BỘ
CÔNG NHIỆP NHẸ
*******
Số
: 267-BCNNh-QĐ
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
*******
Hà
Nội, ngày 28 tháng 09 năm 1964
|
QUYẾT ĐỊNH
BAN HÀNH CHẾ ĐỘ TẠM THỜI VỀ HẠCH TOÁN KINH TẾ PHÂN XƯỞNG VÀ
TỔ SẢN XUẤT
BỘ TRƯỞNG BỘ CÔNG NGHIỆP NHẸ
Căn cứ Nghị định số 182-CP
ngày 02-11-1961 của Hội đồng Chính phủ quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức
bộ máy của Bộ Công nghiệp nhẹ;
Căn cứ Quyết định số 130-TTg ngày 04-04-1957 của Thủ tướng Chính phủ, về việc
thi hành từng bước chế độ hạch toán kinh tế trong các xí nghiệp quốc doanh;
Xét đề nghị của ông Vụ trưởng Vụ Kế toán tài vụ,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. - Để không ngừng nâng
cao trình độ hạch toán kinh tế trong các xí nghiệp công nghiệp nhẹ, nay ban
hành chế độ tạm thời về hạch toán kinh tế phân xưởng và tổ sản xuất kèm theo
quyết định này.
Điều 2. – Những quy định cũ trái
với chế độ này đều bãi bỏ.
Điều 3. - Chế độ tạm thời này
thi hành kể từ ngày ký.
Điều 4. – Các ông Cục trưởng các
Cục Quản lý và các ông Vụ trưởng Vụ Kế hoạch, Vụ Tổ chức lao động, Vụ Kế toán
tài vụ chịu trách nhiệm đôn đốc, kiểm tra và giúp đỡ các xí nghiệp thi hành tốt.
Riêng các ông
Vụ trưởng Vụ Kế toán tài vụ và Vụ Kế hoạch còn có trách nhiệm hướng dẫn, giải
thích và quy định chi tiết để thi hành.
|
BỘ
TRƯỞNG BỘ CÔNG NGHIỆP
Kha Vạn Cân
|
CHẾ ĐỘ TẠM THỜI
Chương 1:
Điều 1. - Hạch toán kinh tế
phân xưởng và tổ sản xuất (gọi tắt là hạch toán kinh tế nội bộ xí nghiệp) là vận
dụng những nguyên tắc của chế độ hạch toán kinh tế vào trong việc quản lý sản
xuất của phân xưởng, kíp, tổ sản xuất nhằm dân chủ hóa quản lý, cải tiến chế độ
quản lý theo nguyên tắc quản lý xí nghiệp xã hội chủ nghĩa.
Điều 2. – Vì chức năng quản
lý kinh tế của phân xưởng và tổ sản xuất khác với của xí nghiệp nên tổ chức hạch
toán và chi tiêu hạch toán không thể giống như của xí nghiệp, nhưng phải quán
triệt nhiệm vụ chung, bảo đảm hoàn thành tốt kế hoạch chung, bảo đảm sự lãnh đạo
thống nhất của xí nghiệp.
Điều 3. - Hạch toán kinh tế
phân xưởng và tổ chức sản xuất nhằm phục vụ yêu cầu công tác quản lý của phân
xưởng và tổ sản xuất là chủ yếu, không phải chỉ đơn thuần nhằm cung cấp số liệu
cho các phòng nghiệp vụ. Tuy nhiên, nếu tổ chức tốt, các bộ môn hạch toán nghiệp
vụ vẫn có thể sử dụng tốt những số liệu của các phân xưởng và tổ sản xuất trong
công tác của bộ môn mình.
Chương 2:
Điều 4. - Một phân xưởng hạch
toán kinh tế phải có đầy đủ những điều kiện sau:
a) Phải có
các kế hoạch sản xuất, lao động tiền lương, sử dụng vật tư, sử dụng thiết bị,
giá thành sản phẩm, biện pháp tổ chức kỹ thuật xây dựng cho toàn năm, hàng quý,
hàng tháng.
b) Phải
được phân cấp một số quyền hạn và nhiệm vụ nhất định nhằm phát huy tính chủ động
và sáng tạo của phân xưởng, đồng thời bảo đảm thống nhất lãnh đạo kinh doanh của
xí nghiệp.
c) Phải tổ chức
bộ máy quản lý của phân xưởng, có bộ phận thống kê và hạch toán phục vụ cho việc
lập kế hoạch, theo dõi tiến trình thực hiện kế hoạch, phân tích so sánh thường
xuyên.
Điều 5. – Phân xưởng phải xây dựng
những định mức kinh tế kỹ thuật bao gồm trong ba loại: định mức lao động, định
mức sử dụng thiết bị, định mức tiêu hao nguyên vật liệu và động lực, làm cơ sở
cho việc lập kế hoạch và quản lý thực hiện. Những định mức này phải quy định cả
về mặt số lượng và chất lượng, phải được cụ thể hóa từng công đoạn sản xuất, từng
loại nguyên vật liệu và từng loại sản phẩm với quy cách khác nhau. Những định mức
cũ xét ra không còn thích hợp, không có tác dụng kích thích sản xuất cần phải
được điều chỉnh lại thỏa đáng và kịp thời để đưa vào sản xuất.
Điều 6. - Trừ kế hoạch giá thành
xây dựng hàng quý hoặc sáu tháng một lần, các kế hoạch khác của phân xưởng phải
được xây dựng cho cả năm, hàng quý, hàng tháng được giám đốc xí nghiệp duyệt
sau khi đã cân đối chung các phân xưởng trên cơ sở bảo đảm chỉ tiêu kế hoạch
Nhà nước. Các kế hoạch chủ yếu của phân xưởng hàng tháng phải được tổ chức thực
hiện bằng những kế hoạch tác nghiệp, kèm theo biện pháp cụ thể và phân công người
quản lý những biện pháp ấy.
Những kế hoạch
này phải được lập và duyệt xong trước ngày đầu của kỳ kế hoạch để phân xưởng có
điều kiện bố trí sản xuất chu đáo.
Điều 7. – Xí nghiệp không giao
phân xưởng quản lý những chỉ tiêu mà phân xưởng không chủ động phấn đấu được hoặc
phân xưởng không trực tiếp quản lý. Giá thành phân xưởng tính theo giá cả kế hoạch
và không bao gồm chi phí quản lý xí nghiệp phân bổ cho phân xưởng.
Căn cứ vào chỉ
tiêu, định mức kế hoạch, phân xưởng có trách nhiệm quản lý và sử dụng tài sản cố
định và lưu động với tinh thần tiết kiệm để tranh thủ sản xuất ra số lượng sản
phẩm nhiều nhất với phẩm chất tốt nhất nhưng tiêu hao ít nhất. Chỉ tiêu hiệu suất
tiền vốn, chỉ tiêu giá thành là những chỉ tiêu chất lượng trong công tác quản
lý của một phân xưởng.
Điều 8. – Phân xưởng phải tổ chức
bộ môn thống kê hạch toán để phục vụ công tác quản lý sản xuất của phân xưởng.
Tùy theo tình hình tổ chức sản xuất mà thống kê số liệu theo ca, ngành, gian
máy hoặc thẳng từ tổ sản xuất. Chỉ tiêu hạch toán thực tế phải thống nhất với nội
dung chỉ tiêu kế hoạch để có tác dụng so sánh phân tích. Cần kết hợp chặt chẽ
giữa thống kê và hạch toán chuyên nghiệp với thống kê và hạch toán quần chúng.
Phương pháp làm cần rõ ràng dễ hiểu nhưng kịp thời và tránh trùng lắp.
Phân xưởng có
trách nhiệm tổ chức và hướng dẫn các tổ sản xuất thực hiện hạch toàn kinh tế.
Để đảm bảo hạch
toán tốt, quản lý tốt, phân xưởng phải tổ chức đầy đủ sổ sách chứng từ về các mặt:
sản lượng hàng sản xuất, phẩm chất, sử dụng nguyên vật liệu, số lượng và hiện tại
tài sản cố định và vật rẻ tiền mau hỏng, tiền lương, sử dụng lao động, phế liệu
phế phẩm, bán thành phẩm và tại chế phẩm, giá thành sản phẩm.
Quản đốc phân
xưởng phải chịu trách nhiệm về mức độ chính xác của những số liệu của phân xưởng
mình trước giám đốc xí nghiệp.
Điều 9. – Phân xưởng phải xây dựng
quy chế làm việc nội bộ trong đó quy định chức trách nhiệm vụ của cán bộ, nhân
viên phân xưởng, buồng máy, tổ trưởng, tổ phó sản xuất; người kiểm nghiệm hoặc
kiểm tra kỹ thuật v.v…; quy định quan hệ công tác giữa cán bộ lãnh đạo và nhân
viên phân xưởng với các tổ sản xuất,; quy định nguyên tắc giao nhận nguyên vật
liệu và sản phẩm chế dở phải có cân đo kiểm nghiệm; quy định phương pháp và thời
gian xây dựng kế hoạch, quản lý thực hiện, phân tích hoạt động kinh tế thường kỳ
v.v…
Điều 10. – Các phân xưởng có
liên quan với nhau về mặt sản xuất cần cùng nhau ký kết “hợp đồng hợp tác sản
xuất” quy định điều kiện giao nhận sản phẩm chế dở cho nhau về mặt sồ lượng, chất
lượng và thời gian; chịu trách nhiệm cụ thể khi vi phạm hợp đồng hoặc gây lãng
phí cho phân xưởng bạn; điều kiện hỗ trợ nhau để cùng hoàn thành tốt nhiệm vụ kế
hoạch v.v… “Hợp đồng hợp tác sản xuất” xây dựng trên tinh thần hợp tác xã hội
chủ nghĩa giữa các phân xưởng, nhằm quán triệt kế hoạch chung và tạo điều kiện
hoàn thành toàn diện và vượt mức kế hoạch chung của xí nghiệp.
Giữa các phân
xưởng với nhau hoặc giữa phân xưởng với các phòng không có quan hệ thanh toán
tiền tệ.
Điều 11. – Các phân xưởng
không được cho nhau vay mượn nguyên, nhiên vật liệu, không được ghi chép sai sự
thực về sản lượng sản phẩm, về sử dụng nguyên nhiên, vật liệu và nhân lực giữa
tháng trước với tháng sau. Sau ca cuối cùng của một tháng, các phân xưởng phải
kiểm kê cụ thể số lượng sản phẩm chế tạo dở dang tại các công đoạn sản xuất, số
lượng nguyên, nhiên, vật liệu đã nhận nhưng chưa dùng vào quá trình sản xuất
công nghệ, số lượng sản phẩm hoàn thành nhưng chưa nhập kho, sản lượng bán
thành phẩm tự chế v.v… ở trong phân xưởng mình để tính toán giá thành được
chính xác.
Điều 12. – Phân xưởng phải thường
kỳ tổ chức phân tích hoạt động kinh tế của phân xưởng. Hàng tháng cần phân tích
tình hình thực hiện những kế hoạch chủ yếu: sản lượng, chất lượng, năng suất
lao động và giá thành. Hành quý cần phân tích thêm các mặt công tác khác có
quan hệ đến sản xuất và là nhân tố quan trọng của sản xuất như: sử dụng công suất
thiết bị chủ yếu, bảo toàn bảo dưỡng thiết bị, sử dụng lao động, quản lý vốn
v.v… Có thể phân tích chuyên đề tùy theo yêu cầu công tác quản lý của phân xưởng.
Phân tích
trong cán bộ quản lý của phân xưởng là chủ yếu, đồng thời có thể phổ biến một số
tình hình đã phân tích bằng số liệu tương đối hoặc tuyệt đối trong công nhân
phân xưởng.
Phân tích hoạt
động kinh tế cần tiến hành kịp thời, có trọng tâm, có biện pháp khắc phục khuyết
điểm, phát huy ưu điểm cụ thể. Nội dung phân tích cần thiết thực, bổ ích, tác động
trực tiếp đối với sản xuất, khai thác và động viên mọi khả năng tiềm tàng.
Chương 3:
CHẾ ĐỘ QUẢN LÝ KINH TẾ Ở
TỔ SẢN XUẤT.
Điều 13: - Hạch toán kinh tế tổ
sản xuất mang tính chất quần chúng vì do toàn thể công nhân trong tổ tự nguyện
tham gia, nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm, phát huy vai trò làm chủ, thực
hiện, quản lý sản xuất tốt, đẩy mạnh phong trào thi đua tập thể xây dựng tổ
tiên tiến, tổ lao động xã hội chủ nghĩa.
Do tính chất
quần chúng nên công tác thống kê và hạch toán ở tổ sản xuất phải đơn giản, dễ
chịu, dễ phân tích làm mất ít thời gian và phải phục vụ trực tiếp yêu cầu quản
lý của tổ.
Chỉ tiêu hạch
toán ở tổ phải có tác dụng tổ chức anh chị em công nhân phấn đấu có trọng tâm
trong sản xuất, đạt nhiều kết quả cụ thể trong phong trào thi đua giành “năng
suất lao động cao, phẩm chất tốt, tiết kiệm nhiều”. Tùy tình hình tổ chức sản
xuất và yêu cầu quản lý của từng tổ khác nhau mà chỉ tiêu hạch toán giao các tổ
cũng không thể giống nhau. Chỉ tiêu hạch toán tổ sản xuất phải nhằm vào khâu chủ
yếu có tác động nhiều tới nhiệm vụ tăng năng suất, hạ giá thành của tổ giải quyết
những vấn đề mấu chốt trong sản xuất của tổ.
Điều 14. - Tổ sản xuất cần
phân công anh chị em công nhân thực hiện chế độ “5 quản” bao gồm quản lý các mặt:
sảan lượng, lao động, kỹ thuật, nguyên vật liệu, giá thành, với nội dung và
trách nhiệm cụ thể. Các mặt công tác văn hóa xã hội khác của tổ cũng đều phân
công cho mỗi người chịu trách nhiệm một việc, thực hiện toàn tổ tham gia quản
lý .
Cần tổ chức
chế độ thống kê quần chúng, ai đứng máy nào ghi chép tình hình máy ấy, ai quản
lý việc gì ghi chép việc ấy. Người thống kê của tổ tổng hợp hàng ngày sau ca.
Điều 15. – Ngoài kế hoạch
hàng năm (nếu có điều kiện ) căn cứ vào kế hoạch của phân xưởng, tổ lập kế hoạch
hàng tháng chia ra từng tuần về sản lượng hiện vật, sử dụng thời gian lao động
và thiết bị máy móc, sử dụng nguyên vật liệu và động lực, phẩm chất sản phẩm.
Riêng kế hoạch giá thành của tổ được xây dựng chung cho toàn năm hoặc sáu
tháng. Giá thành tổ sản xuất là giá thành công đoạn sản xuất; không cần hoàn chỉnh
và tính theo giá cả kế hoạch.
Lúc đầu tổ sản
xuất chỉ cần “hạch toán tiết kiệm” số chi phí sản xuất để làm ra sản phẩm so
sánh với kế hoạch để thấy số lãng phí, tiết kiệm thể hiện bằng chỉ tiêu tiền tệ.
Trên cơ sở đó, tổ sản xuất tiến dần lên quản lý giá thành.
Muốn xây dựng
kế hoạch được tốt, tổ sản xuất cần cụ thể những định mức kinh tế kỹ thuật; xây
dựng thêm những định mức mới cần thiết.
Điều 16. - Việc giao nhận
nguyên vật liệu; sản phẩm chế dở, phế phẩm phế liệu, thành phẩm của tổ phải được
cân đo chính xác và có kiểm nhận, ghi sổ cẩn thận.
Mỗi khi đổi
ca, tổ trưởng sản xuất thuộc ca trước phải ghi tóm tắt tình hình sản xuất, thiết
bị, nguyên vật liệu v.v… vào “sổ giao ca” để bàn giao cho ca sau. Tổ trưởng sản
xuất thuộc ca sau xem xét lại và ký vào sổ giao ca.
Tổ sản xuất
phải tổ chức ghi chép tình hình sản xuất chính xác, chấp hành nghiêm chỉnh chế
độ quản lý vật tư, phế phẩm phế liệu.
Điều 17. - Nửa tháng hoặc
một tháng một kỳ, tổ sản xuất cần họp phân tích tình hình thực hiện các kế hoạch
thể hiện trên những số liệu kinh tế, tìm ra nguyên nhân tốt xấu, cao hạ của sản
lượng, phẩm chất, năng suất lao động, ngày công sản xuất, tiêu hao nguyên vật
liệu và công bố kết quả kinh tế của sản xuất. Trên cơ sở phân tích hoạt động
kinh tế, tổ đi sâu phát hiện những kinh nghiệm sản xuất tiên tiến để động viên
và phổ biến, đề ra biện pháp cụ thể giúp đỡ chậm tiến, đẩy mạnh cuộc cách mạng
kỹ thuật, nâng cao dần trình độ quản lý, đẩy mạnh phong trào thi đua tập thể.
Việc phân
tích hoạt động kinh tế ở tổ cũng phải tiến hành kịp thời và có trọng tâm. Cách phân
tích nên đơn giản, ít công tác số nhưng có tình hình cụ thể, phù hợp với trình
độ hạch toán của công nhân.
Ngoài những
buổi phân tích hoạt động kinh tế thường kỳ, tổ sản xuất cần tăng cường hội ý 5
quản sau ca để lãnh đạo sản xuất được kịp thời hơn.
Điều 18. – Trên cơ sở thực hiện
chế độ hạch toán kinh tế ở tổ sản xuất với số liệu thống kê ngày càng chính xác
và với khả năng kết hợp được chặt chẽ ba mặt: tăng năng suất lao động, nâng cao
phẩm chất và tiết kiệm nguyên vật liệu, mà tiến hành mở rộng diện trả lương
theo sản phẩm, thực hiện các chế độ tiền thưởng hiện hành để bồi dưỡng lao động
cho công nhân, khuyến khích đẩy mạnh sản xuất.
Điều 19. - Hạch toán theo máy
là cụ thể hóa một số chỉ tiêu kế hoạch của tổ tới từng đơn vị máy về các mặt: sản
lượng, số giờ chạy máy, công suất giờ máy, nguyên vật liệu sử dụng, phẩm chất sản
phẩm.
Ở những tổ mà tình hình sản xuất ổn định, mặt hàng
không thay đổi nhiều và từng người công nhân có thể tự theo dõi được số lượng
và chất lượng sản phẩm, lượng nguyên vật liệu sử dụng, số ngày công(hoặc giờ
công) sản xuất của mình thì cần thực hiện “số hạch toán tiết kiệm cá nhân” . Từng
cá nhân lập kế hoạch dài hạn chia ra từng kỳ ngắn hạn về: sản lượng, chất lượng,
năng suất lao động, ngày công (hoặc giờ công) sản xuất, số lượng nguyên vật liệu
sử dụng, và đăng ký với tổ. Trên cơ sở kế hoạch đó, từng người công nhân, sau mỗi
ngày sản xuất, tự ghi vào sổ hạch toán tiết kiệm cá nhân. Đến lúc nào đó, khi
được tổ trưởng sản xuất xác nhận, từng cá nhân công nhân có thể được công bố là
đã hoàn thành kế hoạch sản lượng toàn năm, quý hoặc tháng trước bao nhiêu ngày
(hoặc giờ), đã tiết kiệm bao nhiêu nguyên vật liệu, giảm được bao nhiêu ngày
công phi sản xuất, năng suất lao động đạt đến thời kỳ nào của mức kế hoạch cá
nhân và chất lượng sản phẩm ra sao. Hạch toán theo máy và hạch toán tiết kiệm
cá nhân nhằm xây dựng cơ sở vững chắc cho việc hoàn thành kế hoạch của tổ. Vì vậy
hạch toán kinh tế tổ sản xuất là chủ yếu. Hạch toán theo máy và hạch toán cá
nhân là biện pháp tích cực nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm từng người và từng
đơn vị máy, có tác dụng động viên thi đua kịp thời.
Chương 4:
TỔ CHỨC VÀ LẢNH ĐẠO THỰC
HIỆN HẠCH TOÁN KINH TẾ TRONG NỘI BỘ XÍ NGHIỆP
Điều 20. - Hạch toán kinh tế
trong nội bộ xí nghiệp không phải là vấn đề nghiệp vụ đơn thuần mà là cuộc vận động
quần chúng rộng rãi cải tiến lối quản lý sản xuất, tạo điều kiện cho công nhân
thực hiện tốt vai trò làm chủ đặng liên tục hoàn thành vượt mức và toàn diện
các kế hoạch.
Vì vậy, hạch
toán kinh tế nội bộ phải được sự lãnh đạo chặt chẽ của các cấp ủy đảng trong xí
nghiệp, được sự cổ vũ và giúp đỡ thường xuyên của tổ chức công đoàn, được đoàn
thanh niên làm nòng cốt thực hiện. Giám đốc xí nghiệp chịu trách nhiệm trước Bộ
về nội dung và chất lượng hạch toán kinh tế trong nội bộ xí nghiệp.
Các bộ môn
nghiệp vụ của xí nghiệp, trước hết là Phòng Kế hoạch và Phòng Tài vụ, tùy theo
chức năng công tác của mình, có nhiệm vụ hướng dẫn giúp đỡ các phân xưởng và tổ
sản xuất thực hiện chế độ hạch toán kinh tế.
Điều 21. - Đối với xí nghiệp
có quy mô sản xuất nhỏ, không tổ chức thành phân xưởng mà là “ngành” sản xuất
thì mọi quy định về việc thực hiện hạch toán kinh tế ở phân xưởng, đều áp dụng
đối với ngành sản xuất. Tuy nhiên những chỉ tiêu hạch toán và phương pháp hạch
toán cần đơn giản hơn, sao cho phù hợp với tình hình tổ chức bộ máy quản lý và
quy mô sản xuất của ngành, nhưng vẫn phải quán triệt nhưng vẫn quán triệt những
nguyên tắc và yêu cầu của chế độ hạch toán kinh tế thực hiện trong một đơn vị sản
xuất của xí nghiệp.
Điều 22. – Trong nội bộ một xí
nghiệp, hạch toán kinh tế ở phân xưởng là chủ yếu nhưng đồng thời phải coi trọng
việc mở rộng hạch toán đến các tổ sản xuất, lấy đó là cơ sở. Trên cơ sở phân xưởng
hạch toán tốt mà củng cố hạch toán ở tổ.
Công tác hạch
toán kinh tế ở phân xưởng và tổ sản xuất phải tiến hành từng bước: từ dễ đến
khó, từ đơn giản đến phức tạp, từ điểm đến diện, đồng thời phải luôn luôn lấy
điểm để chỉ đạo diện để nâng cao trình độ hạch toán không ngừng.
Điều 23. – Các phân xưởng,
ngành, tổ sản xuất trong ngành công nghiệp nhẹ đều phải thực hiện chế độ hạch
toán kinh tế theo những điều quy định trên.