đơn vị
trực thuộc về việc chấp hành chính xác các nghị định, chỉ thị, qui chương, qui
trình, qui tắc về công tác bảo hộ lao động, an toàn kỹ thuật.
- Đề nghị sửa chữa
hoặc bổ sung những qui định về bảo hộ lao động, an toàn kỹ thuật, vệ sinh công
nghiệp hiện hành.
- Cùng với các đơn vị
hiện trường và những bộ môn có liên quan thảo ra các công việc an toàn kỹ
thuật, vệ sinh công nghiệp (đặc biệt chú ý đến những công tác dễ xảy ra tai
nạn) trình thủ trưởng thẩm tra rồi công bố và theo dõi việc thực hiện những
biện pháp đó.
- Tổ chức và chỉ đạo
việc kiểm tra định kỳ về bảo hộ lao động, an toàn kỹ thuật trong các đơn vị
thuộc ngành mình.
- Chỉ đạo các đơn vị
làm kế hoạch tỷ mỷ về cải thiện điều kiện lao động và công việc an toàn kỹ
thuật hàng quý, hàng năm.
- Theo dõi tình hình
thực hiện các công việc an toàn kỹ thuật, vệ sinh công nghiệp và việc sử dụng
tiền cải thiện điều kiện lao động ở các đơn vị hiện trường thuộc hệ thống của
mình.
- Theo dõi việc áp
dụng đúng các qui trình về an toàn kỹ thuật, vệ sinh công nghiệp ở những công
trình xây dựng mới hoặc sửa chữa lại, đồng thời tham gia hội đồng nghiệm thu về
phương diện an toàn kỹ thuật, vệ sinh công nghiệp.
- Theo dõi, hướng dẫn
về phương pháp giáo dục huấn luyện cho công nhân viên về an toàn kỹ thuật, vệ
sinh công nghiệp.
- Biên soạn các tiêu
chuẩn và mẫu mực quần áo công tác, dụng cụ phòng hộ và theo dõi tình hình cấp
phát, bảo quản, sử dụng.
- Theo dõi việc đăng
ký, điều tra và thống kê chính xác kịp thời tình hình tai nạn lao động.
- Điều tra các vụ tai
nạn lao động nghiêm trọng và nghiên cứu các biện pháp cần thiết để tiêu diệt
những nguyên nhân gây ra tai nạn.
- Hàng quý, hàng năm
tổng kết, phân tích tình hình tai nạn lao động trong các đơn vị thuộc hệ thống
của mình, đề ra các biện pháp khắc phục và làm báo cáo gửi cấp trên trực tiếp.
Để chấp hành những
nhiệm vụ trên đây, ông trưởng phòng lao động tiền lương hoặc nhân sự phụ trách
công tác bảo hộ lao động, trưởng ban hoặc giám sát viên bảo hộ lao động có
quyền hạn và trách nhiệm:
- Thông qua cấp lãnh
đạo trực tiếp trong phạm vi chế độ ban hành, thảo các chỉ thị, biện pháp, qui
trình, qui tắc về bảo hộ lao động, an toàn kỹ thuật, vệ sinh công nghiệp thích
hợp với tình hình thực tế của ngành mình và trình cấp lãnh đạo phê chuẩn công bố.
- Giải thích và theo
dõi việc thực hiện các thông tư, chỉ thị, qui chương, qui trình về bảo hộ lao
động, an toàn kỹ thuật, vệ sinh công nghiệp.
- Đề nghị bộ phận
thiết kế giải thích về an toàn kỹ thuật, vệ sinh công nghiệp trên các đồ án xây
dựng mới hoặc sửa chữa lại và tham gia hội đồng nghiệm thu về phương diện an
toàn kỹ thuật, vệ sinh công nghiệp.
- Đề nghị cấp lãnh
đạo khen thưởng các cá nhân hoặc đơn vị có thành tích về bảo hộ lao động và đề
nghị xử trí những nhân viên vi phạm các sắc lệnh, nghị định, chỉ thị, qui
trình, qui tắc về bảo hộ lao động, an toàn kỹ thuật, vệ sinh công nghiệp.
Các ông trưởng phòng
lao động tiền lương hoặc nhân sự phụ trách công tác bảo hộ lao động, trưởng ban
hoặc giám sát viên bảo hộ lao động phải chịu trách nhiệm khi không hoàn thành
nhiệm vụ đã quy định.
Điều
8. - Ở các đơn vị hiện trường như các xưởng máy, cảng, ty, chi
nhánh vận tải ô tô, đội công trình khu, sở, v.v… sẽ tùy theo tính chất công
việc sản xuất (cơ giới hay thủ công nghiệp) và tùy theo khối lượng công tác bảo
hộ lao động nhiều hay ít, đặt một kỹ thuật viên bảo hộ lao động.
Về phương diện kỹ
thuật, các kỹ thuật viên bảo hộ lao động sẽ đặt dưới sự lãnh đạo của công trình
sư hoặc phó thủ trưởng phụ trách về kỹ thuật của đơn vị và sẽ tùy tình hình cụ
thể ở từng đơn vị mà đặt trong bộ môn kỹ thuật hoặc bộ môn lao động tiền lương.
Các kỹ thuật viên bảo
hộ lao động có nhiệm vụ:
- Theo dõi việc chấp
hành đúng các qui định về bảo hộ lao động, an toàn kỹ thuật, vệ sinh công
nghiệp trong đơn vị.
- Nghiên cứu điều
kiện làm việc ở hiện trường để tìm ra những nhân tố có thể làm hại đến sức khỏe
công nhân viên và định ra các công việc cải thiện điều kiện lao động cho thích
hợp.
- Những qui tắc tỷ mỷ
về an toàn kỹ thuật do bộ môn kỹ thuật dự thảo, bộ môn bảo hộ lao động tham gia
ý kiến, phó thủ trưởng hoặc kỹ sư phụ trách về kỹ thuật thẩm tra rồi trình thủ
trưởng phê chuẩn công bố để áp dụng và hướng dẫn kỹ càng cho công nhân viên
triệt để thực hiện các qui tắc đó.
- Tổ chức giáo dục,
huấn luyện công nhân mới, cũ về an toàn kỹ thuật.
- Tổ chức tuyên
truyền sâu rộng trong anh chị em công nhân viên các sắc lệnh, nghị định, chỉ
thị, thông tư, điều lệ, qui tắc và những tài liệu có liên quan đến bảo hộ lao
động bằng mọi hình thức cần thiết và có thể như: nói chuyện, báo cáo, triển
lãm, khẩu hiệu, báo chí v.v…
- Theo dõi có hệ
thống, kịp thời, tình hình an toàn về nhà cửa, thiết bị máy móc… của đơn vị và
đề nghị sửa chữa khi thấy có trạng thái hư hỏng.
- Tổ chức kiểm tra
bất thường hoặc định kỳ về an toàn kỹ thuật, vệ sinh công nghiệp.
- Theo dõi, kiểm tra
đúng kỳ hạn các thiết bị nồi hơi, máy chịu ép, máy cần trục và những bộ phận
quan trọng tương tự.
- Theo dõi việc sử
dụng chính xác các thiết bị về an toàn kỹ thuật, vệ sinh công nghiệp.
- Theo dõi việc thực
hiện đầy đủ các qui tắc an toàn kỹ thuật, vệ sinh công nghiệp trong các công
trình xây dựng mới và sửa chữa lại, tham gia hội đồng nghiệm thu về phương diện
an toàn kỹ thuật, vệ sinh công nghiệp.
- Tổng kết việc cấp
phát dụng cụ phòng hộ, áo quần công tác, xà phòng, chuyển dụng và theo dõi tình
hình cấp phát sử dụng, bảo quản những thứ đó được tốt.
- Tham gia vào việc
định kế hoạch chi tiêu về an toàn kỹ thuật, vệ sinh công nghiệp.
- Thường xuyên kiểm
tra việc thực hiện các công việc về an toàn kỹ thuật, vệ sinh công nghiệp.
- Tham gia việc điều
tra nghiên cứu các vụ tai nạn lao động, trúng độc bởi khí độc, hơi hóa chất hay
nhiệt độ cao, xảy ra trong đơn vị, tìm ra nguyên nhân phát sinh và đề ra biện
pháp đề phòng.
- Hàng quý và hàng
năm tiến hành việc thống kê, tổng kết, phân tích tình hình tai nạn lao động
trong đơn vị, đề ra biện pháp phòng ngừa, trình thủ trưởng công bố thực hiện và
đôn đốc theo dõi hướng dẫn việc thực hiện các biện pháp đó, thông qua thủ
trưởng đơn vị gửi báo cáo đó về cấp trên trực tiếp.
Để chấp hành nhiệm vụ
trên đây, kỹ thuật viên bảo hộ lao động (kể cả những người kiêm nhiệm), có
quyền hạn và trách nhiệm:
- Thông qua bộ môn kỹ
thuật, thảo ra các nội quy, quy tắc tỉ mỉ về bảo hộ lao động, an toàn kỹ thuật,
vệ sinh công nghiệp trình thủ trưởng công bố về thi hành.
- Đề nghị cấp lãnh
đạo trực tiếp kịp thời đình chỉ những công việc xét thấy có thể nguy hiểm đến
tính mạng của công nhân viên.
- Đề nghị đình chỉ
việc sử dụng các máy móc, dụng cụ không hợp quy cách có thể xảy ra tai nạn
thiệt hại.
- Yêu cầu bộ phận
thiết kế giải thích về an toàn kỹ thuật, vệ sinh công nghiệp trên các đồ án xây
dựng mới, hoặc sửa chữa lại, đồng thời tham gia hội đồng nghiệm thu về phương
diện an toàn kỹ thuật, vệ sinh công nghiệp.
- Đề nghị cấp lãnh
đạo khen thưởng những cán bộ, công nhân viên có thành tích về bảo hộ lao động
và xử trí những người vi phạm các sắc lệnh, nghị định, chỉ thị, thông tư, quy
trình, quy tắc về bảo hộ lao động, an toàn kỹ thuật, vệ sinh công nghiệp.
- Phải chịu trách
nhiệm khi không hoàn thành nhiệm vụ đã quy định.
Điều
9. - Ở các bộ phận sản xuất, vận chuyển,
công trình tập trung đông công nhân và tính chất sản xuất dễ gây ra tai nạn
như: tổ sửa chữa, tổ sản xuất, tổ dồn xe, tổ bốc dỡ, tổ kích kéo, tổ tháo lắp,
tổ đập đá, tổ đục choòng, công khu sửa đường v.v… đều có một trực nhật bảo hộ
lao động.
Trực nhật bảo hộ lao
động do công nhân trong bộ phận có chia phiên nhau đảm nhiệm mỗi người một
tuần.
Các trực nhật bảo hộ
lao động vừa trực tiếp sản xuất, vừa đôn đốc việc thực hiện các mặt công tác
bảo hộ lao động an toàn kỹ thuật trong bộ phận của mình.
- Trong giờ làm việc
các trực nhật bảo hộ lao động mang 1 băng đỏ ở cánh tay trái, trên băng đỏ có
chữ: “Trực nhật bảo hộ lao động”.
Băng này do đơn vị
cấp (mẫu kèm theo).
Các trực nhật bảo hộ
lao động có nhiệm vụ:
1. Đôn đốc, động viên
công nhân trong tổ chấp hành đúng các quy định về bảo hộ lao động, an toàn kỹ
thuật, vệ sinh sản xuất.
2. Đôn đốc việc xử
dụng hợp lý dụng cụ phòng hộ lao động, bảo quản dụng cụ phòng hộ được tốt.
3. Trước khi làm
việc, đôn đốc việc kiểm tra an toàn các dụng cụ thiết bị máy móc, dụng cụ phòng
hộ trong bộ phận mình và đề nghị cấp lãnh đạo trực tiếp đổi hoặc sửa chữa nếu
thấy có trạng thái hư hỏng.
4. Nhắc nhở anh em
trong tổ thi hành đúng quy định về giờ làm việc, giờ sinh hoạt, giờ nghỉ ngơi.
5. Đôn đốc anh em giữ
gìn sạch sẽ địa điểm làm việc, các đường đi lại và sắp xếp dụng cụ vật liệu
được gọn gàng.
6. Góp ý kiến và đôn
đốc anh em thực hiện những biện pháp cải tiến điều kiện lao động ở Bộ phận mình
trong mọi trường hợp cần thiết và cụ thể.
7. Nhắc nhở anh em làm
việc đúng theo các quy định về trình tự sản xuất, nếu thấy người nào không làm
đúng thì giúp đỡ người đó sửa chữa để tránh tai nạn có thể xảy ra.
8. Tham gia điều tra
những tai nạn xảy ra trong lúc làm trực nhật bảo hộ lao động.
9. Đề nghị với cấp
lãnh đạo trực tiếp khen thưởng hoặc biểu dương những công nhân có thành tích
hoặc có nhiều sáng kiến trong công tác bảo hộ lao động an toàn kỹ thuật.
MẪU
BĂNG ĐỎ TRỰC NHẬT BẢO HỘ LAO ĐỘNG
TRỰC NHẬT
BẢO HỘ - LAO ĐỘNG
|
Bề dài băng đỏ
Bề ngang băng đỏ
Bề cao chữ “Trực
nhật”
Bề cao chữ “Bảo hộ
lao động”
Nền đỏ
Chữ thêu chỉ vàng
|
400 ly
75 ly
20 ly
25 ly
|
Kích thước và phẩm
chất băng đỏ:
QUY ĐỊNH
Về điều tra, đăng ký,
thống kê về tai nạn lao động, trong ngành Giao thông vận tải và Bưu điện
Điều
1.
- Bản qui định này áp dụng cho tất cả các đơn vị vận
tải bưu điện, công nghiệp, xây dựng cơ bản và những đơn vị khác thuộc các ngành
hoạt động của Bộ Giao thông và Bưu điện.
Điều
2.
- Điều tra, đăng ký, thống kê, báo cáo về tai nạn lao
động là một công tác có ý nghĩa chỉ đạo về mặt bảo hộ lao động mà tất cả các
ngành hoạt động thuộc Bộ Giao thông và Bưu điện phải thường xuyên coi trọng,
thực hiện một cách đầy đủ, để kịp thời tìm ra mọi nguyên nhân gây ra tại nạn về
người và thực hiện những biện pháp phòng ngừa có hiệu quả nhằm đảm bảo an toàn
trong công tác thông tin, vận tải, sản xuất công nghiệp, xây dựng cơ bản và
những sự nghiệp có liên quan được an toàn.
Điều
3. - Tất cả những vụ tai nạn về người xảy ra trong khi làm công việc, hoặc
trong khi đi công tác, kể cả tai nạn trúng độc (hơi độc, khi độc v.v…) đều phải
được điều tra, đăng ký, thống kê, báo cáo theo quy định này.
Trường hợp công nhân
viên của một đơn vị bị tai nạn trong khi làm việc ở một đơn vị khác, thì đơn vị
xảy ra tai nạn có trách nhiệm điều tra, đăng ký, thống kê, báo cáo, đồng thời
báo ngay cho đơn vị của người bị nạn biết.
Điều
4. - Tổng công trình sư, Tổng cục phó hay Cục phó phụ trách về kỹ thuật, phó
xưởng trưởng, phó đoàn trưởng, phó đội trưởng, phó ty trưởng phụ trách về kỹ
thuật, phó giám đốc Khu, Sở, hiệu phó, thuyền trưởng, trưởng ga, chủ nhiệm phân
xưởng, lĩnh công viên, hạt trưởng, trưởng phòng bưu điện huyện, trưởng ban,
trưởng kíp và những chức vụ tương đương là những người có trách nhiệm trực tiếp
điều tra, lập biên bản và báo cáo một cách chính xác, kịp thời về các vụ tai
nạn lao động xảy ra ở phạm vi mình phụ trách.
Điều
5. - Khi xảy ra tai nạn, thì người trông thấy trước nhất hoặc chính người bị
nạn, nếu người này có thể đi được, phải lập tức báo cáo với người lãnh đạo trực
tiếp.
Người lãnh đạo trực
tiếp có trách nhiệm tổ chức cấp cứu, dùng mọi phương tiện vận tải nhanh chóng
đưa ngay người bị nạn đến cơ quan y tế gần nhất để cứu chữa và căn cứ vào tình
hình tai nạn mà làm các công việc theo qui định ở điều 6, 7, 8, 9, 10.
Điều
6. - Đối với tai nạn khiến cho công nhân viên phải nghỉ việc dưới 3 ngày, người
lãnh đạo trực tiếp như: công trưởng ở đường sắt, trưởng cung ở đường bộ, trưởng
phòng huyện ở bưu điện, chủ nhiệm phân xưởng ở nhà máy, phân đội trưởng ở công
trình hay những người lãnh đạo tương đương ở các đơn vị khác có trách nhiệm tìm
ra nguyên nhân gây nên tai nạn và kịp thời thực hiện những biện pháp phòng ngừa
cần thiết.
Ở những đơn vị có kỹ
thuật viên bảo hộ lao động thì nhân viên ấy có trách nhiệm trực tiếp ghi vào sổ
những tai nạn lao động.
Trường hợp không có
kỹ thuật viên bảo hộ lao động thì người lãnh đạo nơi xảy ra tai nạn có trách
nhiệm trực tiếp ghi sổ.
Điều
7. - Đối với những tai nạn phải nghỉ việc từ 3 ngày trở lên, nhưng theo y tế
khám đoán người bị nạn không thành tàn phế, thì việc điều tra, đăng ký cũng làm
như qui định ở điều 6 trên và người lãnh đạo trực tiếp phải dùng mọi hình thức
nhanh chóng nhất báo cáo điều tra tai nạn (theo mẫu báo cáo điều tra tai nạn)
gửi về cấp lãnh đạo trực tiếp.
Điều
8. - Đối với những tai nạn lớn, nghĩa là có người bị thương sẽ thành tàn phế,
(theo sự khám đoán của cơ quan y tế), hoặc có nhiều người bị thương một lúc,
(từ 3 người trở lên) nhưng không có người chết, thì người lãnh đạo trực tiếp
phải dùng mọi hình thức nhanh chóng nhất báo cáo với xưởng trưởng, đoàn trưởng,
ty trưởng, giám đốc cảng, giám đốc khu, sở, hiệu trưởng hoặc các chức vụ tương
đương.
Các người lãnh đạo
trên đây khi nhận được báo cáo, phải thông tri ngay cho công đoàn cùng cấp biết
và tổ chức điều tra tìm nguyên nhân, xác định trách nhiệm, đề ra biện pháp
phòng ngừa tai nạn về sau, định thời gian thực hiện và chỉ định người chịu
trách nhiệm thực hiện những biện pháp đó.
Tổ điều tra tai nạn
gồm có:
- Chánh hay phó thủ
trưởng đơn vị
- Đại biểu công đoàn
cấp tương đương
- Kỹ thuật viên bảo
hộ lao động
- Người lãnh đạo trực
tiếp của bộ phận có người bị nạn.
Việc điều tra phải
tiến hành trong vòng 48 tiếng đồng hồ sau khi xảy ra tai nạn.
Căn cứ vào kết quả
điều tra, tổ điều tra tai nạn lập bản báo cáo “điều tra tai nạn” (theo mẫu báo
cáo điều tra tai nạn). Bản báo cáo này làm thành 5 bản gửi về Tổng cục, cơ quan
lao động địa phương (hoặc Ủy ban Hành chính nếu ở địa phương đó không có cơ quan
lao động), Công đoàn cùng cấp, người lãnh đạo ở bộ phận có người bị nạn, mỗi
nơi 1 bản, còn một bản xếp vào hồ sơ về tai nạn lao động của đơn vị.
Người lãnh đạo trực
tiếp ở bộ phận có người bị nạn chịu trách nhiệm đăng ký vào cuốn sổ tai nạnl
nói ở điều 6.
Điều
9. - Đối với những tai nạn chết người, việc báo cáo điều tra, đăng ký, qui
định như sau:
a) Nếu đơn vị có
người bị tai nạn trực thuộc trung ương quản lý thì người lãnh đạo trực tiếp đơn
vị đó lập tức dùng mọi phương tiện nhanh chóng nhất báo cáo về Tổng cục.
Tổng cục chỉ nhận
được báo cáo phải báo ngay cho Bộ Giao thông và Bưu điện và tổ chức Đoàn điều
tra đến nơi xảy ra tai nạn trong vòng 48 tiếng đồng hồ.
Đoàn này gồm có:
- Trưởng hay phó
phòng lao động tiền lương làm trưởng đoàn.
- Trưởng hay phó
phòng nhân sự.
- Ủy viên ban bảo hộ
lao động, hoặc giám sát viên bảo hộ lao động.
- Thủ trưởng đơn vị
có người bị nạn.
Trong khi đoàn điều
tra của Tổng cục chưa đến, thủ trưởng đơn vị báo tin cho gia đình người bị nạn
biết, và lo liệu việc mai táng theo như qui định hiện hành. Ngoài ra, có trách
nhiệm cùng với đại biểu công đoàn đồng cấp tiến hành điều tra và gom góp tài
liệu cần thiết để khi đoàn điều tra đến nơi có thể làm việc được nhanh chóng.
Trường hợp tổng cục ở
xa nơi xảy ra tai nạn và phương tiện đi lại không thuận tiện, hoặc vì lý do nào
khác, không thể cử đoàn điều tra đến trong vòng 48 tiếng đồng hồ, thì Tổng cục
có thể điện ủy quyền cho cấp lãnh đạo trực tiếp của đơn vị tổ chức điều tra như
qui định ở điều 8 trên.
Báo cáo điều tra làm
thành 5 bản:
- 1 bản gửi Tổng cục.
- 1 bản gửi Bộ Giao
thông và Bưu điện.
- 1 bản gửi ty lao
động địa phương.
- 1 bản gửi người
lãnh đạo trực tiếp đơn vị có người bị nạn.
- Còn 1 bản xếp vào
hồ sơ tai nạn lao động của đơn vị.
b) Nếu đơn vị có
người bị nạn thuộc Ủy ban Hành chính địa phương quản lý, thì người lãnh đạo
trực tiếp phải lập tức báo cho cơ quan lao động địa phương bằng phương tiện
nhanh chóng nhất, hoặc Ủy ban Hành chính (nơi không có cơ quan lao động) để cơ
quan này tổ chức đoàn điều tra theo qui định của Ủy ban Hành chính tỉnh hay
thành phố.
Trường hợp Ủy ban
Hành chính tỉnh hay thành phố chưa tổ chức đoàn điều tra tai nạn lao động, thì
người lãnh đạo trực tiếp đơn vị có người bị nạn có trách nhiệm phối hợp với
công đoàn cùng cấp để lập hồ sơ điều tra theo như qui định ở điều 8.
Báo cáo điều tra làm
thành 5 bản và gửi cho các cơ quan qui định ở điều 9 này (phần a) mỗi nơi 1
bản.
Điều
10. - Đối với những tai nạn người bị thương không chết ngay, nhưng sau khi
cuộc điều tra đã tiến hành xong, vết thương trở nên trầm trọng và người bị nạn
chết vì vết thương đó, thì coi như tai nạn chết người. Trường hợp này người
lãnh đạo trực tiếp của đơn vị có người bị nạn như: đoàn trưởng, xưởng trưởng,
đội trưởng, thuyền trưởng, ga trưởng, giám đốc cảng, giám đốc khi, sở, ty
trưởng, chi sở trưởng phải báo cáo tiếp theo qui định ở điều 9.
Điều
11. - Báo cáo điều tra tai nạn phải ghi chép rõ ràng, phân tích đầy đủ và
chính xác. Những người tham gia cuộc điều tra cùng ký tên vào bản báo cáo điều
tra.
Khi phân tích về
trách nhiệm, nếu người có trách nhiệm chính trong việc xảy ra tai nạn có ý kiến
khác với những người kết luận của đoàn điều tra, thì ý kiến đó cũng phải được
ghi vào bản báo cáo điều tra tai nạn. Trường hợp này trong bản báo cáo gửi cấp
lãnh đạo trực tiếp và cơ quan lao động địa phương, cán bộ bảo hộ lao động trong
đoàn điều tra cũng phải phản ánh cả kết luận của đoàn điều tra ý kiến của người
có trách nhiệm chính trong tai nạn.
Điều
12. - Người lãnh đạo trực tiếp ở bộ phận có người bị nạn chịu trách nhiệm thực
hiện và đôn đốc các bộ phận có liên quan thực hiện những biện pháp phòng ngừa
đúng theo thời gian đã định ở bản báo cáo điều tra tai nạn.
Đến ngày cuối cùng
của kỳ hạn thực hiện các công việc phòng ngừa, người lãnh đạo trực tiếp nói
trên phải cùng đại diện Công đoàn đồng cấp kiểm tra việc hoàn thành những công
việc đó và ghi nhận xét vào mục tình hình hoàn thành các công việc phòng ngừa.
Điều
13. - Trong trường hợp cần thiết phải xử trí đối với những người có trách
nhiệm trong các vụ tai nạn chết người hoặc tai nạn lớn thì đoàn điều tra đề
nghị và ghi vào bản báo cáo điều tra, bộ môn nhân sự thẩm tra và cấp lãnh đạo
có thẩm quyền nhiệm miễn về nhân sự quyết định.
Điều
14. - Khi kết thúc các vụ tai nạn chết người hoặc tai nạn lớn, người kỹ thuật
viên bảo hộ lao động (hoặc người lãnh đạo trực tiếp) phải viết tóm tắt tình
hình kết thúc tai nạn ghi vào phần cuối bản báo cáo điều tra tai nạn, lưu lại ở
đơn vị tình hình kết thúc tai nạn, tổng số tổn phí và các vấn đề cần tiếp tục
giải quyết.
Điều
15. - Khi nhận được báo cáo điều tra các vụ tai nạn chết người và tai nạn lớn,
các Tổng cục trưởng có trách nhiệm căn cứ vào tình hình cụ thể để thông báo cho
công nhân viên tất cả các đơn vị hoặc một số đơn vị biết để kịp thời rút kinh
nghiệm và đề phòng tai nạn. Cán bộ lãnh đạo các đơn vị phải coi trọng việc phổ
biến rộng rãi và kịp thời những thông báo đó.
Điều
16. - Cuối mỗi quý, các đơn vị hiện trường có trách nhiệm phân tích tình hình
tai nạn lao động trong đơn vị mình làm “báo cáo thống kê tai nạn lao động hàng
quý” về tất cả những vụ tai nạn xảy ra trong quý đã làm cho công nhân viên phải
nghỉ việc từ 3 ngày trở lên, gửi về tổng cục, nếu đơn vị đó thuộc Trung ương
quản lý. Đối với những đơn vị thuộc địa phương quản lý thì báo cáo gửi về ty lao
động (hoặc chính quyền địa phương) đồng gửi về tổng cục 1 bản (mẫu báo cáo
thông kê tai nạn).
Báo cáo phải gửi đi
trước ngày 10 của tháng thứ nhất quý sau; riêng đối với các đơn vị công trình,
thì ngoài việc làm báo cáo hàng quý ra, mỗi khi hoàn thành một công trình nào
và trước khi chuyển quân đi làm một công trình khác ở một địa điểm khác, cấp
lãnh đạo của đơn vị có trách nhiệm phân tích tình hình tai nạn lao động xảy ra
trong cả thời gian từ ngày khởi công đến ngày kết thúc công trình và làm báo
cáo như trên gửi đến các cơ quan nói trên, mỗi nơi 1 bản.
Điều
17. - Sau mỗi quý, các Tổng cục tiến hành phân tích tình hình tai nạn lao động
toàn ngành và gửi báo cáo về Bộ Giao thông và Bưu điện và công đoàn dọc trung
ương trước ngày 20 tháng thứ nhất quý sau (theo mẫu báo cáo thống kê tai nạn).
Dưới sự lãnh đạo trực
tiếp của Tổng cục phó phụ trách về bảo hộ lao động phối hợp với trưởng ban bảo
hộ lao động hoặc giám sát viên bảo hộ lao động và ủy viên phụ trách bảo hộ lao
động của công đoàn cấp tương đương kết hợp với tình hình đã trực tiếp điều tra
được trong quý và báo cáo của đơn vị hiện trường, cán bộ phụ trách bảo hộ lao
động và Ủy viên phụ trách bảo hộ lao động của công đoàn tiến hành phân tích,
nghiên cứu theo phương pháp thống kê và phương pháp kỹ thuật, để tìm ra những
nguyên nhân gây ra tai nạn của toàn ngành trong quý. Trên cơ sở đó, nhận xét và
đặt kế hoạch công tác quý sau nhằm không ngừng giảm bớt chỉ tiêu tai nạn lao
động hiện có, trình Tổng cục trưởng thẩm tra để thi hành.
Chỉ tiêu về tai nạn
lao động gồm có mức tai nạn nhiều và mức tai nạn nghiêm trọng.
Công thức tính như
sau:
a) Mức tai nạn nhiều:
‰ (tỷ lệ phần nghìn)
- P là tổng số người
bị tai nạn trong quý.
- Q là tổng số công
nhân viên bình quân của đơn vị trong quý.
b) Mức tai nạn nghiêm
trọng: -
T là tổng số ngày nghỉ vì tai nạn trong quý (chỉ kê những tai nạn phải nghỉ
việc từ 3 ngày trở lên).
- P là tổng số người
bị tai nạn trong quý.