BỘ
NÔNG TRƯỜNG
*****
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
*******
|
Số:
1190-NT/LT
|
Hà
Nội, ngày 17 tháng 05 năm 1962
|
CHỈ THỊ
VỀ VIỆC ĐẨY MẠNH THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ TRẢ LƯƠNG THEO SẢN PHẨM
TRONG NGÀNH NÔNG TRƯỜNG QUỐC DOANH NĂM 1962
Phân phối theo lao động là một quy
luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội. Nó quyết định việc phân phối sản phẩm phải
căn cứ trực tiếp vào số lượng và chất lượng lao động của mỗi một người sản xuất,
thúc đẩy việc tăng năng suất lao động và trên cơ sở đó thu nhập của công nhân
được nâng cao không ngừng.
Lương theo sản phẩm là một hình thức
phân phối theo lao động, là một yếu tố thúc đẩy phát triển sản xuất, là hình thức
trả lương hợp lý nhất, tiến bộ nhất hiện nay. Ngành nông trường quốc doanh mới
bước đầu áp dụng chế độ trả lương theo sản phẩm.
I.
TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ LƯƠNG THEO SẢN PHẨM VỪA QUA
Trong năm 1961, một số nông trường
đã thực hiện chế độ trả lương theo sản phẩm. Sơ kết trong 18 nông trường quốc
doanh thực hiện thì đã có 7.956 công nhân hưởng lương theo sản phẩm đạt tỷ lệ
36% về nhân số trong các đơn vị trên và 13,95% trong toàn ngành nông trường quốc
doanh, trong đó có 6 nông trường đạt tỷ lệ cao từ 50% trở lên như Đông Hiếu,
Yên Mỹ, Tây hiếu, Sông Con, Phúc Do, Tam Đảo.
Việc thực hiện chế độ trả lương
theo sản phẩm của nông trường mới chỉ là bước đầu, phần lớn đang còn trong thời
kỳ thí điểm. Một số nông trường tuy thực hiện tương đối tốt, nhưng còn nhiều
thiếu sót, nhất là việc tập trung lãnh đạo và chỉ đạo chưa đúng mức, giáo dục mục
đích ý nghĩa chưa kỹ lưỡng, định mức chưa chính xác, quy cách kỹ thuật chưa đảm
bảo, chưa kết hợp chặt chẽ việc giáo dục chính trị, tư tưởng với khuyến khích vật
chất cho nên một số công nhân còn chạy theo tiền lương làm ẩu, làm dối, không bảo
đảm phẩm chất, ảnh hưởng đến việc tăng năng suất lao động và hạ giá thành.
Tuy nhiên, với kết quả bước đầu của
18 đơn vị đã sơ kết nổi lên những ưu điểm của chế độ trả lương theo sản phẩm.
Chế độ trả lương theo sản phẩm khuyến khích người công nhân vì lợi ích vật chất
mà nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Nó khuyến khích công
nhân hăng hái thi đua tăng năng suất lao động bằng cách hợp lý hóa sản xuất, cải
tiến kỹ thuật sử dụng tốt các thiết bị máy móc. Kết quả là năng suất lao động của
nông trường tăng, sản xuất phát triển, vừa tăng tích lũy cho Nhà nước, vừa tăng
thu nhập cho công nhân. Ý thức làm chủ nông trường, ý thức lao động, kỷ luật
lao động được nâng cao hơn trước, bớt tình trạng đi muộn về sớm; gữa các bộ phận
trong dây chuyền sản xuất có sự đấu tranh với nhau đòi hỏi phải sản xuất tốt.
Trong 18 nông trường đã sơ kết thì năng suất lao động tăng từ 20 đến 30%, ngày
công lao động tăng lên, tỷ lệ đau ốm rút từ 6% xuống 3%, thu nhập công nhân
tăng bình quân 9,18%.
Để tích cực chấp hành Nghị định số
183-TTg ngày 07 tháng 04 năm 1958 của Thủ tướng Chính phủ, Nghị quyết của Hội đồng
Chính phủ về tăng lương và cải tiến chế độ tiền lương tháng 4 năm 1960 và Chỉ
thị số 83 của Thủ tướng Chính phủ ngày 06/03/1961; để góp phần quan trọng vào
việc nâng cao năng suất lao động, phấn đấu hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế
hoạch Nhà nước giao cho Bộ Nông trường, góp phần nâng cao đời sống cho công
nhân, cán bộ thêm một bước, Bộ chỉ thị cho tất cả các nông trường quốc doanh,
các đơn vị thuộc Bộ, đẩy mạnh thực hiện chế độ trả lương theo sản phẩm trong
năm 1962.
II.
ĐỂ CHẤP HÀNH TỐT CHỈ THỊ TRẢ LƯƠNG THEO SẢN PHẨM CÁC CẤP CẦN QUÁN TRIỆT MỤC
ĐÍCH Ý NGHĨA SAU ĐÂY
Nông trường quốc doanh là xí nghiệp
xã hội chủ nghĩa, sản xuất kinh doanh theo kế hoạch Nhà nước, thi hành chế độ hạch
toán kinh tế, cho nên chế độ tiền lương đều thực hiện theo nguyên tắc phân phối
theo lao động. Việc thi hành chế độ trả lương theo sản phẩm là hình thức trả
lương hợp lý nhất, tiến bộ nhất hiện nay.
1. Thực hiện chế độ trả lương theo
sản phẩm ở nông trường có tác dụng lớn trong việc đẩy mạnh sản xuất, nâng cao năng
suất lao động, hạ giá thành, đảm bảo chất lượng sản phẩm, làm cho sản phẩm của
nông trường ngày càng dồi dào hơn, góp phần vào việc phấn đấu hoàn thành vượt mức
kế hoạch Nhà nước giao cho ngành nông trường quốc doanh năm 1962.
2. Thực hiện chế độ trả lương theo
sản phẩm ở nông trường có tác dụng thúc đẩy việc cải tiến tổ chức và quản lý sản
xuất, cải tiến tác phong công tác của cán bộ công nhân, nâng cao thêm một bước
tinh thần làm chủ tập thể của công nhân, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước
và xã hội chủ nghĩa ngày càng phát triển sâu rộng.
3. Thực hiện chế độ trả lương theo
sản phẩm ở nông trường đảm bảo tăng tích lũy cho Nhà nước, tăng thu nhập cho
công nhân “Nhà nước và công nhân cùng có lợi” do đó mà khuyến khích người công
nhân phấn khởi hăng hái phát huy sáng kiến, hợp lý hóa sản xuất, cải tiến kỹ
thuật sử dụng tốt các thiết bị máy móc, làm cho năng suất lao động ngày càng
cao hơn, đời sống công nhân được cải thiện hơn.
III. PHƯƠNG HƯỚNG
VÀ NHIỆM VỤ CỤ THỂ NHẰM ĐẨY MẠNH VIỆC THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ TRẢ LƯƠNG THEO SẢN PHẨM
Nhiệm vụ của ngành nông trường quốc
doanh trong năm 1962 và 5 năm rất to lớn và nặng nề. Để góp phần hoàn thành thắng
lợi nhiệm vụ to lớn trên, phương hướng tích cực trong việc thực hiện chế độ trả
lương theo sản phẩm trong ngành của chúng ta là: “Ra sức phấn đấu thực hiện chế
độ trả lương theo sản phẩm nhằm nâng cao hơn nữa năng suất lao động, phát triển
sản xuất hạ giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng tích lũy cho Nhà nước
và cải thiện đời sống cho công nhân”.
Trong năm 1962, tất cả các nông trường
quốc doanh đều phải thực hiện chế độ trả lương theo sản phẩm. Tùy theo đặc điểm
từng nông trường, dùng mọi hình thức để trả lương theo sản phẩm, cho thích hợp,
chú trọng thực hiện lương sản phẩm trong những việc chính của nông trường. Một
số loại việc chưa xác định được mức thì tạm thời trả lương theo ngày có định mức.
Những nông trường đã tổng kết thí
điểm lương sản phẩm thì trong tháng 5 năm 1962 phải mở rộng diện trả lương theo
sản phẩm trong nông trường.
Những nông trường đang thí điểm
lương sản phẩm, thì phải tổng kết trong quý II năm 1962 và mở rộng diện trong 6
tháng cuối năm 1962.
Để đạt yêu cầu mở rộng việc thực hiện
chế độ trả lương theo sản phẩm trong năm 1962, cần nắm vững mấy nguyên tắc dưới
đây:
1. Nắm vững nguyên tắc phân phối
theo lao động
2. Đảm bảo tác dụng khuyến khích
công nhân thi đua tăng năng suất lao động, phát triển sản xuất, tăng tích lũy
cho Nhà nước, tăng thu nhập cho công nhân. Tốc độ tăng năng suất lao động phải
cao hơn tốc độ tăng của mức lương bình quân. Đó là điều kiện vững chắc để đảm bảo
tăng tiền lương một cách lâu dài và liên tục.
3. Đảm bảo thực hiện nhanh gọn và vững
chắc.
IV. NHỮNG ĐIỀU
KIỆN CƠ BẢN CẦN CHUẨN BỊ KHI THỰC HIỆN MỞ RỘNG CHẾ ĐỘ TRẢ LƯƠNG THEO SẢN PHẨM
Muốn thực hiện tốt chế độ trả lương
theo sản phẩm cần có mấy điều kiện cơ bản dưới đây:
1. Sản xuất ổn định (ổn định đất
đai, ổn định súc vật, ổn định dụng cụ, ổn định lao động).
Phải có kế hoạch sản xuất tương đối
chính xác từ tổ trở lên. Các khâu trong dây chuyền sản xuất hoạt động nhịp
nhàng cân đối. Chấn chỉnh công tác thống kê, nghiệm thu.
2. Các chỉ tiêu kinh tế, kỹ thuật
được xác định. Những loại sản xuất: khai hoang, trồng mới, chăn nuôi, chế biến,
công trình v.v…. đều quy định được mức năng suất, tiêu chuẩn thời gian, đơn giá
sản phẩm và theo dõi kiểm tra được kết quả thực hiện.
Định mức là một vấn đề quan trọng
có ảnh hưởng đến việc nâng cao năng suất, hạ giá thành, việc tổ chức, phân phối
lao động, phân phối tiền lương. Định mức có thể định mức thời gian bằng công, bằng
khối lượng công việc, định mức theo sản lượng, v.v… Định mức phải là mức trung
bình tiên tiến. Việc định mức thay đổi mức và xét duyệt mức do Giám đốc nông
trường quyết định sau khi Hội đồng định mức nghiên cứu kỹ lưỡng và thống nhất ý
kiến.
V. NHỮNG VẤN ĐỀ
LÃNH ĐẠO CẦN CHÚ Ý KHI THỰC HIỆN
Thực hiện lương sản phẩm không phải
là một việc giản đơn hoặc chuyên môn thuần túy, nó đòi hỏi cán bộ quản lý nông
trường, phải đi sâu nghiên cứu đề ra những quy định cụ thể theo đúng tinh thần
những chỉ thị, nghị định, thông tư của Đảng và Nhà nước đã đề ra về chế độ
lương sản phẩm.
Trong lãnh đạo cần tránh khuynh hướng
cầu toàn, ngại khó hoặc đơn giản, chờ có mọi điều kiện đầy đủ rồi mới thực hiện
lương sản phẩm sẽ nảy ra nhiều vấn đề mới cần giải quyết: tốc độ phát triển
không đồng đều giữa các bộ phận, một số định mức đã được Hội đồng định mức xác
định sẽ trở nên lạc hậu do công nhân có sáng kiến hợp lý hóa sản xuất, cải tiến
kỹ thuật. Biện pháp tốt nhất để giải quyết các vấn đề nói trên là kết hợp lãnh
đạo với quần chúng, kết hợp giáo dục chính trị với cải tiến quản lý, kết hợp lợi
ích chung của nông trường và lợi ích riêng của công nhân. Cần tránh những biện
pháp hành chính có tính chất mệnh lệnh, nhất là trong những trường hợp cần điều
chỉnh chỉ tiêu, đơn giá v.v…
Trong công nhân phải chú trọng công
tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng, chống khuynh hướng chạy theo tiền
lương, làm ẩu làm bừa không bảo đảm phẩm chất, chỉ thấy lợi ích riêng mà coi nhẹ
lợi ích tập thể, làm giảm sút tinh thần hợp tác trong tổ, đội sản xuất.
Cần nắm vững những điều kiện cơ bản
để thực hiện tốt lương sản phẩm: sản xuất ổn định, kế hoạch chính xác, các khâu
trong dây chuyền hoạt động nhịp nhàng và cân đối, các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật
và định mức kỹ thuật được xác định. Định mức không đúng sẽ dẫn đến tình trạng
trụt lương của công nhân hoặc quỹ lương không đủ trả cho công nhân vì tốc độ
tăng lương cao hơn tốc độ tăng năng suất lao động.
Mỗi nông trường cần chọn một đội hoặc
một tổ chỉ đạo riêng rút kinh nghiệm phổ biến trong nông trường. Phòng tổ chức
lao động tiền lương phải có cán bộ đi sát đội, tổ, mặt khác phải đặt thành chế
độ báo cáo thỉnh thị, tránh tình trạng buông lỏng chỉ đạo.
Thực hiện chế độ trả lương theo sản
phẩm là một nhiệm vụ nặng nề của các cấp trong nông trường. Bộ chỉ thị các nông
trường, các đơn vị trực thuộc Bộ, nghiên cứu để quán triệt đầy đủ, có kế hoạch
tổ chức thực hiện chu đáo. Nội dung, kế hoạch có thông tư hướng dẫn cụ thể.
|
KT.
BỘ TRƯỞNG BỘ NÔNG TRƯỜNG
THỨ TRƯỞNG
Đặng Kim Giang
|