CÔNG ƯỚC SỐ 184
VỀ
AN TOÀN VỆ SINH LAO ĐỘNG TRONG NÔNG NGHIỆP
Hội nghị toàn thể của Tổ chức Lao
động quốc tế,
Được Hội đồng quản trị của Văn
phòng Lao động quốc tế triệu tập tại Giơ-ne-vơ ngày 5 tháng 6 năm 2001, trong
kỳ họp thứ 89;
Ghi nhận các Công ước và Khuyến
nghị lao động quốc tế có liên quan, đặc biệt là Công ước và Khuyến nghị về cây
trồng 1981; Trợ cấp thương tật lao động -1964; Thanh tra lao động (nông
nghiệp)- 1969, Sức khỏe và an toàn nghề nghiệp-1981; Dịch vụ y tế lao động; Hoá
chất,1990.
Phù hợp với tuyên bố 3 bên về
các nguyên tắc liên quan đến các công ty đa quốc gia và chính sách xă hội, cũng
như các quy phạm thực hành có liên quan, đặc biệt là Quy phạm thực hành về ghi
chép và khai báo tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, 1996; Quy phạm thực hành
về an toàn và sức khoẻ trong các công việc lâm nghiệp,1998;
Sau khi quyết định chấp thuận
một số đề nghị liên quan tới An toàn và Sức khoẻ trong nông nghiệp, là vấn đề
thuộc điểm thứ 4 trong chương trình nghị sự của kỳ họp;
Sau khi quyết định rằng những đề
nghị đó sẽ mang hình thức một Công ước quốc tế;
Thông qua ngày 21 tháng 6 năm
2001, Công ước dưới đây, gọi là Công ước về An toàn và Sức khoẻ trong nông
nghiệp, 2001.
I. PHẠM VI
Điều 1. Theo mục đích của
Công ước này, khái niệm “ nông nghiệp” là:
- Những hoạt động nông, lâm
nghiệp tiến hành tại các cơ sở nông nghiệp, bao gồm trồng hoa màu, trồng rừng,
chăn nuôi động vật và côn trùng, sơ chế nông sản do cơ sở hoặc nhân danh cơ sở
thực hiện;
- Việc sử dụng và bảo dưỡng máy,
thiết bị, công cụ, dụng cụ và các nhà xưởng nông nghiệp, kể cả quy tŕnh, kho
tàng, phương tiện điều hành hoặc vận chuyển trong cơ sở nông nghiệp nào có liên
quan trực tiếp tới sản xuất nông nghiệp.
Điều 2. Theo mục đích của
Công ước này, khái niệm "nông nghiệp" không tính đến:
Việc trồng trọt để ăn (không
bán);
Chế biến công nghiệp có sử dụng
những sản phẩm nông nghiệp làm nguyên liệu thô và các dịch vụ có liên quan;
Công nghiệp khai thác rừng.
Điều 3. Cơ quan có thẩm
quyền của nước thành viên ký Công ước, sau khi tham khảo ý kiến những tổ chức
đại diện cho người sử dụng lao động và người lao động có liên quan:
Có thể miễn trừ việc áp dụng
toàn bộ hay một số điều khoản của Công ước này đối với một số cơ sở sản xuất
nông nghiệp hoặc loại lao động, khi việc áp dụng đó sẽ có thể phát sinh những
rắc rối đặc biệt.
Trong trường hợp trên, phải lập
kế hoạch để Công ước có thể áp dụng đối với tất cả các cơ sở sản xuất và tất cả
các loại lao động;
Trong báo cáo đầu tiên về việc
áp dụng Công ước này (theo hướng dẫn tại Điều 22 Điều lệ của Tổ chức Lao động
quốc tế), mỗi thành viên khi liệt kê mọi trường hợp miễn trừ như đă nêu ở đoạn
1(a) của Điều này, cần giải thích sự miễn trừ đó. Trong những báo cáo sau, phải
mô tả những biện pháp thực hiện với quan điểm mở rộng dần những điều khoản của
Công ước tới tất cả những người lao động có liên quan.
II. NHỮNG ĐIỀU KHOẢN CHUNG
Điều 4. Theo điều kiện và
thực tế của quốc gia, sau khi tham khảo ư kiến của các tổ chức đại diện của
người lao động, người sử dụng lao động, các nước thành viên sẽ phải lập và tiến
hành rà soát định kỳ những chính sách quốc gia về an toàn vệ sinh lao động
trong nông nghiệp. Mục tiêu của chính sách này là ngăn chặn các tai nạn và tổn
thương cho sức khoẻ phát sinh, liên quan hoặc xảy ra trong quá tŕnh lao động
thông qua việc loại trừ, giảm thiểu hoặc kiểm soát các nguy cơ có trong môi
trường lao động nông nghiệp.
Điều quan trọng là luật pháp và
các tiêu chuẩn quốc gia cần:
Cử ra một cơ quan thẩm quyền
chịu trách nhiệm thực hiện chính sách, cưỡng chế luật pháp và các quy định quốc
gia về an toàn - vệ sinh lao động trong nông nghiệp;
Xác lập quyền và nghĩa vụ của
người sử dụng lao động và người lao động về an toàn và sức khoẻ trong nông
nghiệp;
Cần phải xem xét đến thực tế và
điều kiện cụ thể của quốc gia khi thiết lập những cơ chế điều phối liên khu
giữa các cơ quan có thẩm quyền đối với khu vực nông nghiệp và khi xác định chức
năng và trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền.
Cơ quan có thẩm quyền được cử ra
phải đưa ra những biện pháp đúng và những hình phạt thích hợp, phù hợp với luật
pháp và các quy định quốc gia,
ở những nơi cần thiết, bao gồm cả ngăn chặn hoặc hạn chế những hoạt động nông nghiệp
có thể dẫn đến rủi ro về an toàn - vệ sinh lao động cho người lao động, cho đến
khi những điều kiện dẫn đến việc ngăn chặn hoặc hạn chế đó được sửa đổi.
Điều 5. Các Nước thành
viên phải đảm bảo một hệ thống thanh tra thích hợp và tương xứng về nơi làm
việc trong nông nghiệp được thiết lập và trang cấp những phương tiện tương
xứng.
Tuân thủ luật pháp quốc gia, để
có căn cứ hỗ trợ công tác thanh tra, cơ quan có thẩm quyền có thể giao phó chức
năng thanh tra khu vực hoặc địa phương cho các cơ quan dịch vụ của chính quyền,
các học viện công hoặc tư dưới sự kiểm soát của chính phủ; hoặc có thể liên kết
với các dịch vụ đó để thực hiện chức năng này
III. BIỆN PHÁP PHÒNG CHỐNG
Tổng quan
Điều 6. Phù hợp với luật
pháp và các quy định quốc gia, người sử dụng lao động có nghĩa vụ đảm bảo an
toàn và sức khoẻ đối với người lao động ở tất cả mọi khía cạnh liên quan đến
công việc.
Luật và các quy định của quốc
gia hoặc cơ quan có thẩm quyền phải quy định khi tại nơi sản xuất nông nghiệp
mà có hai hoặc nhiều người sử dụng lao động thực hiện các hoạt động, hoặc bất
cứ khi nào có từ một người sử dụng lao động trở lên và có một hoặc nhiều người
lao động tự quản thực hiện hoạt động của mình, thì phải hợp tác trong việc áp
dụng những yêu cầu về an toàn vệ sinh - lao động trong nông nghiệp. Tại những
nơi cần thiết, cơ quan có thẩm quyền phải quy định những thủ tục chung cho sự
hợp tác.
Điều 7. Để phù hợp với
chính sách quốc gia đề cập trong Điều 4 của Công ước, luật pháp và những quy
định quốc gia hoặc cơ quan có thẩm quyền, sau khi có sự cân nhắc quy mô và bản
chất hoạt động của cơ sở, phải yêu cầu người sử dụng lao động:
Tiến hành đánh giá những rủi ro
liên quan đến an toàn và sức khoẻ của người lao động. Trên cơ sở đó, đưa ra
những biện pháp phòng, chống để đảm bảo rằng trong mọi điều kiện tại nơi sản
xuất của mình, mọi hoạt động nông nghiệp, mọi nơi làm việc, máy, thiết bị, hoá
chất, các dụng cụ và quy trình dưới sự kiểm soát của người sử dụng lao động là
an toàn và tuân thủ những tiêu chuẩn bắt buộc về an toàn và vệ sinh.
Đảm bảo huấn luyện đầy đủ, phù
hợp; cung cấp đủ tài liệu hướng dẫn về an toàn - vệ sinh lao động cũng như chỉ
dẫn hoặc tư vấn cần thiết cho người lao động trong nông nghiệp, bao gồm những
thông tin về nguy cơ, rủi ro liên quan đến công việc và những hành động phải
thực hiện để bảo vệ người lao động. Phải chú ý đến trình độ học vấn.
Thực hiện những bước khẩn cấp để
dừng ngay tức thì mọi hoạt động tiềm ẩn các hiểm hoạ nghiêm trọng, sắp xảy ra
ảnh hưởng tới an toàn, sức khoẻ và để sơ tán người lao động đến nơi thích hợp.
Điều 8. Người lao động
trong nông nghiệp có quyền:
Được thông báo và được hỏi ý
kiến về những vấn đề an toàn - vệ sinh lao động, kể cả những rủi ro nẩy sinh từ
công nghệ mới.
Tham gia trong việc áp dụng,
đánh giá các biện pháp an toàn và sức khoẻ, lựa chọn những đại diện về an toàn
và sức khoẻ và những đại diện trong Uỷ ban an toàn và sức khoẻ, phù hợp với
luật pháp và thực tế của quốc gia,
Có quyền rời bỏ nơi làm việc khi
có lý do chính đáng để tin rằng tại đó sắp có nguy hiểm, đe doạ nghiêm trọng
tới an toàn và sức khoẻ của mình nhưng phải thông báo cho người lănh đạo trực
tiếp của ḿnh ngay lập tức. mà không bị khó khăn và rắc rối.
Người lao động trong nông nghiệp
và đại diện của họ có nghĩa vụ tuân thủ những biện pháp an toàn và sức khoẻ
theo yêu cầu và hợp tác với người sử dụng lao động để những người sử dụng lao
động có thể hoàn thành được nhiệm vụ và trách nhiệm của họ.
Quy trình, thủ tục cho việc thực
hiện quyền và nghĩa vụ phản ánh trong đoạn 1, 2 sẽ được xác lập bằng luật pháp
và các quy định quốc gia, bởi các cơ quan có thẩm quyền, trong thoả ước tập thể
và các cách thích hợp khác.
An toàn máy và ec-go-nô-mi
Điều 9. Luật pháp và các
quy định của quốc gia hoặc cơ quan có thẩm quyền phải quy định máy, thiết bị
bao gồm cả phương tiện bảo vệ cá nhân, thiết bị và dụng cụ cầm tay được sử dụng
trong nông nghiệp, tuân thủ các tiêu chuẩn quốc gia hoặc các tiêu chuẩn an toàn
vệ sinh lao động được công nhận; và phải được lắp đặt, bảo dưỡng, có che chắn
thích hợp.
Cơ quan có thẩm quyền phải thực
hiện những biện pháp để đảm bảo rằng các nhà sản xuất, người nhập khẩu, người
cung cấp, tuân thủ những tiêu chuẩn phản ánh ở đoạn 1 và cung cấp những thông
tin tương xứng thích hợp, bao gồm những ký hiệu cảnh báo nguy hiểm, theo ngôn
ngữ chính thức hoặc ngôn ngữ của quốc gia sử dụng tới người sử dụng; và theo
yêu cầu tới cơ quan có thẩm quyền.
Người sử dụng phải đảm bảo người
lao động tiếp nhận và hiểu được thông tin an toàn và sức khoẻ do người sản
xuất, người nhập khẩu và người bán hàng cung cấp.
Điều 10. Luật pháp và các
quy định quốc gia cần quy định máy, và các thiết bị nông nghiệp:
Được sử dụng theo đúng mục đích
thiết kế, trừ khi việc sử dụng ngoài mục đích thiết kế ban đầu đă được đánh giá
là an toàn, phù hợp với thực tế và luật pháp quốc gia. Đặc biệt, không được sử
dụng cho việc chuyên chở người, trừ khi được thiết kế và điều chỉnh để có thể
chuyên chở người.
Được điều khiển bởi những người
có thẩm quyền và đă được huấn luyện, phù hợp với thực tế và luật pháp quốc gia
Sắp xếp và vận chuyển
Điều 11. Cơ quan có thẩm
quyền, sau khi tham khảo ý kiến đại diện tổ chức của người lao động và người sử
dụng lao động có liên quan, cần phải thiết lập những yêu cầu về an toàn - vệ
sinh lao động trong việc sắp xếp và vận chuyển nông sản, đặc biệt là việc mang
vác thủ công. Những yêu cầu như vậy phải dựa trên những đánh giá rủi ro, những
tiêu chuẩn về kỹ thuật và quan điểm y học, cần xem xét tất cả những điều kiện
liên quan mà theo đó công việc được thực hiện phù hợp với luật pháp và thực tế.
Người lao động sẽ không bị yêu
cầu hoặc được phép tham gia việc mang vác thủ công hoặc vận chuyển vật nặng khi
mà trọng lượng hoặc tính chất của vật nặng có thể làm hại đến an toàn và sức
khoẻ của người lao động.
Quản lý toàn diện hoá chất
Điều 12. Cơ quan có thẩm
quyền cần thực hiện những biện pháp, phù hợp với thực tế và luật pháp quốc gia,
để đảm bảo:
Có một hệ thống luật pháp thích
hợp, hoặc một hệ thống khác do cơ quan có thẩm quyền thiết lập những tiêu chuẩn
đặc biệt tiêu thông qua chuẩn đặc biệt cho việc nhập khẩu, phân loại, đóng gói,
dán nhăn, cấm hoặc hạn chế sử dụng các loại hoá chất sử dụng trong nông nghiệp.
Người sản xuất, nhập khẩu, cung
cấp, bán, vận chuyển, lưu trữ hoặc xử lý hoá chất sử dụng trong nông nghiệp
tuân thủ với các tiêu chuẩn quốc gia hoặc tiêu chuẩn về an toàn - vệ sinh lao
động được công nhận và cung cấp những thông tin thích hợp, tương xứng tới người
sử dụng bằng ngôn ngữ chính thức thích hợp hoặc ngôn ngữ của quốc gia và theo
yêu cầu tới cơ quan có thẩm quyền.
Có một hệ thống thích hợp cho
việc thu gom, tái chế và huỷ bỏ chất thải hoá chất, những hoá chất hết hạn sử
dụng và những thùng chứa hoá chất rỗng để tránh việc sử dụng chúng cho những
mục đích khác và loại trừ hoặc làm hạn chế những nguy cơ đối với an toàn, sức
khoẻ và đối với môi trường.
Điều 13. Luật pháp và các
quy định quốc gia, hoặc cơ quan có thẩm quyền phải đảm bảo có những biện pháp
bảo vệ và ngăn chặn thích hợp cho việc sử dụng hoá chất và xử lư hoá chất thải
tại cấp cơ sở.
Những biện pháp phải bao trùm,
trong những điều khác:
Việc chuẩn bị, xử lý, áp dụng,
cất giữ và vận chuyển hoá chất.
Những hoạt động nông nghiệp dẫn
đến việc phân tán hoá chất.
Việc duy trì, sửa chữa và làm
sạch các thiết bị, bình chứa hoá chất.
Việc huỷ bỏ các thùng rỗng và xử
lý, huỷ bỏ chất thải hoá chất và các hoá chất hết hạn sử dụng.
Quản lý và bảo vệ vật nuôi chống
lại những rủi ro sinh học.
Điều 14. Luật pháp và các
quy định của quốc gia cần phải đảm bảo rằng những rủi ro như là nhiễm trùng, dị
ứng hoặc nhiễm độc ngăn chặn hoặc được giảm tới mức tối thiểu khi những tác nhân
sinh học được xử lý; những hoạt động liên quan đến động vật, vật nuôi và khu
nuôi ngựa, tuân thủ với luật pháp quốc gia và các tiêu chuẩn về an toàn vệ sinh
lao động khác đă được công nhận.
Hệ thống lắp đặt trong nông
nghiệp
Điều 15. Xây dựng, bảo
dưỡng và sửa chữa hệ thống lắp đặt trong nông nghiệp cần phải tuân thủ với luật
pháp và các quy định quốc gia và những yêu cầu về an toàn và sức khoẻ trong
nông nghiệp.
IV. NHỮNG ĐIỀU KHOẢN KHÁC
Lao động thanh niên và công
việc độc hại
Điều 16.
1. Tuổi tối thiểu không nên dưới
18 đối với các công việc trong nông nghiệp khi mà theo tính chất và hoàn cảnh
cụ thể để tiến hành công việc đó có thể ảnh hưởng tới an toàn và sức khoẻ của
người lao động.
2. Loại việc làm hoặc loại công
việc áp dụng theo đoạn 1 cần phải được luật pháp và các quy định quốc gia hoặc
do các cơ quan có thẩm quyền xác định, sau khi tham khảo ý kiến tổ chức đại
diện của người lao động và người sử dụng lao động có liên quan.
3. Mặc dù quy định tại đoạn 1,
luật pháp và các quy định quốc gia hoặc cơ quan có thẩm quyền, sau khi tham
khảo ý kiến với tổ chức đại diện của người lao động và người lao động có liên
quan, uỷ quyền thực hiện công việc phản ánh trong đoạn này là từ 16 tuổi với
điều kiện đă được huấn luyện, ưu tiên thoả đáng và an toàn và sức khoẻ của lao
động vị thành niên được bảo vệ đầy đủ.
Lao động thời vụ và lao động
tạm thời
Điều 17. Thực hiện những
biện pháp cần thiết đảm bảo người lao động tạm thời và lao động thời vụ cũng
được bảo vệ an toàn và sức khoẻ như những người lao động dài hạn.
Lao động nữ
Điều 18. Thực hiện những
biện pháp cần thiết để đảm bảo những nhu cầu cần thiết của nữ công nhân nông
nghiệp; cần lưu ý đến phụ nữ có thai, nuôi con nhỏ và việc bảo vệ chức năng
sinh sản.
Tiện nghi và Phúc lợi
Điều 19. Luật pháp và các
quy định quốc gia hoặc cơ quan có thẩm quyền, sau khi tham khảo ý kiến cơ quan
đại diện của người lao động và người sử dụng lao động phải quy định:
(a) Cung cấp tiện nghi và phúc
lợi cho người lao động miễn phí.
(b) Những tiêu chuẩn tối thiểu
về chỗ nghỉ cho người lao động mà do đặc điểm của công việc họ phải ở tạm thời
hoặc lâu dài tại cơ sở sản xuất.
Những quy định về thời giờ
làm việc.
Điều 20. Thời giờ làm
việc, làm đêm và thời giờ nghỉ ngơi cho người lao động trong nông nghiệp phải
phù hợp với luật pháp, các quy định quốc gia và các thoả ước tập thể.
Bảo hiểm tai nạn lao động và
bệnh nghề nghiệp
Điều 21.
1. Người lao động trong nông
nghiệp được bảo vệ bởi hệ thống bảo hiểm hoặc an ninh xă hội chống tai nạn lao
động và bệnh nghề nghiệp, các chấn thương và các loại rủi ro với sức khoẻ phù
hợp với luật pháp và điều kiện quốc gia, với điều kiện là mức độ bảo vệ phải
tương đương với người lao động trong các khu vực kinh tế khác.
2. Hệ thống bảo hiểm này có thể
là một phần của quỹ quốc gia hoặc hoặc dưới hình thức phù hợp với luật pháp
quốc gia.