BỘ
CÔNG AN
********
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
915-C57-P5
|
Hà
Nội ngày 10 tháng 11 năm 1962
|
THÔNG TƯ
CỦA BỘ TRƯỞNG BỘ CÔNG AN SỐ 915-C57-P5 NGÀY 10 THÁNG 11 NĂM
1962 VỀ ĐÈN TÍN HIỆU ĐIỀU KHIỂN GIAO THÔNG
Đèn tín hiệu điều khiển giao
thông đặt ở các ngã ba, ngã tư đường phố đông đúc, phức tạp là dùng để báo hiệu,
điều khiển sự đi lại của các loại xe cộ người đi đường, nhằm đảm bảo trật tự
giao thông, ngăn ngừa tai nạn, làm cho sự giao lưu trong thành thị được dễ
dàng, thuận lợi.
Việc điều khiển giao thông bằng
đèn tín hiệu trong các thành thị phải theo đúng những quy tắc sau đây:
A. TÍN HIỆU
ĐÈN.
Đèn tín hiệu điều khiển giao
thông là một hệ thống đèn gồm có ba màu: đèn đỏ, đèn vàng và đèn xanh.
1. Đèn đỏ báo hiệu: Dừng lại!
Khi đèn đỏ bật sáng, thì:
- Xe cộ phải dừng lại trước hàng
đanh thứ nhất của ngã tư và có thể rẽ phải nếu trước mặt không bị vướng, nhưng
phải báo hiệu rẽ phải;
- Người đi bộ phải dừng lại trên
hè phố, không được sang ngang đường.
2. Đèn vàng báo hiệu: Chú
ý dừng lại!
Hoặc: Chú ý, chuẩn bị đi!
a) Nếu đèn vàng bật lên sau đèn
xanh thì báo hiệu "chú ý, dừng lại", vì tiếp đó đèn đỏ sẽ sáng.
Trong trường hợp này:
- Xe cộ phải dừng lại trước hàng
đanh thứ nhất của ngã tư, trừ những xe đã vượt qua hàng đanh thứ nhất khi đèn
vàng vừa bật sáng, thì vẫn tiếp tục đi.
- Người đi bộ phải dừng lại trên
hè phố, trừ những người đã bước xuống lòng đường khi đèn vàng vừa bật sáng, thì
vẫn tiếp tục đi.
b) Nếu đèn vàng bật lên sau đèn
đỏ, thì báo hiệu "chú ý, chuẩn bị đi", vì tiếp đó, đèn xanh sẽ sáng.
Trong trường hợp này, xe cộ và
người đi bộ đều chuẩn bị để đi qua ngã tư.
3. Đèn xanh báo hiệu: Đi!
Khi đèn xanh bật sáng, thì:
- Xe cộ từ từ đi thẳng qua ngã
tư và có thể rẽ phải, rẽ trái hoặc quay đầu lại, nếu trước mặt không bị vướng,
nhưng phải báo hiệu rẽ phải, rẽ trái, hoặc quay đầu lại.
- Người đi bộ đi ngang qua đường
trong giới hạn của hai hành đanh, tức là trong phần đường dành riêng cho người
đi bộ.
4. Đèn vàng nhấp nháy liên tục
báo hiệu: Chú ý nguy hiểm, ưu tiên cho xe bên phải.
Khi đèn vàng nhấp nháy liên tục,
xe cộ phải giảm tốc độ, báo hiệu bằng còi (ban ngày) hay đèn (ban đêm) trước
khi qua ngã ba, ngã tư đó và phải chú ý nhường ưu tiên cho xe bên phải.
Chú ý: Đặc biệt xe chữa cháy
đang đi làm nhiệm vụ có quyền ưu tiên qua ngã tư, kể cả khi có tín hiệu đèn đỏ
hay đèn vàng, nhưng phải rú còi liên tiếp từ xa và chú ý đề phòng tai nạn. Các
xe cộ khác và người đi bộ phải lập tức nhường đường cho xe chữa cháy.
B. NGUYÊN TẮC
SỬ DỤNG ĐÈN TÍN HIỆU
1. Tuyệt đối không được bật sáng
hai màu đèn cùng một lúc cho một chiều đường; khi đèn này tắt thì đèn kia mới
được bật lên.
2. Khi thay đổi màu đèn từ đỏ
sang xanh hay từ xanh sang đỏ, nhất thiết phải qua màu vàng, nghĩa là màu vàng
bật sáng đệm giữa hai màu xanh và đỏ, để cho xe cộ có đủ thì giờ hoặc dừng lại
trước hàng đanh thứ nhất hoặc tiếp tục đi nếu đã vượt qua hàng đanh thứ nhất của
ngã tư.
3. Khi trên chiều đường A bật
đèn đỏ thì lập tức trên chiều đường B (B cắt A) phải bật ngay đèn xanh và ngược
lại, nghĩa là phải làm đồng thời hai tín hiệu xanh và đỏ trên hai chiều đường cắt
nhau.
Riêng đèn vàng, khi bật lên, phải
chiếu sáng đủ bốn mặt tức là tất cả các chiều đường.
4. Tín hiệu đèn điều khiển giao
thông áp dụng cho cả xe cộ lẫn người đi bộ.
C. NGUYÊN TẮC
XÂY DỰNG ĐÈN TÍN HIỆU
1. Đèn tín hiệu điều khiển giao
thông hình trụ tròn hoặc hình trụ vuông gồm bốn mặt như nhau (hoặc ba mặt, nếu
đèn đặt ở ngã ba), mỗi mặt có ba đèn màu và sắp xếp theo thứ tự: Đèn đỏ ở trên,
đèn vàng ở giữa, đèn xanh ở dưới.
2. Các mặt đèn đỏ, vàng, xanh phải
làm bằng kính phản chiếu đường kính tối thiểu 0,24m và khi bật đèn lên thì sáng
xa 100m.
3. Đèn tín hiệu điều khiển giao
thông đặt ở ngã ba, ngã tư đường phố theo cách sau đây:
- Theo đèn tín hiệu ở tâm ngã
ba, ngã tư đường phố; chiều cao tính từ mặt đường đến mặt dưới của đèn là
3,50m.
- Hoặc đặt đèn ở các góc của ngã
ba, ngã tư đường phố chiều cao của trụ đèn tính từ mặt hè phố đến mặt dưới của
đèn là 2,50m trở lên.
Riêng về đèn vàng nhấp nháy liên
tục thì có thể bố trí độc lập (không kèm theo tín hiệu đèn xanh, đỏ) ở ngã ba,
ngã tư để báo nguy hiểm suốt cả đêm, ngày.
4. Đèn tín hiệu giao thông có thể
hoạt động tự động hoặc do cảnh sát giao thông điều khiển.
5. Chòi điều khiển giao thông của
cảnh sát giao thông không làm ở dưới lòng đường mà xây dựng trên hè phố và ở
nơi quang đãng, có điều kiện quan sát từ xa mọi tình huống trên đường.
D. XỬ LÝ NHỮNG
TRƯỜNG HỢP VI PHẠM QUY TẮC TÍN HIỆU ĐÈN ĐIỀU KHIỂN GIAO THÔNG
Điều khiển giao thông bằng tín
hiệu đèn là một phương pháp hướng dẫn giao thông của cảnh sát giao thông trong
thành thị như đã quy định ở điều 22 mới Nghị định số 44-NĐ ngày 27 tháng 5 năm
1958 của Bộ Giao thông và bưu điện. Vì vậy người nào không tuân theo các tín hiệu
điều khiển giao thông thì coi như vi phạm điều 22 mới của nghị định nói trên và
sẽ tuỳ trường hợp mà phê bình hay xử phạt theo điều 43 Nghị định số 348-NĐ ngày
3 tháng 12 năm 1955 của Bộ Giao thông và bưu điện.
Để thi hành thông tư này các địa
phương phải có kế hoạch tuyên truyền, phổ biến sâu rộng tín hiệu đèn điều khiển
giao thông trong nhân dân, làm cho mọi người hiểu rõ và chấp hành đúng; phải
nghiên cứu tổ chức việc điều khiển giao thông bằng đèn tín hiệu ở một số ngã tư
cần thiết trong thành phố, thị xã lớn (nhưng phải trình Bộ xét duyệt trước khi
xây dựng); riêng các Sở Công an Hà Nội, Hải Phòng phải căn cứ thông tư này mà
chấn chỉnh lại việc điều khiển giao thông bằng tín hiệu đèn ở địa phương mình
cho đúng quy tắc chung.