BỘ
GIAO THÔNG VẬN TẢI
********
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
195-PC
|
Hà
Nội, ngày 27 tháng 1 năm 1975
|
QUYẾT ĐỊNH
CỦA
BỘ GIAO THÔNG VẬN TẢI SỐ 195-PC NGÀY 27 THÁNG 1 NĂM 1975 VỀ VIỆC BAN HÀNH ĐIỀU
LỆ TẠM THỜI VỀ LIÊN HIỆP VẬN CHUYỂN HÀNG HOÁ GIỮA ĐƯỜNG SẮT,ĐƯỜNG Ô TÔ, ĐƯỜNG
SÔNG, ĐƯỜNG BIỂN
BỘ TRƯỞNG BỘ GIAO THÔNG VẬN TẢI
Căn cứ quyết định của Hội
đồng Chính phủ số 158-CP ngày 4-7-1974 quy định tổ chức bộ máy của Bộ giao
thông vận tải;
Để tăng cường công tác quản lý Vận chuyển hàng hoá, phát huy chức năng của
các ngành vận tải và giảm bớt những khó khăn cho các cơ quan, xí nghiệp gửi
hàng;
Để làm cơ sở cho việc chỉ đạo và hướng dẫn các ngành vận tải và các chủ hàng
thực hiện liên hiệp Vận chuyển hàng hoá,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Nay
ban hành Điều lệ tạm thời về liên hiệp Vận chuyển hàng hoá, kèm theo bản Thông
tư quy định chi tiết, giải thích và hưóng dẫn thi hành điều lệ.
Điều 2.
Các ông Chánh Văn phòng Bộ, Trưởng Ban vận tải, Vụ trưởng Vụ Kế hoạch, Vụ kế toán
tài vụ, Vụ thống kế, Cục trưởng Cục vận tải đường bộ, đường sông, đường biển,
Tổng cục trưởng Tổng cục đường sắt chịu trách nhiệm thi hành điều lệ này.
ĐIỀU LỆ TẠM THỜI
VỀ LIÊN HIỆP VẬN CHUYỂN HÀNG HOÁ GIỮA ĐƯỜNG SẮT,ĐƯỜNG Ô TÔ,
ĐƯỜNG SÔNG, ĐƯỜNG BIỂN
Chương 1
NGUYÊN TẮC CHUNG
Điều 1.
Mục đích của điều lệ
Công cuộc khôi phục và phát
triển kinh tế của nước ta trong giai đoạn mới, ngành giao thông vận tải phải
bảo đảm các yêu cầu vận chuyển với khối lượng hàng hoá ngày càng tăng của các
ngành kinh tế, quốc phòng; đồng thời phải thoả mãn kịp thời những yêu cầu về
lưu thông, phân phối, phục vụ cho đời sống của nhân dân.
Để đáp ứng những yêu cầu trên
đây, việc tổ chức liên hiệp vận chuyển giữa các phương thức vận tải là một biện
pháp tích cực, phát huy được tiềm lực và chức năng cuả các ngành vận tải vươn
lên làm tốt hơn nữa nhiệm vụ vận tải của Nhà nước giao.
Công tác liên hiệp Vận chuyển
hàng hoá được tổ chức, thể hiện một bước hợp lý, tiến bộ trong quan hệ sản xuất
của ngành giao thông vận tải, bảo đảm vận chuyển khối lượng hàng hoá trong nước
và xuất nhập khẩu ngày càng tăng, cải tiến được một bước khâu quản lý kinh tế
trong ngành, tăng cường tinh thần trách nhiệm trong việc hợp tác xã hội chủ
nghĩa, bảo quản, bảo vệ tốt hàng hoá, giảm được cho chủ hàng thủ tục giao dịch,
tiếp nhận, xếp dỡ, thanh toán trong suốt quá trình vận chuyển hàng hoá từ nơi
đi đến nơi đến, tiết kiệm nhân lực, tinh giản tổ chức, giảm chi phí vận tải,
dẫn đến việc hạ giá thành hàng hoá, góp phần vào việc ổn định và cải thiện đời
sống vật chất, văn hoá của nhân dân.
Điều lệ này được ban hành tạm
thời để tổ chức liên hiệp vận chuyển hàng hoá giữa các phương thức vận tải
thuộc Bộ giao thông vận tải quản lý.
Điều 2.
Phạm vi áp dụng
Điều lệ này áp dụng cho việc vận
chuyển hàng hoá từ nơi đi đến nơi đến bằng ít nhất 2 phương thức vận tải nhưng
khác chủ phương tiện (giữa các xí nghiệp, giữa trung ương với địa phương, giữa
quốc doanh với hợp tác xã) trong các ngành đường sắt, ô tô, đường sông, đường
biển, bằng một giấy vận chuyển lập cho toàn bộ đường vận chuyển.
Những vấn đề nào không quy định
trong điều lệ này thì chủ hàng và bên vận tải sẽ làm theo quy định trong điều
lệ vận chuyển hàng hoá của mỗi ngành vận tải tham gia liên vận, tuỳ vấn đề đó
xảy ra trong phạm vi tuyến đường của ngành vận tải nào phụ trách.
Điều lệ này và các văn kiện
hướng dẫn chung cho chủ hàng và cho các ngành vận tải để thi hành điều lệ đều
có hiệu lực ràng buộc đối với các ngành vận tải tham gia liên vận hàng hoá, đối
với người gửi hàng và người nhận hàng.
Những văn kiện của mỗi bên ban
hành để hướng dẫn riêng cho cán bộ nhân viên của mình (nội bộ ngành vận tải
hoặc nội bộ chủ hàng) để thi hành điều lệ này thì chỉ có hiệu lực ràng buộc đối
với trong nôị bộ phía ấy mà thôi.
Điều 3.
Trách nhiệm của các ngành vận tải tham gia liên vận hàng hoá
Các ngành vận tải tham gia liên
vận hàng hoá theo giấy vận chuyển hàng hoá của điều lệ này, chịu trách nhiệm
trong phạm vi những điều kiện do điều lệ này quy định về vận chuyển hàng hoá
đến nơi quá kỳ hạn, về những thiệt hại phát sinh do hàng hoá bị mất một phần
hoặc bị mất toàn bộ, do hàng hoá bị hư hỏng; về những hậu quả do làm mất giấy
tờ có liên quan đến hàng hoá của người gửi hàng kèm theo giấy vận chuyển và đã
có ghi tên những loại giấy tờ ấy trong giấy vận chuyển liên vận hàng hoá. Ngành
vận tải chỉ nhận kèm theo giấy vận chuyển, giấy chứng nhận của cơ quan hải
quan, thuế vụ, giấy phép vận chuyển hàng, giấy chứng nhận phẩm chất hàng, ngoài
ra, không nhận các loại giấy tờ khác. Khi ngành vận tải làm thất lạc các loại
giấy tờ nói trên thì có trách nhiệm giải quyết bằng cách lập biên bản xác minh.
Khi một ngành vận tải nhận hàng
để chở đúng theo những đièu kiện quy định trong điều lệ này thì những ngành vận
tải khác có trách nhiệm tham gia vận chuyển tiếp và chỉ được từ chối tiếp
chuyển trong trường hợp hàng hoá đã bị hư hỏng hoàn toàn, hoặc tình trạng hàng
hoá không phù hợp với những điều ghi trên giấy vận chuyển mà bên giao không lập
biên bản để xác minh.
Mỗi ngành vận tải tham gia liên
vận hàng hoá theo giấy vận chuyển hàng hoá của điều lệ này phải chịu trách
nhiệm hoàn thành việc vận chuyển trên toàn bộ đường đi của ngành mình cho đến
khi giao trả xong hàng cho ngành vận tải tiếp chuyển hoặc cho đến khi giao trả
xong hàng ở nơi đến cuối cùng.
Mỗi ngành vận tải tham gia liên
vận là đại diện cho các ngành vận tải khác trong mối quan hệ với chính quyền và
các ngành chuyên môn có thẩm quyền đối với hàng hoá liên vận mà ngành mình đã
hoặc đang phụ trách, vận chuyển.
Khi một ngành vận tải vận chuyển
quá kỳ hạn quy định trên tuyến đường mình phụ trách thì những ngành vận tải
khác tham gia liên vận có trách nhiệm tìm mọi cách rút ngắn hoặc xoá bỏ thời
gian chậm trễ để bảo đảm kỳ hạn vận chuyển chung cho lô hàng. Nếu không thực
hiện được kỳ hạn vận chuyển chung thì ngành vận tải gây trễ kỳ hạn phải chịu
phạt theo quy định ở điều 21 của điềulệ này. Khi bên vận tải gây tổn thất cho
chủ hàng hoặc phải chịu phạt thì áp dụng theo quy định trong các điều 19, 20,
21 của điều lệ này.
Điều 4.
Trách nhiệm của chủ hàng
Người gửi hàng có trách nhiệm
lập kế hoạch hàng hoá liên vận và ký hợp đồng với ngành vận tải nơi nhận hàng
để vận chuyển theo đúng thể lệ, chế độ của Nhà nước quy định.
Người gửi hàng có trách nhiệm
chuẩn bị đủ số hàng hoá và giao cho phía vận tải đúng kỳ hạn mà hai bên đã thoả
thuận.
Chủ hàng phải chấp hành những quy
định nêu trong điều lệ này và các văn kiện hướng dẫn thi hành điều lệ như đã
nêu ở điều 2 của điềulệ này.
Điều 5. Thành
lập, bãi bỏ cảng bến, ga liên vận
Mỗi ngành vận tải tham gia liên
vận hàng hoá, muốn thành lập hoặc bãi bỏ cảng, bến, ga, liên vận, phải đề nghị
lên Bộ giao thông vận tải xét duyệt ít nhất 30 ngày trước ngày định thành lập
hoặc bãi bỏ.
Ngành vận tải thành lập hoặc bãi
bỏ cảng, bến, ga liên vận chịu trách nhiệm công bố cho các cơ quan chủ hàng,
cho nhân dân và cho các ngành vận tải khác biết ít nhất 15 ngày trước ngày
thành lập hoặc bãi bỏ cảng, bến, ga liên vận hàng hoá.
Điều 6. Tổ
chức tiếp chuyển hàng hoá
Tại những cảng, bến, ga liên vận
thường xuyên thay đổi phương thức vận tải để tiếp chuyển hàng liên vận, phải có
bộ phận tiếp chuyển hàng hoá thưòng trực để giao hàng từ phương thức vận tải
này qua phương thức vận tải khác (hoặc từ phương tiện vận tải này qua phương
tiện vận tải khác). Cơ cấu tổ chức bộ phận tiếp chuyển hàng hoá do Bộ giao
thông vận tải quy định. Việc tiếp chuyển hàng hoá cần cố gắng làm trực tiếp từ
phương thức vận tải này qua phương thức vận tải kia để giảm bớt số lần xếp dỡ.
Ngày, giờ bắt đầu và kết thúc việc tiếp chuyển mỗi lô hàng phải được ghi và
đóng dấu vào giấy vận chuyển.
Ở những nơi tiếp chuyển hàng
hoá, thời gian làm việc của nhân viên tiếp chuyển của cả hai bên phải được quy
định thuận tiện cho cả 2 ngành vận tải, không để cho phương tiện của 2 bên phải
chờ đợi.
Khi tiếp chuyển hàng hoá, nếu
hàng hoá bị hư hỏng, thừa, thiếu, hoặc có các hiện tượng khác không đúng với
những điều đã ghi trong giấy vận chuyển thì bên nhận phải lập biên bản thương
vụ hoặc biên bản phổ thông, bên giao phải ký vào biên bản. Biên bản phải được
đính kèm theo giấy vận chuyển và giấy tiếp chuyển hàng hoá. Nội dung tóm tắt
cuả biên bản phải được nơi tiếp chuyển ghi vào giấy vận chuyển và giấy tiếp
chuyển. Mẫu giấy tiếp chuyển do Bộ giao thông vận tải quy định.
Điều 7. Lập
kế hoạch liên vận hàng hoá
Các ngành chủ hàng thuộc thành
phần kinh tế quốc doanh hoặc các cơ quan Nhà nước, muốn vận chuyển hàng hoá
theo hình thức liên vận phải lập kế hoạch hàng hoá liên vận đúng cách thức và
kỳ hạn theo hướng dẫn cụ thể của Bộ giao thông vận tải.
Các chủ hàng thuộc thành phần
kinh tế tập thể và tư nhân, khi muốn vận chuyển hàng hoá theo hình thức liên
vận phải có giấy yêu cầu gửi đến Bộ giao thông vận tải (Ban vận tải) ít nhất 15
ngày trước ngày định vận chuyển.
Bên vận tải chỉ nhận vận chuyển
hàng liên vận trong những trường hợp đột xuất (ngoài kế hoạch) có tính chất
khẩn cấp khi có lệnh của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ giao thông vận tải,
Chủ tịch Uỷ ban hành chính các khu tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương như
cứu đói, cứu mùa màng, chống hạn hán, bão lụt, chống dịch, phục vụ an ninh quốc
phòng.
Những hàng hoá liên vận, nếu bị
hoãn lại vì phải thi hành các lệnh đột xuất này thì ngành vận tải thực hiện
lệnh đột xuất phải báo cho người gửi hàng biết bằng cách nhanh nhất, lý do hàng
hoá phải giữ lại, dự kiến ngày mà lô hàng ấy sẽ được tiếp tục vận chuyển. Thi
hành xong lệnh của các cấp nói trên, hàng hoá này phải được tiếp tục vận chuyển
ngay. Các chi phí phát sinh đối với hàng hoá bị giữ lại như tiền xếp dỡ, bảo
quản, lưu kho bãi v,v... do cơ quan có hàng vận chuyển đột xuất thanh toán cho
bên vận tải.
Trong những trường hợp đột xuất
khác, bên vận tải không nhận chở theo hình thức liên vận.
Điều 8. Loại
hàng hoá được nhận vận chuyển liên vận
Tát cả các loại hàng hoá đều
được nhận vận chuyển liên vận, trừ những loại sau loại sau đây:
1- Hàng cấm lưu thông,
2- Hàng cần có giấy tờ chứng
nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền mà ngươì gửi hàng không xuất trình được
giấy tờ ấy cho nơi gửi để kèm theo giấy vận chuyển,
3- Hàng xếp rời, xếp đống, hàng
thuộc chất lỏng mà không đựng vào thùng nhỏ, trừ những trường hợp đặc biệt do
Bộ trưởng Bộ giao thông vận tải công bố nhận chở theo hình thức liên vận.
4- Thi hài, linh cữu; động vật
sống; hàng mau hư thối; hàng nguy hiểm như các loại dễ nổ, dễ cháy, chất độc,
(trừ các loại phân bón đóng bao); hàng quý giá, hàng cần phải vận chuyển theo
điều kiện đặc biệt, hàng có kiện quá nặng, quá khổ mà một trong các ngành vận
tải tham gia liên vận không có loại phương tiện thích hợp cho kiện hàng ấy.
Chương 2
VẬN CHUYỂN HÀNG HOÁ
Điều 9. Giấy
vận chuyển và lô hàng
Hàng hoá gửi theo một giấy vận
chuyển là một lô hàng. Khối lượng của mỗi lô hàng liên vận:
- Giữa đường sắt với ôtô, mỗi lô
ít nhất là 4 tấn và nhiều nhất là 35 tấn;
- Giữa đường sông trung ương với
đường sông địa phương, mỗi lô ít nhất là 100 tấn, nhiều nhất là 200 tấn.
- Giữa đường sông trung ương với
ô tô, mỗi lô ít nhất là 4 tấn, nhiều nhất là 200 tấn;
Máy móc, thiết bị, mỗi kiện
không được nặng quá 4 tấn và kích thước không được vượt quá khổ giới hạn của ô
tô. Đối với các loại hàng khác, nếu đóng vào bao bì, hòm, kiện thì không được
nặng quá 100 kilôgam mỗi kiện, mỗi bao, mỗi hòm.
Cứ mỗi lô hàng gửi liên vận,
người gửi hàng phải giao cho bên vận tải nơi hàng đi một giấy vận chuyển liên
vận hàng hoá theo mẫu kèm theo điều lệ này. Giấy vận chuyển này do người gửi
điền và ký tên, đóng dấu (nếu có dấu) vào những ô dành riêng cho việc kê khai
và ghi chép của người gửi.
Người gửi hàng chịu trách nhiệm
về mọi hậu quả do những điều mà chính họ đã ghi và đã kê khai trong giấy vận
chuyển không chính xác, không đầy đủ gây nên. Bên vận tải có quyền kiểm tra xem
những điều của người gửi hàng khai và ghi trong giấy vận chuyển có đầy đủ và có
chính xác không.
Sau khi nhận vận chuyển lô hàng
thì bên vận tải cũng điền vào giấy vận chuyển ở những chỗ dành riêng cho bên
vận tải, ký tên, đóng dấu, giao một bản sao giấy vận chuyển cho người gửi hàng
và từ khi đó giấy vận chuyển được coi như một hợp đồng vận tải cụ thể đã ký kết.
Tên ký và dấu của ngành vận tải
nơi nhận vận chuyển chỉ được đóng vào giấy vận chuyển sau khi ngưòi gửi hàng đã
giao hàng đầy đủ hàng hoá như đã khai trong giấy vận chuyển và bên vận tải đã
kiểm tra xong số lượng, khối lợng, bao bì, các giấy tờ cần thiết phải kèm theo
và sau khi người gửi hàng đã trả xong các khoản cước phí, tạp phí, trừ trường
hợp có sự cam kết riêng về việc trả cước phí của người gửi hàng và bên vận tải.
Giấy vận chuyển hàng liên vận
phải đi theo lô hàng suốt trên toàn bộ đường vận chuyển từ nơi gửi đến nơi đến
cuối cùng với hàng hoá. Số lượng bản sao giấy vận chuyển liên vận hàng hoá do
bên vận tải nơi nhận chở làm theo hướng dẫn của Bộ giao thông vận tải. Tất cả
các bản sao giấy vận chuyển và tất cả những giấy tờ gửi kèm theo giấy vận
chuyển phải được bên vận tải nơi nhận gửi hàng đóng dấu ngày, tháng.
Tên của người gửi hàng và người nhận
hàng ghi trong giấy vận chuyển có thể là một pháp nhân hoặc là một người thường
kèm theo địa chỉ đầy đủ.
Những điều ghi vào giấy vận
chuyển phải viết rõ ràng bằng mực, bằng bút chì không phai, hoặc bằng cách đánh
máy, bằng cách đóng dấu; không được viết tắt (trừ trường hợp có quy định cho
phép viết tắt), không được sửa chữa quá hai chỗ liền nhau trong giấy vận
chuyển, không được tẩy xoá, gạch bỏ hay dán chồng lên. Những chỗ sửa chữa phải
được người sửa chữa ký tên hoặc đóng dấu bên cạnh để chứng thực.
Nếu trên giấy vận chuyển không
đủ chỗ để ghi tất cả tên hàng hoá, thì có thể dán tiếp vào giấy vận chuyển một
tờ giấy có kê đủ các mục, các cột liên quan đến việc kê khai để ghi tiếp tên
hàng hoá. Người gửi hàng phải ký tên, đóng dấu vào tờ giấy đó, đồng thời phải
ghi vào giấy vận chuyển ở mục tên hàng, số lượng bảng kê tên hàng kèm theo giấy
vận chuyển.
Người gửi hàng còn phải giao đủ
số bảng kê tên hàng cho nơi nhận vận chuyển (ga, bến, trạm) tương xứng với số
lượng bản sao giấy vận chuyển cần phải lập cho mỗi lô hàng.
Người gửi hàng phải đính theo
giấy vận chuyển những giấy tờ cần thiết cho việc vận chuyển hàng hoá như quy
định ở điểm 1, Điều 3. Tên những giấy tờ này phải được ghi vào giấy vận chuyển
ở ô dành riêng cho việc này.
Nếu phải sử dụng nhiều phương
tiện vận tải để vận chuyển hoặc tiếp chuyển một lô hàng gửi theo một giâý vận
chuyển thì ngoài giấy vận chuyển ra, bên vận tải nơi nhận gửi hàng hoặc nơi
tiếp chuyển phải làm giấy xếp toa xe (đường sắt) hoặc giấy giao nhận hàng cho
mỗi ô tô, xà lan, thuyền
Điều 10.
Giao nhận hàng hoá
Tuỳ theo tính chất của từng loại
hàng mà hai bên vận tải và người gửi hàng thoả thuận phương pháp giao nhận bằng
số lượng (đếm) hoặc bằng khối lượng (cân) hoặc bằng cả hai phương pháp kết hợp
và phải ghi phương pháp giao nhận vào giấy vận chuyển. Hàng hoá đã nhận chở đi
theo phương pháp nào thì khi giao nhận giữa hai bên vận tải với nhau hoặc khi
giao nhận giữa bên vận tải với người nhận hàng ở nơi đến cuối cùng cũng phải
theo phương pháp ấy.
Nếu dùng phương pháp giao nhận bằng
khối lượng thì ngành vận tải nơi nhận hàng để gửi phải ghi loại cân đã dùng
(cân bàn hay cầu cân) ghi cả phương pháp xác định khối lượng như cân toàn bộ
hay cân một số bao (nếu bao cùng một tiêu chuẩn khối lượng) vào giấy vận chuyển.
Nếu số lượng và khối lượng hàng
hoá do người gửi khai trên giấy vận chuyển không phù hợp với số lượng và khối
lượng do bên vận tải nơi hàng xuất phát đã kiểm tra và đã được người gửi hàng
xác nhận bằng chữ ký trên giấy vận chuyển thì số lượng và khối lượng theo bên
vận tải ghi là số lượng và khối lượng trách nhiệm.
Khi hàng hoá đã được chở đến
đúng địa chỉ và đúng tên người nhận như đã ghi trên giấy vận chuyển thì ngưòi
nhận không được từ chối nhận hàng, trừ khi hàng hoá bị hư hỏng hoàn toàn, không
còn giá trị sử dụng. Nếu người nhận hàng từ chối không nhận hàng thì người gửi
hàng có trách nhiệm giải quyết lô hàng bị ứ đọng và phải trả cho bên vận tải
mọi chi phí tiền phạt, chịu mọi tổn thất hao hụt do sự việc này gây nên.
Khi giao trả hàng hoá cho người
nhận và khi xử lý yêu cầu bồi thường về hàng hoá bị thiếu hụt, nếu hàng hoá ấy
cùng một tên gọi, cùng một người gửi hàng, cùng một người nhận, cùng một nơi
đi, cùng một nơi đến thì có thể lấy hàng thừa của giấy vận chuyển này bù cho số
hàng thiếu của giấy vận chuyển kia.
Điều
11.Nhãn hiệu, ký hiệu hàng hoá
Người gửi hàng phải ghi trên mỗi
kiện hàng bằng sơn, hoặc bằng mực không phai hoặc gắn buộc trên kiện hàng tấm
biển ở chỗ dễ thấy nhất có in hoặc ghi những điểm dưới đây:
-Ký hiệu "LV" cao
150m/m rộng 100 m/m - nét chữ 20m/m.
- Tên địa điểm nơi gửi,
- Tên địa điểm nơi hàng đến.
Nếu hàng hoá vận chuyển đòi hỏi
phải có sự chú ý chăm sóc đặc biệt thì người gửi hàng còn phải vẽ hoặc dán trên
mỗi kiện hàng một nhãn hiệu biểu thị tính chất của hàng hoá theo mẫu trong
Quyết định số 523-PC ngày 23-4-1963 của Bộ giao thông vận tải.
Điều 12.
Bao bọc hàng hoá
Trừ những loại hàng hoá nói ở
điểm 3, điều 8 của điều lệ này, các loại hàng hoá gửi theo hình thức liên vận
đều bắt buộc phải có bao bọc chắc chắn và thích hợp với tính chất của hàng hoá
để đề phòng hư hỏng, mất mát trong quá trình vận chuyển, ngăn ngừa những trường
hợp có thể gây nguy hiểm cho nhân viên làm công tác vận chuyển hoặc có thể làm
hư hỏng phương tiện vận chuyển.
Việc chèn lót bên trong bao,
kiện phải đảm bảo hàng hoá không hư hỏng.
Nếu hàng hoá gửi vận chuyển
không bảo đảm các yêu cầu về bao bọc như nói trên đây thì các ngành vận tải
không nhận vận chuyển. Khi từ chối nhận vận chuyển, nếu người gửi hàng yêu cầu
thì ngành vận tải phải lập biên bản phổ thông và giao cho người gửi hàng một
bản.
Những loại hàng hoá bao bọc bằng
vật liệu mềm như bao giấy, bao cói, bao tải, bao ni lông... thì người gửi hàng
phải gửi kèm theo lô hàng một số bao rỗng cùng loại từ 5% đến 20% tổng số bao
của mỗi lô hàng để dự phòng thay các bao bì hư hỏng dọc đường. Người gửi hàng
ghi số lượng bao dự phòng gửi theo lô hàng vào giấy vận chuyển.
Bên vận tải khi giao trả hàng
cho người nhận hàng ở nơi đến cuối cùng thì phải đồng thời giao trả cả số bao
bì rỗng dự phòng không sử dụng hết.
Bên vận tải cung cấp vật liệu
chèn lót, chằng buộc thông thường. Người gửi hàng đài thọ kinh phí mua sắm vật
liệu nói trên và trả tiền công kê lót, chằng buộc. Người gửi hàng trả tiền công
thu vét, đóng bao hàng rơi vãi hoặc sửa chữa bao bì hư hỏng nếu vì bao bì không
tốt gây nên.
Điều 13.
Áp tải hàng hoá
Ngành vận tải nơi hàng xuất phát
có thể yêu cầu người gửi hàng cử người đi áp tải đối với một số loại hàng trong
một số trường hợp xét thấy cần thiét. Người áp tải không phải trả tiền vé chỗ
ngồi trong trường hợp này.
Người gửi hàng hoặc người nhận
hàng cũng có thể cử người đi áp tải nếu xét thấy cần thiét và sau kihi được
ngành vận tải đồng ý. Trường hợp này, người áp tải phải trả tiền vé chỗ ngồi.
Số lượng người đi áp tải nhiều
nhất là một người đối với một giấy vận chuyển, hoặc một tổ, phương tiện. Người
đi áp tải phải đi theo hàng hoá suốt từ nơi đi đến nơi đến và phải được người
gửi hàng, hoặc người nhận hàng trang bị mọi thứ cần thiết để có thể chăm sóc
bảo đảm an toàn và nguyên vẹn cho hàng hoá.
Người áp tải phải có giấy giới
thiệu hợp lệ của người gửi hàng, phải xuất trình chứng minh thư khi bên vận tải
hoặc các cơ quan Nhà nước kiểm tra. Nếu phải thay đổi người áp tải dọc đường
thì người áp tải mới phải báo và xuất trình giấy giới thiệu và chứng minh cho
bên vận tải biết. Tên người áp tải và số chứng minh thư phải được ghi liên tiếp
vào giấy vận chuyển.
Nhiệm vụ cụ thể của người áp tải
do Bộ giao thông vận tải quy định.
Điều 14. Kỳ
hạn vận chuyển
Kỳ hạn vận chuyển gồm:
1- Nhận chở hàng ở nơi đi: một
ngày, tính từ 24 giờ của ngày nhận chở hàng, căn cứ vào ngày gửi trong giấy vận
chuyển hoặc bản sao giấy vận chuyển đã giao lại cho người gửi hoặc người nhận
hàng.
2- Mỗi lần thay đổi phương tiện
vận tải đã được quy định trước trong cùng một ngành vận tải như sang toa, sang
xe, sang mạn.... được tăng thêm:
a) Đường sông: 3 ngày
b) Đường sắt: 2 ngày,
c) ô tô: 1 ngày.
3- Mỗi nơi tiếp chuyển hàng hoá
giữa hai phương thức vận tải được tăng thêm một số ngày do Bộ giao thông vận
tải công bố, từng thời kỳ cho từng nơi tiếp chuyển.
4- Khi hàng hoá bị dừng lại ở
dọc đường vì những nguyên nhân sau đây thì kỳ hạn vận chuyển chung được cộng
thêm thời gian thực tế hàng hoá đã dừng lại.
a) Thời gian kiểm tra việc chấp
hành luật lệ cảu Nhà nước đối với lo hàng vận chuyển như kiểm tra hàng cấm lưu
thông.
b) Thời gian dừng lại do phải sử
dụng phương tiện vận tải để vận chuyển đột xuất theo mệnh lệnh của chính quyền
trong các trường hợp nói ở điều 7 của điều lệ này.
c) Thời gian dừng lại do biến
cố, thiên tai, địch hoạ hoặc do tai nạn và những trở ngại khác không do lỗi của
bên vận tải.
d) Thời gian dừng lại để làm
việc thuộc trách nhiệm của chủ hàng như sửa chữa lại bao bì không tốt, hoặc
thực hiện các yêu cầu đột xuất của chủ hàng đã được bên vận tải chấp nhận thực
hiện.
Thời gian và nguyên nhân hàng
hoá bị giữ lại dọc đường nói trên phải được bên vận tải ghi vào giấy vận chuyển
hàng hoá và các bản sao của giấy ấy.
5- Thời gian vậnchuyển: tính
theo kỳ hạn đã được quy định trong các điều lệ vận chuyển hàng hoá của mỗi
ngành vận tải.
Kỳ hạn vận chuyển của một lô
hàng (gửi theo một giấy vận chuyển ) kết thúc tính từ lúc bên vận tải sẵn sàng
giao trả hàng hoặc tính từ lúc bên vận tải đã đưa phương tiện vận tải chở lô
hàng ấy đến tại kho, bãi hay tại đường nhánh dùng riêng của chủ hàng.
Khi một lô hàng gửi theo một
giấy vận chuyển phải thay phương thức vận tải (giao hàng từ một phương thức vận
tải này qua một phương thức vận tải khác) để chuyển tiếp mà còn lại một phần
của lô hàng ấy phải gưỉ bù tiếp theo thì kỳ hạn vận chuyển đến cho cả lô hàng
sẽ được tính theo phần lô hàng đã chở đến trước theo giấy vận chuyển gốc. Phần
hàng gửi bù, nếu gửi đến nơi đến chậm quá gấp đôi kỳ hạn vận chuyển của toàn bộ
lô hàng âý thì bên vận tải phải chịu phạt về vận chuyển quá kỳ hạn cho phần lô
hàng đến chậm.
Điều 15.
Trách nhiệm xếp dỡ hàng hoá
Việc xếp hàng ở nơi hàng xuất
phát đầu tiên làm theo quy định trong điều lệ vận chuyển hàng hoá của ngành vận
tải nhận gửi hàng.
Việc dỡ hàng ở nơi hàng đến cuối
cùng hoặc làm theo quy định trong điều lệ vận chuyển hàng hoá của ngành vận tải
giao trả hàng.
Việc xếp dỡ ở kho đi của chủ
hàng hoặc ở kho đến của chủ hàng do chủ hàng đảm nhiệm.
Việc tiếp chuyển hàng từ đường
sắt lên ô tô hay ngược lại do đường sắt nơi tiếp chuyển đảm nhiệm.
Việc tiếp chuyển hàng từ đường sông
lên đường sắt hay ôtô và ngược lại do cảng tiếp chuyển đường sông đảm nhiệm .
Việc tiếp chuyển hàng từ đường
biển sang đường sông, đường sắt hay ô tô và ngược lại do cảng tiếp chuyển đường
biển đảm nhiệm.
Điều 16.
Sửa đổi giấy vận chuyển
1- Khi hàng hoá đã giao cho bên
vận tải để vận chuyển, người gửi hàng và người nhận hàng có ghi tên trên giấy
vận chuyển đều có quyền yêu cầu bên vận tải sửa đổi giấy vận chuyển.
Người gửi hàng có thể yêu cầu
sửa đổi:
a) Nơi đến cuối cùng của hàng
hoá
b) Tên người nhận hàng,
Người gửi hàng không được yêu
cầu sửa đổi nếu người nhận hàng đã nhận hàng.
Người nhận hàng có thể yêu cầu
sửa đổi:
a) Nơi đến cuối cùng của hàng
hoá,
b) Tên người nhận hàng.
Hai trường hợp sửa đổi này phải
ở trong phạm vi tên các tuyến đường mà phương tiện vận tải cuả các ngành vận
tải cuối cùng có thể vận chuyển được.
Khi yêu cầu sửa đổi thì người
gửi hàng và người nhận hàng không được yêu cầu phân chia lô hàng mà chỉ được
yêu cầu sửa đổi cho toàn bộ lô hàng (theo một giấy vận chuyển).
Người gửi và người nhận, mỗi
người chỉ có thể yêu cầu sửa đổi giấy vận chuyển một lần.
Nếu người gửi yêu cầu sửa đổi
thì người gửi giao giấy yêu cầu cho ngành cvận tải nơi hàng đi.
Nếu người nhận yêu cầu sửa đổi
thì người nhận giao giấy yêu cầu cho nơitiếp chuyển cuối cùng của lô hàng hoặc
giao cho nơi hàng đến trước khi dỡ hàng nếu lô hàng đã rời khỏi nơi tiếp chuyển
ấy.
2- Bên vận tải được từ chối yêu
cầu sửa đổi hoặc huỷ bỏ nếu:
a) Việc huỷ bỏ hoặc sửa đổi có
thể gây đảo lộn kế hoạch chung một cách nghiêm trọng;
b) Trái với luật lệ Nhà nước
hoặc trái với điều lệ của các ngành vận tải tham gia liên vận.
Khi từ chối yêu cầu sửa đổi thì
bên vận tải phải nhanh chóng báo cho chủ hàng biết lý do không cho phép chấp
nhận yêu cầu.
Khi bên vận tải thực hiện yêu
cầu sửa đổi của chủ hàng thì cước phí vận chuyển được tính thu theo thực tế,
tạp phí và các chi phí khác tính thu theo thực tế phát sinh. Tiền thủ tục phí
thay đổi, tiền phạt thay đổi kế hoạch được thu theo điểm 1 của Điều 16.
Điều 17.
Tính và thu cước phí, tạp phí
Giá cước liên vận hàng hoá là
giá cước hàng hoá của mỗi ngành vận tải tham gia liên vận trên chặng đường thực
tế vận chuyển của mỗi ngành vận tải cộng lại. Giá cước này được cộng thêm một
khoản phụ phí liên vận do Bộ trưởng Bộ giao thông vận tải quy định và công bố
sau khi đã thống nhất với Bộ Tài chính và Uỷ ban vật giá Nhà nước.
Ngoài khoản cước phí và phụ phí
nói trên, người gửi và người nhận hàng còn phải trả thêm những khoản tạp phí
quy định trong điều lệ vận chuyển hàng hoá, trong bản giá cước hàng hoá của mỗi
ngành vận tải tham gia liên vận và các khoản tạp phí phát sinh đột xuất (chưa
được quy định trước) mà nguyên nhân không do các ngành vận tải gây ra.
Những khoản tạp phí phát sinh
đột xuất phải được xác minh bằng chứng từ kèm theo giấy vận chuyển như biên lai
nhận tiền, hoá đơn, v.v... và phải được ngành vận tải nơi tạm ứng chi phí ấy
ghi vào giấy vận chuyển và các bản sao giấy vận chuyển ở những cột, những ô
dành cho việc ghi chép ấy.
Cước phí của hàng hoá trên toàn
bộ đường vận chuyển, tạp phí đã được quy định trước của mỗi ngành vận tải tham
gia liên vận hoặc phát sinh đột xuất ở nơi gưỉ hàng (cảng, bến, ga, trạm liên
vận) thì thu của người gửi hàng tại nơi gửi. Người gửi hàng phải trả ngay cho
bên vận tải nơi nhận chở hàng sau khi bên vận tải đã nhận xong hàng hoá và đã
ghi xong cước phí vào giấy vận chuyển hàng hoá.
Cước phí và tạp phí phát sinh ở
dọc đường hoặc ở nơi đến cuối cùng cũng thu nơi người gửi hàng ở nơi đi.
Việc thu thêm và trả lại cước
phí, tạp phí giữa chủ hàng và vận tải sẽ do bên vận tải nơi gửi chịu trách
nhiệm thu thêm hoặc trả lại với người gửi hàng còn việc điều chỉnh tiền thừa,
thiếu trong nội bộ giữa người gửi với người nhận trong nội bộ giữa các ngành
vận tải với nhau sẽ do các bên hữu quan làm tiếp sau.
Tất cả các khoản cước phí, tạp
phí đã tính và đã ghi trong giấy vận chuyển thì người gửi hàng phải trả đầy đủ
cho bên vận tải dù hàng hoá ghi trong giấy vận chuyển có bị thiếu hoặc bị hư
hỏng, chủ hàng không được tuỳ tiện khấu trừ vào cước phí và các tạp phí mà phải
căn cứ vào điều 19, 20, 21 của điều lệ này để đòi bên vận tải bồi thường hoặc
trả tiền phạt. Cước phí, tạp phí của chủ hàng thuộc thành phần kinh tế quốc
doanh sẽ trả cho bên vận tải theo thể thức do Ngân hàng quốc gia Việt Nam quy định. Đối với chủ hàng thuộc khu vực tập thể hoặc tư nhân thì thể thức thanh toán
tuỳ sự thoả thuận giữa bên vận tải và chủ hàng.
Chương 3
PHẠM VI TRÁCH NHIỆM CỦA
CÁC NGÀNH VẬN TẢI KHI HÀNG HOÁ LIÊN VẬN BỊ HƯ HỎNG, MẤT MÁT, THỪA THIẾU
Điều 18.
Hao hụt tự nhiên
Tỷ lệ hao hụt tự nhiên dưới đây
tạm thời áp dụng theo tỷ lệ quy định trong Hiệp định liên vận hàng hoá đường
sắt quốc tế (SMGS) trong lúc chờ Nhà nước ban hành tỷ lệ hao hụt chính thức cho
các loại hàng vận chuyển. Tuy nhiên, vì tình hình thời tiết và khí hậu vùng
nhiệt đới của nước ta, tuỳ theo không gian và thời gian của quá trình vận
chuyển, bên chủ hàng và bên vận tải có thể nâng lên hoặc hạ thấp tỷ lệ hao hụt
dưới đây và ghi tỷ lệ thoả thuận vào hợp đồng kinh tế và giấy vận chuyển.
1- Hai phần trăm (2%) khối lượng
đối với hàng chất lỏng, hoặc khi đưa đến nơi gửi để vận chuyển hàng còn ẩm ướt
và những loại hàng sau đây:
- Quặng man-ga-ne,
- Ma-nhe-di-um,
2- Một phẩy năm phần
trăm (1,5%) khối lượng đối với hàng hoá dưới đây:
- Củi, gỗ, vật liệu
bằng gỗ tre, nứa, lá, than gỗ,
- Vật liệu xây dựng
lấy từ khoáng sản,
- Dầu mỏ,
- Phân bón đóng
bao.
3- Một phần trăm (1%)
khối lượng đối với hàng hoá dưới đây:
- Nhiên liệu lấy ở
mỏ,
- Than cốc có dầu hoả,
- Quặng sắt,
- Vỏ cây,
- Lông chưa rửa,
- Men rượu,
- Xà phòng,
- Rễ cây.
4. Không phảy năm phần trăm
(0,5%) khối lượng đối với những hàng hoá khô khác trong khi vận chuyển bị hao
hụt.
Phạm vi trách nhiệm quy định
trên đây không được áp dụng nếu chứng minh được rằng việc khối lượng bị thiếu
không phải do nguyên nhân hao hụt vì tính chất tự nhiên của hàng hoá gây nên.
Nếu hàng hoá bị mất toàn bộ hoặc
bị mất một phần, khi tính tiền bồi thường thì không được trừ khối lượng bị hao
hụt của những kiện hàng bị mất.
Điều 19.
Mức bồi thường khi hàng hoá bị mất
1. Hàng hoá có khai giá: bồi
thường theo giá đã khai trong giấy vận chuyển về phần hàng bị mất;
2- Hàng không khai giá: bồi
thường theo giá ghi trong hoá đơn nơi bán, nơi cung cấp hoặc nơi sản xuất.
Trường hợp không có hoá đơn thì
bồi thường theo giá mậu dịch quốc doanh nơi người đề xuất việc bồi thường. Nếu
không có giá của mậu dịch quốc doanh thì mời Uỷ ban vật giá giám định giá. Phí
tổn giám định do bên gây ra tổn thất phải trả.
Ngoài số tiền bồi thường nói ở
điểm 1 và 2 bên vận tải còn phải hoàn lại cho chủ hàng cước phí, tạp phí có
liên quan đến hàng hoá bị mất. Nếu hàng hoá nói ở điểm 1 và 2 bị mất vì lý do
không chính đáng thì bên vận tải còn phải chịu phát tiền từ 1 đến 4 lần giá
hàng hoá nói trên đây. Mức phạt do Hội đồng trọng tài có thẩm quyền quyết định
tuỳ theo tình hình của mỗi vụ mất mát. Sau khi đã bồi thường, nếu tìm lại được
số hàng hoá bị mất, người yêu cầu bồi thường phải nhận lại hàng và phải trả lại
số tiền mà trước đây bên vận tải đã bôì thường. Trong trường hợp này, nếu hàng
hoá giao trả chậm quá kỳ hạn cho chủ hàng thì bên vận tải phải chịu phạt quá kỳ
hạn.
Điều 20.
Mức bồi thường khi hàng hoá bị hư hỏng
Bên vận tải bồi thường số tiền
tương đương với giá trị hàng hoá bị giảm vì hư hỏng, không phải hoàn lại tiền
cước và tạp phí khác. Mức bồi thường số hàng hoá bị giảm giá trị do bên vận tải
và chủ hàng thoả thuận. Nếu 2 bên không thống nhất về mức độ giảm giá trị cuả
hàng hoá thì mời cơ quan giám định của Nhà nước xác định; phí tổn giám định do
bên gây ra hư hỏng hàng phải chịu. Nếu hàng hoá có khai giá, bên vận tải phải
bồi thường phần hàng bị hư hỏng theo tỷ lệ giá đã khai - Mức bồi thường nêu
trên không được vượt quá số tiền bồi thường khi hàng hoá bị mất toàn bộ hoặc
không được vượt quá số tiền bồi thường cho một phần hàng hoá bị mất nếu việc hư
hỏng chỉ gây ra cho một phần hàng.
Điều 21.
Mức phạt về hàng hoá vận chuyển đến quá kỳ hạn
Hàng hoá vận chuyển đến quá kỳ
hạn do lỗi của bên vận tải thì ngành vận tải nào gây chậm trễ phải trả cho
người nhận hàng số tiền phạt tính theo tiền cước vận chuyển của ngành vận tải
gây chậm trễ theo tỷ lệ dưới đây:
- Một phần trăm (1%) tiền cước
vận chuyển, nếu thời gian quá hạn không vượt quá 2 phần 10 tổng kỳ hạn vận
chuyển;
- Hai phần trăm (2%) tiền cước
vận chuyển nếu thời gian quá hạn không vượt quá 3 phần 10 tổng kỳ hạn vận
chuyển;
- Ba phần trăm (3%) tiền cước
vận chuyển, nếu thời gian quá hạn vượt quá 3 phần 10 tổng kỳ hạn vận chuyển.
Khi hàng hoá vận chuyển quá kỳ
hạn ở một ngành vận tải này mà ngành vận tải khác rút ngắn được kỳ hạn vận
chuyển trên đoạn đường mình phụ trách thì được bù cho ngành vận tải đã vận
chuyển quá kỳ hạn trên đoạn đường của ngành ấy.
Tiền phạt vận chuyển đến quá kỳ
hạn chỉ phải trả trong trường hợp nếu bên vận tải không thực hiện đúng tổng kỳ
hạn vận chuyển từ nơi gửi đến nơi cuối cùng.
Khi bồi thường hàng hoá bị mất
toàn bộ thì không phải chịu phạt về vận chuyển quá kỳ hạn đối với lô hàng ấy.
Nếu hàng hoá bị mất một phần và lại quá kỳ hạn vận chuyển thì phải trả khoản
tiền phạt vì vận chuyển quá kỳ hạn đối với phần hàng hoá còn lại.
Khi hàng hoá bị hư hỏng, lại vận
chuyển quá kỳ hạn thì phải trả thêm tiền phạt về vận chuyển quá kỳ hạn ngoài
tiền bồi thường về hàng hoá bị hư hỏng.
Tiền phạt về vận chuyển quá kỳ
hạn một lô hàng cộng với tiền bồi thường về lô hàng bị mất một phân không được
vượt quá tổng số tiền bồi thường phải trả nếu lô hàng ấy bị mất toàn bộ.
Điều 22.
Phạm vi trách nhiệm của ngành vận tải
Các ngành vận tải tham gia liên
vận không chịu trách nhiệm bồi thường về mất mát toàn bộ hoặc một phần hàng
hoá, về hao hụt khối lượng hay về hàng hoá bị hư hỏng, nếu việc mất mát, hao
hụt khối lượng hoặc hàng hoá bị hư hỏng do những nguyên nhân sau đây:
1- Do thiên tai, địch hoạ mà bên
vận tải không thể phòng ngừa được và không thể khắc phục được;
2- Do tính chất tự nhiên và đặc
biệt của hàng hoá gây ra sự cháy, nứt, vỡ, rỉ, thối nát bên trong và những hậu
quả tương tự;
3- Do những nguyên nhân có liên
quan đến việc xếp dỡ hàng trong trường hợp hàng hoá do phía chủ hàng chịu trách
nhiệm xếp dỡ hoặc do khai không đúng, không chính xác, không đầy đủ trên giấy
vận chuyển;
4- Do người áp tải hàng hoá của
người gửi hàng chưa dùng những biện pháp cần thiết để bảo toàn hàng hoá;
5- Do những khuyết điểm của đồ
chứa hoặc bao bì mà lúc nhận vận chuyển, bề ngoài không thể phát hiện được;
6- Do hàng hoá bị hao hụt về
khối lượng trong phạm vi quy định ở điều 18 của điều lệ này.
Bên vận tải cũng không chịu
trách nhiệm bồi thường về khối lượng bị thiếu hụt nếu bao bì còn nguyên vẹn, số
lượng đầy đủ.
Bên vận tải cũng không chịu
trách nhiệm bồi thường về việc thiếu các bộ phận và các phụ tùng trong ô tô,
máy kéo và các máy móc khác đã được niêm phong mà niêm phong của người gửi còn
nguyên vẹn.
Khi hàng hoá bị mất mát,. hư
hỏng,thối nát do nguyên nhân nói ở điểm 1, 2, 3, của điều này thì bên vận tải
phải chứng minh; nếu do nguyên nhân nói ở các điểm từ 4 đến 6 của điều này thì
sự tổn thất đó mặc nhiên coi như do những nguyên nhân ấy gây nên nếu người gửi
hoặc người nhận chưa nêu ra được nguyên nhân nào khác để bác bỏ.
Chương 4
YÊU CẦU BỒI THƯỜNG,
PHẠT, KIỆN CÁO THỜI GIAN CÓ HIỆU LỰC ĐỂ YÊU CẦU BỒI THƯỜNG, TRẢ TIỀN PHẠT, KIỆN
CÁO
Điều 23.
Yêu cầu bồi thường và trả tiền phạt
Người gửi hoặc người nhận hàng,
căn cứ theo giấy vận chuyển hàng hoá, có quyền đề ra yêu cầu bồi thường hoặc
yêu cầu trả tiền phạt với bên vận tải. Nếu người gửi hoặc người nhận hàng cử
đại diện thay mặt mình để đòi bồi thường hoặc trả tiền phạt thì phải có giấy uỷ
quyền hợp pháp của người gửi hoặc người nhận hàng.
Yêu cầu bồi thường hoặc trả tiền
phạt phải làm bằng giấy tờ.
Người gửi hàng yêu cầu bồi
thường hoặc trả tiền phạt thì đề ra cho ngành vận tải nơi gửi hàng; người nhận
hàng thì đề ra cho ngành vận tải nơi hàng đến.
Giấy yêu cầu bồi thường hoặc trả
tiền phạt phải làm riêng cho lô hàng gửi theo từng giấy vận chuyển.
Bên vận tải, căn cứ vào giấy vận
chuyển, có quyền đề ra yêu cầu bồi thường, trả tiền phạt, trả thêm cước phí,
tạp phí với người gửi hoặc người nhận hàng.
Khi đề ra yêu cầu bồi thường
hoặc trả tiền phạt thì chủ hàng phải gửi kèm theo bản sao giấy vận chuyển, biên
bản thương vụ, hoá đơn và các chứng từ cần thiết khác.
Điều 24.
Thời gian có hiệu lực để đề ra yêu cầu bồi thường và phạt
Thời gian có hiệu lực để đề ra
yêu cầu bồi thường hoặc trả tiền phạt giữa chủ hàng và bên vận tải quy định như
sau:
1- Đối với hàng hoá vậnchuyển
quá kỳ hạn: 30 ngày kể từ ngày giao trả hàng;
2- Đối với các trường hợp khác:
60 ngày. Ngày bắt đầu để tính thời gian 60 ngày quy định như sau:
a) Nếu đòi bồi thường hàng hoá
bị hư hỏng thì tính kể từ ngày hôm sau ngày trao trả hàng;
b) Nếu đòi bồi thường hàng hoá
bị mất thì kể từ ngày hôm sau ngày mà bên vận tải đã công nhận với chủ hàng là
hàng đã bị mất, hoặc kể từ ngày thứ ba mươi, sau ngày hết kỳ hạn vận chuyển mà
bên vận tải không có hàng để giao trả;
c) Nếu đòi tiền cước phí, tạp
phí thu thừa, hoặc thu thiếu thì tính kể từ ngày giao hàng trả cho người nhận
hàng;
d) Đối với các trường hợp đòi
bồi thưòng hoặc đòi phạt khác thì kể từ ngày hôm sau ngày xảy ra sự việc gây ra
thiệt hại hoặc vi phạm điều lệ để đề xuất yêu cầu bồi thường hoặc đòi phạt.
Thời gian có hiệu lực được kéo dài thêm nếu có quyết định của Hội đồng trọng
tài cho phép. Thời gian được kéo dài không được quá mức thời gian quy định trên
đây và chỉ được quyết định cho từng giấy vận chuyển hàng hoá liên vận.
Điều 25.
Thời hạn xét và giải quyết yêu cầu bồi thưòng, yêu cầu trả tiền phạt
Bên vận tải cũng như bên chủ
hàng, khi nhận được giấy yêu cầu bồi thường, yêu cầu trả tiền phạt của bên kia,
phải giải quyết trong thời hạn sau đây:
- 60 ngày đối với việc thu thừa,
thu thiếu cước phí và tạp phí vận chuyển;
- 120 ngày đối với các yêu cầu
bồi thường và phạt khác.
Ngày nhận giấy yêu cầu là ngày,
tháng của bưu điện nơi gửi đóng dấu trên phong bì. Khi giấy yêu cầu giao trực
tiếp cho bên nhận thì ngày nhận là ngày tháng ký nhận trên sổ giao nhận công
văn của bên giao.
Nếu từ chối yêu cầu bồi thường
hoặc trả tiền phạt thì phải gửi trả lại những giấy tờ liên quan đến vụ bồi
thường hoặc trả tiền phạt cho bên kia.
Điều 26.
Kiện cáo
Khi bên nhận được giấy yêu cầu
bồi thường hoặc giấy yêu cầu trả tiền phạt mà từ chối một phần hoặc toàn bộ yêu
cầu hoặc để quá thời hạn giải quyết quy định ở điều 25, bên đòi bồi thường hoặc
đòi trả tiền phạt có quyền đưa đơn kiện đến cơ quan có thẩm quyền xét xử theo
quy định hiện hành của Nhà nước.
Những yêu cầu bồi thường mà thời
gian có hiệu lực quy định ở Điều 24 của điều lệ này đã hết thì không được đề ra
yêu cầu bồi thường hoặc kiện cáo, trừ trường hợp do các cơ quan xét xử cấp trên
có thẩm quyền cho kéo dài thời gian có hiệu lực hoặc yêu cầu đưa ra xét xử.
Chương 5
TỔ CHỨC CÔNG TY VẬN TẢI
Ô TÔ ĐƯỜNG NGẮN VÀ ĐẠI LÝ GỬI, NHẬN HÀNG
Điều 27.
Mục đích của tổ chức công ty vận tải ô tô đường ngắn và đại lý gửi nhận hàng
Đưa hàng từ kho chủ hàng đến các
ga đường sắt, cảng sông, cảng biển hoặc đưa hàng ra khỏi các nơi này đến kho
chủ hàng trên cơ sở hợp đồng ký kết giữa công ty vận tải ô tô đường ngắn và chủ
hàng.
Mục đích của tổ chức đại lý gửi,
nhận hàng là thay mặt chủ hàng làm các thủ tục thương vụ, gửi và nhận hàng với
các ga đường sắt, xí nghiệp vận tải đường sông, đường biển trên sở sở hợp đồng
ký kết giữa tổ chức đại lý gửi, nhận hàng và chủ hàng, giữa đại lý gửi và nhận
hàng với các ga, xí nghiệp vận tải đường sông, đường biển. Sự kết hợp chặt chẽ
giữa tổ chức liên hiệp vận chuyển hàng hoá với công ty vận tải ô tô đường ngắn
và đại lý gửi nhận hàng hoặc với đại lý gửi, nhận hàng ở ga, cảng là một khâu
quan trọng trong phương thức liên vận hàng hoá.
Trong công tác liên hiệp vận
chuyển hàng hoá, công ty vận tải ô tô đường ngắn và đại lý gửi, nhận hàng hoặc
các đại lý gửi, nhận hàng ở ga, cảng có nhiệm vụ mở đầu ở nơi hàng hoá thật sự
bắt đầu di chuyển cho đến khi hàng hoá kết thúc ở nơi đến, có nghĩa là làm cho
lô hàng đó đi từ kho của người gửi đến kho người nhận nhanh chóng,thông suốt,
an toàn, giảm bớt cho bên chủ hàng những giao dịch trực tiếp với các ngành vận
tải, đồng thời cũng tạo thuận lợi cho các ngành vận tải hoàn thành kế hoạch
chung của Nhà nước.
Điều 28.
Tổ chức công ty vận tải ô tô đường ngắn và đại lý gửi nhận hàng
Một công ty vận tải ô tô đường
ngắn kiêm đại lý gửi, nhận hàng thuộc Cục vận tải đường bộ được tổ chức ở khu
đầu mối Hà Nội bao gồm các ga Đông Anh, Cổ Loa, Yên Viên, Gia Lâm, Hà Nội, Giáp
Bát, Văn Điển và cảng Hà Nội.
Cảng Hải Phòng thuộc Cục vận tải
đường biển và cảng Hà Nội thuộc Cục vận tài đường sông sẽ đảm nhiệm đại lý gửi
nhận hàng cho một số mặt hàng mở rộng dần trong một phạm vi nhất định nói sau
đây, sau một thời kỳ thí điểm sẽ rút kinh nghiệm và mở rộng ở các thành phố
khác và các tỉnh.
Điều 29.
Phạm vi kinh doanh của công ty
Công ty vận tải ô tô đường ngắn
kiêm đại lý gửi nhận hàng sẽ:
1- Nhận vận chuyển hàng hoá cho
chủ hàng từ kho đến ga đường sắt, cảng sông, cảng biển và ngược lại trong phạm
vi từ 30 km trở xuống khi chủ hàng ký hợp đồng thuê phương tiện đường ngắn hoặc
uỷ nhiệm thay mặt làm đại lý gửi, nhận hàng với các ngành vận tải đường dài;
2- Cảng Hà Nội làm đại lý gửi,
nhận hàng trong phạm vi từ 10 km trở xuống;
3- Cảng Hải Phòng làm đại lý
gửi, nhận hàng trong phạm vi cảng và ở các khâu sang mạn giữa tàu nước ngoài
với phương tiện vận tải nội địa.
Điều 30. Lệ
phí
Ngoài tiền cước phí vận chuyển
và cước phí xếp dỡ mà công ty được phép thu theo biểu giá cước vận chuyển xếp
dỡ hiện hành, còn được thu thêm một khoản lệ phí đại lý nói ở Điều 29 của điều
lệ này.
Chương 6