CÔNG ƯỚC SỐ 152
CÔNG ƯỚC VỀ AN TOÀN VÀ VỆ SINH LAO ĐỘNG TRONG CÁC CÔNG VIỆC
BỐC XẾP TẠI CẢNG BIỂN, 1979
Hội nghị Toàn thể của Tổ chức Lao động quốc tế,
Được Hội đồng quản trị Văn phòng Lao động quốc tế
triệu tập tại Giơ-ne-vơ ngày 6 tháng 6 năm 1979, trong kỳ họp thứ sáu mươi sáu,
và
Ghi nhận các Công ước và Khuyến nghị quốc tế về
lao động có liên quan và Công ước về Chỉ tiêu trọng lượng (của các kiện hàng được
vận chuyển bằng tầu biển), 1929, Công ước về Bảo vệ máy móc, 1963, và Công ước
về Môi trường làm việc (ô nhiễm không khí, tiếng ồn và rung), 1977, và
Sau khi đã quyết định chấp thuận một số đề nghị
về việc sửa đổi Công ước về Bảo vệ (công nhân bến cảng) khỏi các tai nạn (đã sửa
đổi), 1932 (số 32), là vấn đề thuộc điểm thứ tư trong chương trình nghị sự của
kỳ họp, và
Sau khi đã quyết định rằng những đề nghị này sẽ
mang hình thức của một Công ước quốc tế,
thông qua ngày 25 tháng 6 năm 1979, Công ước dưới
đây gọi là Công ước về An toàn vệ sinh lao động (công việc bốc xếp tại cảng biển),
1979.
PHẦN
I. PHẠM VI ÁP DỤNG VÀ ĐỊNH NGHĨA
Điều
1
Trong Công ước này, thuật
ngữ “các công việc bốc xếp tại cảng biển” bao gồm toàn bộ hoặc một phần công việc
bốc hoặc dỡ của bất kỳ một tàu biển nào cũng như bất kỳ công việc khác tương tự;
định nghĩa về hình thức công việc này sẽ do pháp luật hoặc pháp quy quốc gia
quy định. Các tổ chức của người sử dụng lao động và người lao động có liên quan
phải được tham vấn hoặc phải tham gia vào quá trình xây dựng hoặc sửa đổi định
nghĩa này.
Điều
2
1. Một nước Thành viên có
thể dành sự miễn trừ hoặc cho phép một số ngoại lệ theo những quy định trong
Công ước này đối với các công việc bốc xếp tại cảng biển ở nơi mà hoạt động
giao thông không thường xuyên diễn ra và hạn chế các tàu biển trọng tải nhỏ,
cũng như liên quan đến các công việc bốc xếp trên các tàu đánh cá hoặc trên một
số loại tàu nhất định, với điều kiện:
a) điều kiện lao động phải được đảm bảo an toàn;
và
b) cơ quan có thẩm quyền, sau khi tham khảo ý kiến
các tổ chức của người sử dụng lao động và người lao động có liên quan, thấy được
rằng những sự miễn trừ hoặc ngoại lệ như vậy trong mọi hoàn cảnh là hợp lý.
2. Một số quy định cụ thể trong Phần III của
Công ước này có thể được áp dụng khác nhau nếu, sau khi tham khảo ý kiến các tổ
chức của người sử dụng lao động và người lao động có liên quan, cơ quan có thẩm
quyền thấy rằng những thay đổi đó mang lại những thuận lợi tương ứng và rằng
theo đó, sự bảo đảm cho người lao động như vậy, về tổng thể, sẽ không kém hơn
so với sự bảo đảm có được khi áp dụng toàn bộ các quy định trong Công ước này.
3. Bất kỳ một sự miễn trừ hay ngoại lệ nào được
quy định trong Đoạn 1 của Điều này và bất kỳ một sự thay đổi đáng kể nào được
quy định trong Đoạn 2 của Điều này, cũng như những lý do của việc miễn trừ, ngoại
lệ hay sửa đổi đó, phải được ghi rõ trong báo cáo áp dụng các điều khoản của
Công ước, theo Điều 22 của Điều lệ của Tổ chức Lao động quốc tế.
Điều
3
Trong Công ước này, các
thuật ngữ dưới đây được hiểu như sau:
a) “người lao động” dùng để chỉ bất kỳ người nào
tham gia vào công việc bốc xếp tại cảng biển;
b) “người có thẩm quyền” dùng để chỉ người có kiến
thức và kinh nghiệm cần thiết để thực hiện một hay nhiều nhiệm vụ nhất định, và
được cơ quan có thẩm quyền chấp nhận;
c) “người có trách nhiệm” dùng để chỉ người, được
người sử dụng lao động, chủ tàu hoặc người chủ sở hữu thiết bị, tùy trường hợp,
chỉ định để thực hiện một hoặc nhiều nhiệm vụ nhất định và là người có đủ kiến
thức và kinh nghiệm cũng như thẩm quyền cần thiết để có thể đảm nhận việc thực
hiện một hoặc nhiều nhiệm vụ đó;
d) “người được ủy quyền” dùng để chỉ người mà được
người sử dụng lao động, thuyền trưởng hoặc người có trách nhiệm ủy quyền thực
hiện một hoặc nhiều nhiệm vụ nhất định, đồng thời là người có kiến thức kỹ thuật
và kinh nghiệm cần thiết để thực hiện một hoặc nhiều nhiệm vụ đó;
e) “thiết bị nâng (cẩu)” chỉ tất cả các loại thiết
bị bốc dỡ, cố định hay tháo rời được, trong đó bao gồm cả các cầu vận chuyển chạy
bằng điện được cố định trên bờ, được sử dụng trên bờ hoặc ở trên boong tàu để
treo, nâng lên hay hạ xuống hàng hóa hoặc chuyển dời hàng hóa từ địa điểm này
sang địa điểm khác cùng lúc treo hay nâng hàng lên;
f) “thiết bị phụ” chỉ mọi loại thiết bị mà nhờ
thiết bị này, một kiện hàng có thể được gắn với một thiết bị nâng nhưng lại
không phải là một phần của thiết bị nâng cũng như không phải là một phần của kiện
hàng đó;
g) “đưa vào” cũng bao gồm hoạt động “đưa ra”;
h) “tàu biển” dùng để chỉ mọi loại tàu, thuyền,
sà lan, xuồng, thuyền vận chuyển hàng hóa hoặc tàu sân bay, ngoại trừ các chiến
hạm.
PHẦN
II. CÁC ĐIỀU KHOẢN CHUNG
Điều
4
1. Pháp luật và quy định
quốc gia quy định rằng các biện pháp phù hợp với Phần III Công ước này, liên
quan tới các công việc bốc xếp tại cảng biển, phải được thực hiện nhằm:
a) bố trí, duy trì và đảm bảo nơi làm việc và
các phương tiện làm việc được an toàn và tránh được các rủi ro liên quan đến sức
khỏe khi làm việc;
b) cung cấp và duy trì các phương tiện lên xuống
đảm bảo an toàn tại nơi làm việc;
c) cung cấp thông tin, đào tạo và giám sát khi cần
thiết để đảm bảo việc bảo vệ người lao động trước những nguy cơ tai nạn hoặc
nguy cơ tác động tới sức khỏe người lao động có nguồn gốc từ công việc của họ
hoặc phát sinh trong quá trình thực hiện những công việc đó;
d) cung cấp mọi trang thiết bị bảo hộ cá nhân,
quần áo bảo hộ và mọi phương tiện cứu hộ cần thiết và hợp lý, khi không thể
phòng ngừa đầy đủ các nguy cơ tai nạn hoặc nguy cơ tác động tới sức khỏe bằng
cách nào khác;
e) cung cấp và duy trì các phương tiện sơ cứu và
cứu hộ hợp lý và đầy đủ;
f) soạn thảo và xây dựng các thủ tục hợp lý để đối
phó với mọi tình huống khẩn cấp có thể xảy ra.
2. Các biện pháp cần tiến hành theo Công ước này
phải bao gồm:
a) các yêu cầu chung liên quan đến kết cấu, việc
trang bị và duy trì bảo dưỡng các công trình tại cảng cũng như các nơi khác mà
tại đó các công việc bốc xếp được thực hiện;
b) việc phòng chống hỏa hoạn và cháy nổ;
c) các phương tiện an toàn để lên xuống tàu,
khoang tàu, sàn tàu, trang thiết bị và các thiết bị nâng;
d) việc chuyên chở người lao động;
e) việc đóng mở các cửa hầm tàu, bảo vệ các lối
đi vào hầm tàu và các công việc trong khoang tàu;
f) việc xây dựng, bảo dưỡng và sử dụng các thiết
bị nâng và các thiết bị bốc dỡ khác;
g) việc xây dựng, bảo dưỡng và sử dụng các sàn
tàu;
h) việc lắp đặt và sử dụng các cần trục trên
tàu;
i) việc thử nghiệm, kiểm tra, thanh tra và chứng
nhận, khi cần thiết, các thiết bị nâng, các thiết bị phụ (trong đó có cả các
dây xích và dây thừng), các cáp móc và các thiết bị nâng khác (vốn là một bộ phận
dùng để gắn vào các kiện hàng);
j) việc bốc xếp các loại hàng hóa khác nhau;
k) việc xếp các kiện hàng và lưu kho;
l) các chất gây nguy hiểm và các nguy cơ khác
trong môi trường lao động;
m) các thiết bị bảo hộ cá nhân và quần áo bảo hộ;
n) các thiết bị vệ sinh, tẩy rửa và các dịch vụ
phúc lợi;
o) việc giám sát y tế;
p) các thiết bị sơ cứu và cứu hộ khẩn cấp;
q) việc tổ chức an toàn và vệ sinh;
r) việc đào tạo người lao động;
s) việc thông báo và điều tra các tai nạn lao động
và bệnh nghề nghiệp.
3. Việc áp dụng thực tiễn các quy định trong Đoạn
1 Điều này phải được đảm bảo hoặc dựa vào các tiêu chuẩn kỹ thuật hoặc các quy
tắc thực hiện đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, hoặc dựa và các phương
pháp thích hợp khác có tính tuân thủ thực tiễn và điều kiện quốc gia.
Điều
5
1. Pháp luật và quy định
quốc gia phải giao cho những người thích hợp, có thể là người sử dụng lao động,
chủ sở hữu, thuyền trưởng của tàu hay bất kỳ người nào khác, tùy theo trường hợp,
trách nhiệm áp dụng các biện pháp đã được quy định tại Đoạn I, Điều 4, Công ước
này.
2. Mỗi lần hai hay nhiều người sử dụng lao động
đồng thời thực hiện các công việc này tại cùng một nơi làm việc, họ phải có
trách nhiệm phối hợp nhằm áp dụng các biện pháp được quy định, mà không ảnh hưởng
đến trách nhiệm của mỗi người sử dụng lao động do đối với sức khỏe và sự an
toàn của người lao động mà người đó thuê mướn. Trong các trường hợp thích hợp,
cơ quan có thẩm quyền phải quy định các cách thức chung cho sự phối hợp này.
Điều
6
1. Các quy định cần phải
được áp dụng để ngưởi lao động:
a) đảm bảo không can thiệp một cách thiếu căn cứ
vào việc vận hành hoặc sử dụng sai mục đích các thiết bị hoặc phương tiện đảm bảo
an toàn lao động cho chính họ hoặc cho những người khác;
b) quan tâm hợp lý đến sự an toàn của chính bản
thân và của những người khác, những người có nguy cơ chịu tác động do hành vi của
họ hoặc do họ không làm tròn trách nhiệm trong công việc;
c) ngay lập tức thông báo đến người chịu trách
nhiệm giám sát mọi tình huống mà họ có lý do để tin rằng có thể xuất hiện nguy
cơ và họ không thể tự giải quyết được, theo đó các biện pháp đúng đắn có thể được
tiến hành.
2. Người lao động phải có quyền, ở bất kỳ nơi
làm việc nào, tham gia vào việc đảm bảo an toàn lao động trong phạm vi kiểm
soát của họ đối với các thiết bị và các phương pháp lao động và với quan điểm về
các cách thức làm việc được coi là có ảnh hưởng đến an toàn lao động. Trong trường
hợp các Ban an toàn và vệ sinh được thành lập căn cứ vào Điều 7 của Công ước
này, khi xem xét là thích hợp với luật pháp và thực tiễn quốc gia, thì quyền
này sẽ được áp dụng thông qua các Ban này.
Điều
7
1. Để các điều khoản của
Công ước này có hiệu lực thông qua pháp luật và quy định quốc gia hoặc bất kỳ một
công cụ nào khác phù hợp với thực tiễn và điều kiện quốc gia, cơ quan có thẩm
quyền phải tiến hành tham khảo ý kiến của các tổ chức những người sử dụng lao động
và những người lao động có liên quan.
2. Cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa những
người sử dụng lao động và người lao động hoặc đại diện của họ trong việc áp dụng
các biện pháp được quy định trong Điều 4, Đoạn 1, Công ước này.
PHẦN
III. CÁC BIỆN PHÁP KỸ THUẬT
Điều
8
Khi một nơi làm việc trở
nên không an toàn hoặc có nguy cơ gây tổn hại đến sức khỏe người lao động, các
biện pháp hiệu quả cần phải được áp dụng (bằng hàng rào, hệ thống cọc tiêu hoặc
các phương tiện thích hợp khác, trong đó nếu cần sẽ phải ngừng các hoạt động
làm việc) nhằm bảo vệ những người lao động cho đến khi nơi đó không còn nguy hiểm.
Điều
9
1. Tất cả những nơi mà tại
đó các công việc bốc xếp tại cảng được tiến hành và tất cả những con đường dẫn
đến những nơi này phải được chiếu sáng một cách thích hợp và đầy đủ.
2. Bất kỳ trở ngại nào có khả năng gây nguy hiểm
cho việc di chuyển của một thiết bị nâng, một phương tiện đi lại hoặc một người
nào đó, trong trường hợp không thể di dời do những nguyên nhân thực tế, thì phải
được báo hiệu một cách hợp lý và dễ nhận biết và, nếu cần, phải được chiếu sáng
đầy đủ.
Điều
10
1. Tất cả các khoảng đất
trống được sử dụng cho các phương tiện đi lại hoặc để chồng xếp hàng hóa hoặc vật
liệu phải được bố trí có mục đích và đảm bảo hợp lý.
2. Khi xếp lên hoặc dỡ xuống hàng hóa hoặc vật
liệu, phải đảm bảo an toàn và thứ tự trong đó tính đến tính chất và bao bì đóng
gói của hàng hóa hoặc vật liệu.
Điều
11
1. Các hành lang có chiều
rộng vừa đủ phải được bố trí để đảm bảo việc sử dụng an toàn các phương tiện đi
lại và các thiết bị bốc dỡ hàng hóa.
2. Các hành lang dành riêng cho người đi bộ phải
được bố trí khi cần thiết và khi có thể thực hiện được; các hành lang này phải
có chiều rộng vừa đủ và, trong trường hợp có thể thực hiện được, phải tách biệt
so với các hành lang dành cho các phương tiện đi lại.
Điều
12
Các phương tiện thích hợp
và đầy đủ để chống cháy phải được cung cấp và đảm bảo sẵn sàng cho việc sử dụng
ở những nơi mà công việc bốc xếp được tiến hành.
Điều
13
1. Tất cả các bộ phận
nguy hiểm của máy móc phải được bảo vệ một cách hiệu quả, trừ trường hợp các bộ
phận này ở trong một vị trí hoặc được bố trí một cách an toàn để có thể được
coi là đã được bảo vệ một cách hiệu quả.
2. Các biện pháp hiệu quả phải được áp dụng để,
trong trường hợp khẩn cấp, ngay lập tức ngừng việc cung cấp năng lượng cho mỗi
máy móc nếu điều đó là cần thiết.
3. Khi bất kỳ một công việc lau chùi, bảo dưỡng
hay sửa chữa máy móc có thể gây nguy hiểm cho một người nào đó, thì máy móc đó
phải được ngừng hoạt động trước khi công việc này bắt đầu, đồng thời phải áp dụng
các biện pháp hữu hiệu để đảm bảo rằng máy móc đó chỉ có thể hoạt động sau khi
công việc bảo dưỡng hoàn tất: Miễn là một người chịu trách nhiệm có thể cho máy
hoạt động trở lại để chạy thử hoặc điều chỉnh mà việc chạy thử hay điều chỉnh
đó vốn không thể thực hiện khi máy đó không hoạt động.
4. Một người được ủy quyền chỉ được phép:
a) ngừng việc bảo vệ khi công việc đòi hỏi phải
thực hiện tiếp;
b) tháo bỏ hoặc cho ngừng hoạt động các phương
tiện an toàn để lau chùi, điều chỉnh hoặc sửa chữa.
5. Nếu ngừng việc bảo vệ thì phải có sự thận trọng
cần thiết đối với công việc đó và việc bảo vệ đó phải được thay thế ngay khi có
thể.
6. Nếu bỏ đi hoặc cho ngừng hoạt động bất kỳ một
thiết bị bảo vệ nào thì phải có thiết bị thay thế hoặc cho thiết bị này hoạt động
trở lại ngay khi có thể, đồng thời các biện pháp phải được áp dụng để đảm bảo rằng
không sử dụng hoặc khởi động đột ngột máy móc liên quan cho đến khi thay thế
hoàn toàn và hoặc cho thiết bị bảo vệ hoạt động trở lại.
7. Theo mục đích Điều này, thuật ngữ máy móc bao
gồm mọi thiết bị nâng (cẩu), nắp hầm tàu chạy bằng cơ hoặc thiết bị chạy điện.
Điều
14
Tất cả các trang thiết bị
điện phải được bố trí, lắp đặt, vận hành và bảo dưỡng để phòng ngừa nguy hiểm
và phải phù hợp với các tiêu chuẩn đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.
Điều
15
Khi trên tàu có hoạt động
bốc dỡ hàng hóa dọc theo bến cảng hoặc kế bên một con tàu khác, phải đảm bảo bố
trí và lắp đặt sẵn sàng các phương tiện để lên xuống tàu an toàn hợp lý.
Điều
16
1. Khi phải di chuyển những
người lao động theo đường biển sang hoặc tới một tàu biển hoặc sang một nơi
khác, phải đảm bảo mọi biện pháp đúng đắn nhằm đảm bảo an toàn cho việc lên
tàu, thuyền, vận chuyển hoặc rời tàu, thuyền; các phương tiện vận chuyển hàng hải
phải phù hợp với các điều kiện vận chuyển theo mục đích này.
2. Khi phải di chuyển người lao động sang hoặc tới
một địa điểm trên đất liền, các phương tiện vận chuyển do người sử dụng lao động
bố trí phải đảm bảo an toàn.
Điều
17
1. Lối xuống hầm tàu hay
khoang hàng hóa phải đảm bảo bởi:
a) một cầu thang bộ cố định, trong trường hợp
không có thì phải có một thang leo hoặc các cọc treo hoặc các bậc thang có chiều
rộng vừa đủ, độ bền và kết cấu hợp lý; hoặc
b) các phương tiện khác đã có sự chấp nhận của
cơ quan có thẩm quyền.
2. Trong trường hợp được coi là hợp lý và có thể
thực hiện được, vị trí tất cả các phương tiện lên xuống được quy định tại Điều
này phải tách biệt với vị trí của nắp hầm tàu đang mở.
3. Người lao động không phải hoặc không bị yêu cầu
phải sử dụng các phương tiện lên xuống hầm hay khoang tàu mà được quy định khác
với Điều này.
Điều
18
1. Không được sử dụng nắp
hầm tàu hoặc xà ngang của sàn tàu nếu các bộ phận này không có kết cấu chắc chắn,
không có độ bền đảm bảo cho việc sử dụng, theo đó các bộ phận này phải được đặt
để hoặc bảo dưỡng hợp lý.
2. Các nắp hầm tàu được vận hành với sự hỗ trợ của
thiết bị nâng phải phù hợp với các phụ tùng kèm theo nhằm đảm bảo an toàn cho
các cáp móc hoặc các thiết bị nâng phụ khác.
3. Trong trường hợp các nắp hầm và các xà ngang
của sàn tàu không thể thay đổi được, các bộ phận này phải được báo hiệu rõ ràng
để chỉ rõ các vị trí của hầm tàu và vị trí của chúng so với hầm tàu.
4. Chỉ có một người được ủy quyền (hoặc một
thành viên của thủy thù đoàn, khi có thể) được phép mở hoặc đóng các nắp hầm chạy
bằng cơ; các nắp hầm không được đóng hoặc mở khi một người nào đó có thể có
nguy cơ bị thương vì việc đóng mở các nắp hầm đó.
5. Các quy định trong Đoạn 4 của Điều này, với
những sửa đổi hợp lý về chi tiết, phải áp dụng với các thiết bị của tàu biển chạy
bằng điện như cửa thân tàu, cầu vận chuyển, boong chứa xe cộ có thể gấp lại hoặc
các thiết bị tương tự khác.
Điều
19
1. Các biện pháp cần thiết
phải được áp dụng nhằm bảo vệ các lối vào ra và trên boong tàu nơi mà người lao
động phải làm việc, và nơi mà tại đó họ hoặc các phương tiện đi lại có thể rơi
xuống bất cứ lúc nào.
2. Tất cả các cửa hầm tàu không phù hợp với
khung cửa của hầm tàu, với độ cao và độ bền đảm bảo phải được đóng lại hoặc phải
được bảo vệ khi cửa hầm không còn sử dụng được nữa, trừ trường hợp công việc
đòi hỏi phải thực hiện trong một thời gian ngắn, và phải có một người chịu
trách nhiệm đảm bảo thực hiện các biện pháp này.
Điều
20
1. Các biện pháp cần thiết
phải được áp dụng nhằm đảm bảo an toàn cho người lao động đang làm việc trong
các khoang chứa hàng hoặc trên các boong tàu khi có các phương tiện đi lại hoạt
động trong các khoang đó hoặc công việc bốc hoặc dỡ hàng hóa diễn ra với sự hỗ
trợ của các thiết bị chạy bằng năng lượng.
2. Các nắp hầm tàu và các xà ngang của sàn tầu
không được di dời hoặc thay thế khi người lao động đang làm việc trong khoang
chứa hàng bên dưới cửa hầm. Trước khi tiến hành bốc dỡ hàng hóa, tất cả các nắp
hầm tàu hoặc xà ngang không được đảm bảo an toàn đều phải được di dời.
3. Phải có một hệ thống quạt thông gió đảm bảo
lưu thông không khí trong khoang chứa hàng hoặc trên boong để hàng nhằm phòng
ngừa các nguy cơ gây hại đến sức khỏe của người lao động do khói phát ra từ những
động cơ đốt trong hoặc từ các nguồn khác.
4. Phải bố trí các thiết bị đầy đủ, bao gồm các
phương tiện sơ tán nhằm đảm bảo an toàn cho người lao động khi bốc dỡ các kiện
hàng rời trong bất kỳ một khoang chứa hàng hoặc giữa các boong để hàng nào, hoặc
khi người lao động phải làm việc trong các thùng chứa trên boong tàu.
Điều
21
Mọi thiết bị nâng, mọi bộ
phận của thiết bị phụ và mọi cáp móc hoặc dụng cụ nâng được gắn vào một kiện
hàng, phải:
a) có thiết kế và kết cấu tốt, có độ bền hợp lý
nhằm cho mục đích sử dụng, được bảo dưỡng trong điều kiện và trình tự làm việc
đảm bảo, và phải được lắp đặt đúng cách, trong trường hợp cần thiết phải lắp đặt
một thiết bị nâng;
b) được sử dụng đúng cách và an toàn, cụ thể là
không được vượt quá trọng tải bốc xếp tối đa, trừ trường hợp việc thử nghiệm được
thực hiện theo quy định và hướng dẫn của người có thẩm quyền.
Điều
22
1. Mọi thiết bị nâng, mọi
bộ phận của thiết bị phụ phải do một người có thẩm quyền thử nghiệm theo đúng
pháp luật và quy định quốc gia trước khi đưa vào sử dụng lần đầu và sau khi có
bất kỳ một sự thay đổi và sửa chữa đáng kể nào đối với mỗi bộ phận có thể gây ảnh
hưởng đến mức độ an toàn của các thiết bị này.
2. Các thiết bị nâng được cố định với con tàu và
là một phần của con tàu phải được kiểm tra/ thử nghiệm lại ít nhất năm năm một
lần.
3. Các thiết bị cố định trên cảng biển phải được
kiểm tra lại theo thời gian do cơ quan có thẩm quyền quy định.
4. Sau khi hoàn thành việc kiểm tra bất kỳ một
thiết bị nâng hoặc mọi bộ phận của thiết bị phụ nào theo Điều này, các thiết bị
này phải được điểm định hoàn toàn và do người tiến hành kiểm tra thiết bị xác
nhận.
Điều
23
1. Ngoài các quy định
trong Điều 22, mọi thiết bị nâng, mọi bộ phận của thiết bị phụ phải do một người
có thẩm quyền định kỳ kiểm định và xác nhận. Việc kiểm định này phải được thực
hiện ít nhất 12 tháng 1 lần.
2. Theo mục đích của Đoạn 4, Điều 22 và Đoạn 1
Điều này, việc kiểm định toàn bộ có nghĩa là kiểm tra chi tiết bằng mắt thường
do một người có chuyên môn thực hiện, có sự trợ giúp nếu cần thiết của mọi
phương tiện hoặc mọi biện pháp thích hợp khác nhằm có được một kết luật đáng
tin cậy về độ an toàn của thiết bị hoặc bộ phận đó.
Điều
24
1. Mọi bộ phận của thiết
bị phụ phải được thanh tra/ kiểm tra thường xuyên trước khi sử dụng. Các cáp
móc nếu không còn sử dụng được hoặc cần phải được bỏ đi thì không được sử dụng
lại. Trong trường hợp các kiện hàng được gắn cáp móc từ trước thì vẫn phải có sự
kiểm tra thường xuyên khi làm việc đó là hợp lý và có thể thực hiện được.
2. Theo mục đích của Đoạn 1 Điều này, việc thanh
tra có nghĩa là sự kiểm tra bằng mắt thường do một người chịu trách nhiệm thực
hiện nhằm quyết định việc thiết bị hoặc cáp móc đó có được tiếp tục sử dụng hay
không, theo chừng mực mà có thể thực hiện được.
Điều
25
1. Các biên bản được xác
nhận một cách chính thức như là việc ghi nhận lại sự chứng thực tình trạng an
toàn của các thiết bị nâng và các thiết bị phụ bốc xếp liên quan phải được bảo
toàn, ở trên đất liền cũng như trên tàu, tùy theo trường hợp; và phải cụ thể
hóa khả năng làm việc tối đa của thiết bị, thời gian và kết quả của các thử
nghiệm, các đợt kiểm tra sâu và các đợt thanh tra được đề cập ở các Điều 22, 23
và 24 của Công ước này: Miễn là trong trường hợp có các đợt thanh tra như đã đề
cập ở Đoạn 1 Điều 24 Công ước này, một biên bản sẽ chỉ được ghi lại nếu việc
thanh tra có một lỗi nào đó.
2. Việc đăng ký các thiết bị nâng hoặc các bộ phận
của thiết bị phụ phải được duy trì theo một mẫu đăng ký do cơ quan có thẩm quyền
quy định, trong đó có tính đến mẫu do Văn phòng Lao động quốc tế khuyến nghị.
3. Văn bản đăng ký phải bao gồm các chứng nhận
do cơ quan có thẩm quyền cấp hay công nhận là có hiệu lực, hoặc các bản sao được
công chứng theo các chứng nhận nói trên, dưới hình thức mẫu đăng ký do cơ quan
có thẩm quyền quy định, trong đó có tính đến mẫu do Văn phòng Lao động quốc tế
quy định đối với việc thử nghiệm, kiểm tra sâu hay thanh tra, tùy trường hợp có
thể, các thiết bị nâng và các thiết bị phụ bốc xếp.
Điều
26
1. Nhằm đảm bảo việc thừa
nhận đồng nhất các quy định do các Nước thành viên đã phê chuẩn Công ước này đặt
ra đối với việc thử nghiệm, kiểm tra toàn bộ, thanh tra và chứng nhận tình trạng
của các thiết bị nâng và các bộ phận của thiết bị phụ vốn được coi là một phần
của một con tàu cũng như một phần của các biên bản liên quan:
a) Cơ quan chức năng của mỗi Nước thành viên đã
phê chuẩn Công ước này phải chỉ định hoặc phải công nhận những cá nhân chuyên
trách hoặc các tổ chức trong nước và nước ngoài tiến hành các cuộc thử nghiệm
hoặc/và kiểm tra và các chức năng liên quan khác, với điều kiện đảm bảo rằng những
cá nhân hoặc tổ chức này được chỉ định hoặc công nhận chỉ khi họ hoàn thành
công việc của mình một cách thỏa đáng.
b) Các Nước thành viên đã phê chuẩn Công ước phải
chấp nhận hoặc công nhận việc những cá nhân hoặc tổ chức này được chỉ định căn
cứ vào khoản a) trên đây, hoặc phải đưa ra các cam kết nhất định đối với việc
công nhận hoặc chỉ định này vào những sự thỏa thuận mang tính tương hỗ; trong
các trường hợp này, việc chấp nhận hoặc công nhận chỉ có được khi những cá nhân
hoặc tổ chức này hoàn thành công việc của mình một cách thỏa đáng.
2. Không một thiết bị nâng, một thiết bị bốc xếp
hoặc thiết bị bốc xếp phụ được sử dụng nếu:
a) cơ quan chức năng không được đáp ứng yêu cầu
đối với một chứng nhận của việc thử nghiệm hoặc kiểm tra hoặc đối với một biên
bản xác nhận trong phạm vi thẩm quyền của họ, và tùy trường hợp, đối với một thử
nghiệm, kiểm tra hoặc thanh tra cần thiết được tiến hành căn cứ vào các quy định
trong Công ước này; hoặc
b) theo sự đánh giá của cơ quan chức năng, thiết
bị hoặc bộ phận này không được coi là an toàn cho việc sử dụng.
3. Đoạn 2 của Điều này không được áp dụng làm
nguyên cớ gây ra sự chậm trễ trong việc bốc hoặc dỡ hàng trên một con tàu mà tại
đó các thiết bị đã được cơ quan có thẩm quyền xác nhận, được sử dụng.
Điều
27
1. Mọi thiết bị nâng
(không phải là cần cẩu của một con tàu) có trọng tải làm việc tối đa duy nhất
và mọi thiết bị phụ phải kèm theo các chỉ dẫn rõ ràng về trọng tải sử dụng, bằng
việc dán tem bảo đảm hoặc, nếu việc làm đó là không thể thực hiện được trong thực
tế, thì có thể áp dụng bằng các phương tiện thích hợp khác.
2. Mọi thiết bị nâng (không phải là cần cẩu của
một con tàu) có nhiều hơn một trọng tải làm việc tối đa phải được trang bị những
phương tiện hiệu quả cho phép người điều hành xác định trọng tải tối đa trong mọi
điều kiện sử dụng.
3. Mọi cần cầu của tàu (không phải là cần trục)
phải được kèm theo các chỉ dẫn rõ ràng về trọng tải tối đa khi được sử dụng:
a) một mình;
b) để cẩu một khối hàng ở vị trí thấp hơn;
c) trong một tập hợp các dụng cụ dùng để kéo một
khối hàng tại mọi vị trí có thể của khối hàng đó.
Điều
28
Mọi con tàu phải có các bản
vẽ các vị trí trang bị buồm chão và mọi tài liệu liên quan cần thiết khác để đảm
bảo độ an toàn các thiết bị buồm chão khi sử dụng cùng với các cần cẩu và các
thiết bị phụ của các cần cẩu này.
Điều
29
Các tấm nâng hàng và các
thiết bị tương tự khác có chức năng chứa đựng hoặc chống đỡ các kiện hàng phải
có kết cấu bền vững và một độ bền đảm bảo cũng như không có bất kỳ một sai sót
nào có thể nhìn thấy được mà có thể ảnh hưởng đến việc sử dụng an toàn các thiết
bị này.
Điều
30
Không được nâng lên hay hạ
xuống các kiện hàng nếu các kiện hàng này không được gắn với các cáp móc hay
nói cách khác là không được cố định với thiết bị nâng để đảm bảo độ an toàn.
Điều
31
1. Mọi lối đi dành cho
các công ten nơ phải được bố trí và các hoạt động trên các lối đi này phải được
triển khai để đảm bảo sự an toàn cho những người lao động, trong chừng mực các
việc làm này là hợp lí và có thể thực hiện được.
2. Trong trường hợp các con tàu vận chuyển công
ten nơ, cần phải có các phương tiện cần thiết để đảm bảo sự an toàn cho những
người lao động đang thực hiện công việc lắp đặt hoặc tháo dỡ các công ten nơ.
Điều
32
1. Mọi kiện hàng được coi
là nguy hiểm phải được đóng gói, đánh dấu, dán nhãn, bốc dỡ, lưu kho và chồng xếp,
theo các điều khoản của các quy định quốc tế áp dụng cho việc vận chuyển các
hàng hóa nguy hiểm trên biển và cho việc bốc dỡ các hàng hóa này trên các cảng
biển.
2. Các chất nguy hiểm chỉ được bốc dỡ, lưu kho
hoặc chồng xếp nếu chúng đã được đóng gói, đánh dấu và dán nhãn theo các quy định
quốc tế áp dụng cho việc vận chuyển các chất này.
3. Nếu các vật dụng hoặc các công ten nơ chứa đựng
các chất nguy hiểm bị vỡ hay bị hư hại có thể dẫn đến nguy cơ đối với các công
việc bốc dỡ trên cảng biển, mà ở một chừng mực nào đó được coi là không cần thiết
đối với việc xóa bỏ những nguy cơ của công việc này, thì phải được ngừng lại
trong phạm vi khu vực đang bị đe dọa, và những người lao động phải được di chuyển
đến những nơi an toàn cho đến khi nguy cơ này được xóa bỏ hoàn toàn.
4. Các biện pháp đầy đủ sẽ phải được áp dụng để
phòng ngừa cho những người lao động khi họ tiếp xúc với các chất hay các tác
nhân độc hoặc có hại, hoặc với môi trường khí quyển thiếu ôxy hoặc có khả năng
dễ gây cháy nổ.
5. Khi những người lao động được yêu cầu lao động
trong những không gian bị hạn chế mà trong đó có thể có các chất gây độc hoặc
có hại, hoặc trong đó có thể thiếu lượng ô xy cần thiết, thì phải áp dụng các
biện pháp đầy đủ để phòng ngừa các tai nạn và các nguy cơ ảnh hưởng tới sức khỏe.
Điều
33
Phải có sự cẩn trọng phù
hợp trong việc bảo vệ những người lao động trước các tác động nguy hiểm của tiếng
ồn quá mức tại các địa điểm làm việc.
Điều
34
1. Khi các biện pháp khác
không thể bảo đảm sự bảo vệ đầy đủ chống các nguy cơ tai nạn hay ảnh hưởng tới
sức khỏe, người lao động phải được trang bị hoặc phải yêu cầu được trang bị các
dụng cụ bảo hộ cá nhân và các quần áo bảo hộ một cách hợp lí nhằm đảm bảo việc
thực hiện các công việc của họ trong sự an toàn.
2. Những người lao động phải được yêu cầu việc
quan tâm đến các trang bị bảo hộ cá nhân và quần áo bảo hộ này.
3. Các trang bị bảo hộ cá nhân và các quần áo bảo
hộ phải được người sử dụng lao động bảo quản một cách thích hợp.
Điều
35
Trong trường hợp có tai nạn,
các phương tiện đầy đủ, bao gồm các nhân viên có chuyên môn, phải được đảm bảo
luôn sẵn sàng để thực hiện việc cứu hộ mọi đối tượng đang gặp nguy hiểm, trong
đó có hoạt động sơ cứu và sơ tán những người bị thương trong mọi trường hợp được
coi là hợp lí và có thể thực hiện được trong thực tế mà không làm trầm trọng
thêm tình trạng của họ.
Điều
36
1. Mọi Nước thành viên phải
xác định, thông qua các luật pháp và quy định quốc gia hoặc mọi biện pháp khác
phù hợp với thực tiễn và điều kiện quốc gia, và sau khi tham khảo ý kiến của
các tổ chức của người sử dụng lao động và người lao động có liên quan:
a) những nguy cơ nghề nghiệp vốn có mà cần có một
đợt kiểm tra y tế trước ban đầu hoặc một đợt kiểm tra y tế định kỳ, hoặc cả
hai;
b) khoảng thời gian tối đa giữa các đợt kiểm tra
y tế định kỳ, trong đó có tính đến bản chất và mức độ của các nguy cơ có thể diễn
ra và của các trường hợp đặc biệt;
c) các phân loại cho các đợt kiểm tra đặc biệt
được coi là cần thiết, trong trường hợp những người lao động tiếp xúc với các rủi
ro nghề nghiệp đặc biệt liên quan đến sức khỏe;
d) các biện pháp thích hợp để đảm bảo cung cấp
các dịch vụ y tế nghề nghiệp cho những người lao động.
2. Mọi chi phí cho tất cả các đợt kiểm tra y tế
và kiểm tra đặc biệt được thực hiện căn cứ vào Đoạn 1 phải là khoản miễn phí
cho những người lao động.
3. Những chứng nhận về kiểm tra y tế và kiểm tra
đặc biệt phải được bảo mật.
Điều
37
1. Các Ban an toàn và vệ
sinh bao gồm những đại diện của người sử dụng lao động và người lao động sẽ phải
được thành lập tại tất cả các cảng biển có số lượng lớn người lao động ở đó. Nếu
cần các Ban an toàn và vệ sinh như vậy cũng sẽ phải được thành lập tại các cảng
biển khác.
2. Việc đặt ra, thành phần và các chức năng của
những Ban này, sẽ phải được xác định bằng con đường luật pháp quốc gia hoặc bằng
bất kỳ con đường nào khác thích hợp với thực tiễn và với các điều kiện quốc
gia, sau khi tham khảo ý kiến của các tổ chức người sử dụng lao động và người
lao động có liên quan và với các điều kiện của địa phương.
Điều
38
1. Không một người lao động
nào phải bị thuê mướn để làm các công việc bốc dỡ tại cảng biển mà không nhận
được một sự hướng dẫn hay đào tạo đầy đủ nào về các nguy cơ tiềm tàng gắn liền
với công việc của người đó và về sự cẩn trọng cần có trước các nguy cơ này.
2. Chỉ những người ở tuổi ít nhất là 18, có kỹ
năng và kinh nghiệm đầy đủ hoặc được đào tạo và được giám sát trong công việc mới
được tham gia vào việc điều khiển các thiết bị nâng và các thiết bị bốc dỡ
khác.
Điều
39
Để tham gia vào việc
phòng ngừa các tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, các biện pháp thích hợp phải
được áp dụng để đảm bảo các tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp này được thông
báo tới cơ quan có thẩm quyền và nếu cần thiết, phải được coi là mục tiêu của một
cuộc điều tra.
Điều
40
Theo luật pháp hoặc thực
tiễn quốc gia, số lượng các thiết bị vệ sinh và cung cấp nước sạch vừa đủ và
thích hợp phải được cung cấp và duy trì một cách hợp lý tại mỗi cảng biển,
trong trường hợp việc làm này được coi là có thể thực hiện được, trong đó có
tính đến khoảng cách hợp lý giữa các nơi làm việc.
PHẦN
IV. VIỆC ÁP DỤNG
Điều 41
Nước thành viên phê chuẩn Công ước này phải:
a) cụ thể hóa các nghĩa vụ về an toàn và vệ sinh
lao động của các cá nhân và các tổ chức liên quan tới công việc bốc xếp tại cảng
biển;
b) có các biện pháp cần thiết, bao gồm các chế tài
phạt thích hợp để đảm bảo việc áp dụng các điều khoản của Công ước này;
c) giao nhiệm vụ giám sát cho các cơ quan thanh
tra việc áp dụng các biện pháp cần thực hiện theo các điều khoản của Công ước
này hoặc phải đảm bảo rằng đã có sự thanh tra thỏa đáng được thực hiện;
Điều
42
1. Luật pháp hoặc quy định
quốc gia phải quy định những thời hạn nhất định, trong đó các điều khoản của
Công ước này phải được áp dụng, cụ thể đối với:
a) kết cấu và trang thiết bị của tàu biển;
b) kết cấu hay việc trang bị bất kỳ thiết bị
nâng nào được đặt ở trên cảng biển hoặc bất kỳ thiết bị bốc xếp;
c) kết cấu của bất kỳ thiết bị phụ bốc xếp nào.
2. Các thời hạn được quy định theo Đoạn 1 Điều
này không được vượt quá 4 năm kể từ ngày phê chuẩn Công ước này.
Điều
43
Công ước này sửa đổi nội
dung Công ước về việc Bảo vệ (người lao động trên cảng biển) trước các tai nạn,
1929, và Công ước về việc Bảo vệ (người lao động trên cảng biển) trước các tai
nạn (đã sửa đổi), 1932.