BỘ
GIAO THÔNG VẬN TẢI
--------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
----------------
|
Số:
5974/BGTVT-KHĐT
|
Hà
Nội, ngày 19 tháng 09 năm 2007
|
BÁO CÁO
KẾT
QUẢ KIỂM TRA THỰC HIỆN QUY HOẠCH TỔNG THỂ PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG CẢNG BIỂN VIỆT
NAM ĐẾN NĂM 2010
Kính
gửi: Thủ tướng Chính phủ
Thực hiện Quyết định số 232/QĐ-TTg,
ngày 13/2/2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch kiểm tra
việc thực hiện chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch của Chính phủ năm
2007. Trong đó giao nhiệm vụ cho Bộ Giao thông vận tải chủ trì, phối hợp
với các Bộ Kế hoạch-Đầu tư, Tài chính, Công nghiệp và Tài nguyên & Môi
trường kiểm tra việc thực hiện Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng biển
Việt Nam đến năm 2010.
Bộ Giao thông vận tải xin báo cáo
Thủ tướng Chính phủ về kết quả kiểm tra như sau:
A. Quá trình triển khai công tác
kiểm tra quy hoạch
Triển khai nhiệm vụ Thủ tướng Chính
phủ giao, Bộ Giao thông vận tải đã thực hiện các công việc sau:
1. Bằng Quyết định số 1120/QĐ-BGTVT
ngày 18/4/2007 Bộ Giao thông vận tải đã thành lập Đoàn kiểm tra việc thực
hiện Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam đến năm 2010 bao
gồm đại diện Bộ GTVT, Kế hoạch - Đầu tư, Tài chính, Công nghiệp và Tài nguyên
& Môi trường.
2. Gửi công văn số: 1939/BGTVT-KHĐT
ngày 12/4/2007 đến các Bộ, UBND các Tỉnh, Thành phố có cảng biển, các Tập đoàn,
các Tổng công ty và các cảng biển, yêu cầu báo cáo về tình hình đầu tư xây
dựng, quản lý, khai thác cảng biển do cơ quan mình quản lý.
3. Tiến hành thị sát hiện trường
các cảng biển trên toàn quốc. Việc kiểm tra, thị sát hiện trường được chia
thành 3 đợt:
- Đợt 1: Kiểm tra các cảng biển khu
vực miền Bắc (từ ngày 24-25/5/2007);
- Đợt 2: Kiểm tra các cảng biển khu
vực miền Nam (từ ngày 4-8/6/2007);
- Đợt 3: Kiểm tra các cảng biển khu
vực miền Trung (từ ngày 18-22/6/2007).
4. Tổ chức họp với UBND các Tỉnh,
Thành phố và nghe các doanh nghiệp quản lí khai thác cảng báo cáo những nội
dung sau:
- Tình hình thực hiện Quy hoạch
tổng thể phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam đến năm 2010 và các Quy hoạch
chi tiết 8 nhóm cảng biển;
- Kết quả thực hiện các chương
trình, dự án và các hạng mục công trình cảng biển chính đã được quyết định đầu
tư, các dự án cảng biển đang được nghiên cứu và các dự án cảng biển đang đăng
ký xin đầu tư trong khu vực v.v….;
- Kết quả thực hiện các giải pháp,
cơ chế chính sách đã được ban hành để đạt mục tiêu quy hoạch. Những vấn đề
không phù hợp hoặc mới phát sinh, thay đổi so với quy hoạch đã được duyệt,
những đề xuất sửa đổi cần được bổ sung, điều chỉnh quy hoạch.
Nội dung các cuộc họp được ghi
trong các Thông báo (gửi kèm theo).
B. Kết quả kiểm tra quy hoạch
cảng biển
I. Hiện trạng và năng lực của hệ
thống cảng biển Việt Nam
1. Hàng hóa và đội tầu thông qua
cảng
Giai đoạn 1999-2006, tổng khối
lượng hàng hóa thông qua hệ thống cảng biển Việt Nam bao gồm hàng xuất khẩu,
nhập khẩu và nội địa tăng hơn 2 lần, với tốc độ 11,36% hàng năm. Trong đó, hàng
container tăng 3,35 lần với tốc độ 18,9%; hàng lỏng tăng gấp 1,3 lần với tốc độ
3,89%, hàng khô tăng gấp 2,42 lần với tốc độ 13,57%; hàng quá cảnh tăng gấp
2,28 lần với tốc độ 11,23%; hành khách qua cảng biển tăng 1,96 lần với tốc độ
23,02%; số lượng tầu thuyền tăng gấp 2 lần với tốc độ 12,37%.
Năm 2006, hàng hóa thông qua hệ thống
cảng biển Việt Nam đạt 154,49 triệu tấn, trong đó hàng container đạt 3,42 triệu
TEU, hàng lỏng đạt 34,8 triệu tấn, hàng khô đạt 67,76 triệu tấn, hành khách đạt
233 ngàn lượt và có 62,3 ngàn lượt tầu ra vào các cảng biển.
2. Đặc điểm và chủng loại hàng hóa
thông qua cảng
- Khu vực phía Bắc, khối lượng hàng
hóa qua cảng biển tăng trưởng hàng năm 18,33% về tấn và 20,69% về container.
Năm 2006, các cảng biển khu vực phía Bắc xếp dỡ được khối lượng hàng hóa chiếm
29,34% về tấn và 22,79% về container tổng khối lượng hàng hóa của cả nước. Hàng
hóa qua cảng chiếm tỷ trọng lớn là than và khoáng sản.
- Khu vực miền Trung, khối lượng
hàng hóa qua cảng biển tăng trưởng hàng năm 8,11% về tấn và 33,5% về container.
Năm 2006, các cảng biển khu vực miền Trung xếp dỡ được khối lượng hàng hóa
chiếm 12% về tấn và 2,7% về container tổng khối lượng hàng hóa của cả nước.
Hàng hóa qua cảng chiếm tỷ trọng lớn là vật liệu xây dựng, gỗ cây, gỗ xẻ, gỗ
dăm mảnh và các sản phẩm khai thác mỏ;
- Khu vực miền Nam, khối lượng hàng hóa qua cảng biển tăng trưởng hàng năm 7,81% về tấn là 18,61% về
container. Năm 2006, các cảng biển khu vực miền Nam xếp dỡ được khối lượng hàng
hóa chiếm 58,66% về tấn và 74,51% về container tổng khối lượng hàng hóa của cả
nước. Hàng hóa qua cảng chiếm tỷ trọng lớn là nông sản, phân bón, máy móc và
linh kiện bao gồm cả linh kiện xe máy, quặng, hàng kim khí, xuất khẩu gỗ, gỗ xẻ
và các sản phẩm từ các khu công nghiệp… thể hiện quá trình công nghiệp hóa đang
diễn ra nhanh chóng ở khu vực này, đặc biệt là vùng KTTĐ phía Nam.
3. Cơ cấu và năng lực của hệ thống
cảng biển Việt Nam
Hiện nay, hệ thống cảng biển Việt
Nam có 160 bến cảng, 305 cầu cảng, tổng chiều dài tuyến bến đạt 36,164 km, công
suất thông qua hàng hóa khoảng 130 triệu tấn/năm. Như vậy, giai đoạn 1999-2007,
quy mô hệ thống cảng biển Việt Nam đã tăng gấp 1,8 lần về chiều dài cầu bến, và
tăng gấp hơn 3 lần về công suất thông qua. Tốc độ xây dựng cầu bến tăng 6% mỗi
năm, bình quân mỗi năm xây dựng được gần 2 km bến.
Hàng hóa qua cảng chủ yếu tập trung
vào khoảng 15 bến cảng chính là Tân Cảng, Sài Gòn, Hải Phòng, Bến Nghé, VICT,
Quy Nhơn, Cái Lân, Đà Nẵng, Nha Trang … Năm 2006, các cảng này xếp dỡ khối
lượng hàng hóa chiếm trên 30% về tấn và trên 90% về container trong tổng số
hàng hóa thông qua hệ thống cảng biển Việt Nam. Trong số các cảng này, Tân Cảng
là cảng duy nhất chỉ xếp dỡ hàng container và chiếm 50% khối lượng container
của toàn quốc.
Như vậy, trong cơ cấu hệ thống cảng
biển Việt Nam thì số lượng bến cảng tổng hợp và bến cảng chuyên dùng chiếm chủ
yếu, bến container chiếm rất ít, trong khi xu hướng vận chuyển hàng hóa bằng
container và nhu cầu sử dụng bến container đang tăng lên rất cao, đặc biệt là
tại các cảng biển khu vực KTTĐ phía Nam.
Về khả năng tiếp nhận của cầu bến,
trong toàn bộ hệ thống cảng biển Việt Nam, số lượng cầu cảng có khả năng tiếp
nhận tầu trọng tải trên 5 vạn rất ít, chỉ chiếm 1,15%, chủ yếu là cầu chuyên
dụng, không có cầu cảng tổng hợp nào. Cầu cảng khả năng tiếp nhận tầu trong tải
từ 3-5 vạn chiếm 8,84%, từ 2-3 vạn chiếm 8,07%, từ 1-2 vạn chiếm 35,38% và dưới
1 vạn chiếm 46,53%.
4. Hệ thống giao thông nối với cảng
a. Luồng tầu
Hệ thống luồng lạch ra vào các cảng
biển Việt Nam phần lớn dọc theo các con sông, mức dao động thủy triều khá lớn,
chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi sa bồi, luồng lạch dài, chiều sâu hạn chế. Hiện
nay, lưu lượng tầu thuyền ra vào các cảng sẽ tăng đáng kể cùng với sự gia tăng
của nhu cầu hàng hóa. Tuy nhiên kích cỡ tầu bị hạn chế do luồng tầu dẫn vào
cảng nông, hẹp và bị sa bồi. Đặc biệt ở hai cụm cảng chính hiện nay là ở miền
Bắc là cảng Hải Phòng, cảng Cái Lân và miền Nam là cảng Sài Gòn:
- Luồng tầu vào cảng Hải Phòng: Đã
được cải tạo nâng cấp hạ độ sâu từ -4,5 lên -7,3 ở đoạn luồng biển và -5,5 ở
đoạn luồng sông và nạo vét mở rộng lên 100 m ở đoạn luồng biển và 80 m ở đoạn
luồng sông, có thể tiếp nhận được tàu 10.000 DWT. Tuy nhiên, để tầu 10.000 DWT
đầy tải có thể ra vào 24/24 và tầu lớn đến 20.000DWT chở non tải lợi dụng thủy
triều ra vào thì phải nạo vét đoạn luồng sông đến -7,2m
- Luồng Cái Lân: Luồng trong đã
được nạo vét cho tầu 40.000 DWT ra vào. Tuy nhiên, luồng ngoài còn một đoạn cạn
dài 7,5-8 km phải được nạo vét hạ độ sâu -8m xuống -10m mới có thể tiếp nhận
được tầu 40.000 DWT (luồng này ít sa bồi, do chưa đầu tư). Hiện Cục HHVN dự
kiến sẽ nạo vét hạ độ sâu đoạn luồng này xuống -10m vào cuối năm 2007.
- Luồng Vũng Tàu - Sài Gòn: Có độ
sâu toàn tuyến đạt -8,5 m và chỗ hẹp nhất là 150 m nên tầu 20.000 DWT ra vào
trong điều kiện hạn chế.
- Luồng tầu vào cảng Cần Thơ: Chỉ
có thể cho tầu trọng tải 3000-5000 DWT ra vào do đoạn luồng cửa Định An bị sa
bồi nặng. Hàng năm, đoạn luồng qua cửa Định An phải thường xuyên nạo vét 2 lần
với kinh phí hàng chục tỷ đồng mỗi năm. Nhưng thời gian duy trì độ sâu sau nạo
vét chỉ khoảng 2 tháng. Để giải quyết cho tầu trọng tải 10.000 DWT ra vào cảng
Cần Thơ, Bộ GTVT đang triển khai dự án đầu tư xây dựng luồng tầu mới qua kênh
Quan Chánh Bố, tỉnh Trà Vinh. Quy mô luồng tầu mới có chiều dài tổng cộng 40
km. Tổng mức đầu tư của dự án là 3.148,502 tỷ đồng (theo giá năm 2006) tương đương
198,019 triệu USD. Dự án đã được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận và giao Bộ GTVT
quyết định đầu tư. Hiện nay, Bộ GTVT đang tiến hành rà soát, chuẩn xác lại tổng
mức đầu tư và làm rõ một số yếu tố kỹ thuật liên quan quyết định đầu tư trong
năm 2007. Dự kiến dự án sẽ được khởi công năm 2008 và hoàn thành năm 2010-2011.
Công tác quản lý luồng lạch nói
chung, hệ thống phao tiêu tín hiệu dẫn luồng nói riêng đã từng bước được hiện
đại hóa;
b. Hệ thống giao thông đường bộ,
đường sắt
Hầu hết các cảng biển Việt Nam đều có hệ thống đường ô tô nối liền với đường quốc gia. Những năm gần đây, do sự phát
triển nhanh của vận tải container nên mật độ giao thông trên các tuyến đường
này là quá lớn, mặt khác các cảng đều nằm gần trung tâm dân cư nên tình trạng
ách tắc giao thông hường xuyên, thậm chí có cảng xe ô tô chỉ được phép hoạt
động về ban đêm như Tân Cảng, Bến Nghé, Tân Thuận; điều này đã hạn chế rất
nhiều năng lực của các cảng.
Mặc dù vận tải đường sắt có rất
nhiều lợi thế so với đường bộ song hiện nay chỉ có cảng Hải Phòng có đường sắt
trực tiếp vào tới tận cầu tàu. Để vận chuyển được container, các toa xe phải
được cải tiến và đồng thời phải trang bị các thiết bị bốc xếp container tại các
ga đường sắt. Với hệ thống đường đơn và luôn phải đi xuyên qua các thành phố
lớn nên việc vận chuyển hàng hóa chỉ được thực hiện vào ban đêm là chủ yếu, vì
vậy hiệu quả của vận tải đường sắt cũng bị hạn chế.
5. Công nghệ bốc xếp
Trừ một số bến cảng như Tân Cảng,
cảng VICT, cảng Chùa Vẽ Hải Phòng đã trang bị một số thiết bị xếp dỡ hiện đại,
chuyên dùng container, còn lại hầu hết các cảng biển Việt Nam chủ yếu sử dụng
thiết bị bốc xếp thông thường, thô sơ hoặc cần cẩu tầu, do thiếu các trang
thiết bị xếp dỡ chuyên dụng. Các hoạt động bốc xếp nhiều khi còn mang tính chắp
vá nên hiệu quả kinh tế chưa cao, bộc lộ một số nhược điểm sau:
- Năng suất bốc xếp chưa cao, dẫn
đến việc giải phóng tàu chậm;
- Hoạt động quản lý và khai thác
bãi chưa áp dụng công nghệ thông tin hiện đại nên hiệu quả thấp.
Kết quả là năng suất xếp dỡ bình
quân tại các cảng biển ở Việt Nam còn thấp. Đối với hàng tổng hợp chỉ đạt trung
bình 2.500 T/md (bằng 1/2 so với các cảng trong khu vực); đối với hàng
container chỉ đạt trung bình 8-15 cont./h (bằng 1/3 so với các cảng trong khu
vực). Đó là một trong những nguyên nhân làm cho chi phí vận tải biển của Việt Nam hiện còn ở mức cao so với các nước trong khu vực, làm giảm tính cạnh tranh của hàng hóa và của
cảng biển Việt Nam so với khu vực;
6. Quản lý khai thác cảng biển
Hệ thống cảng biển Việt Nam hiện được thống nhất về mặt quản lý nhà nước. Tuy nhiên, về quản lý đầu tư, khai thác
đã và đang được đa dạng hóa, xã hội hóa, cụ thể như sau:
- Bộ Giao thông vận tải, các Bộ
ngành khác như Bộ Quốc phòng, Bộ Xây dựng, Bộ Công Thương, Bộ NN và PTNT…
- Các Doanh nghiệp nhà nước (Tổng
Công ty Hàng hải Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp tầu thủy Việt Nam, Tập đoàn
điện lực Việt Nam, Tổng Công ty Xi Măng, Tổng Công ty Xăng Dầu…)
- Các cơ quan thuộc tỉnh, địa
phương (Sở GTVT, Sở Thủy sản, Sở Du lịch…).
- Các nhà máy, doanh nghiệp, Ban QL
khu công nghiệp, khu kinh tế (cảng chuyên dụng cho nhà máy điện, nhà máy xi
măng, nhà máy thép, khu công nghiệp, khu kinh tế, kho xăng dầu…)
- Liên doanh với nước ngoài (cảng
liên doanh), v.v.;
II. Công tác xây dựng quy hoạch
và tổ chức thực hiện
1. Công tác xây dựng các quy hoạch
phát triển cảng
Sau khi Quy hoạch tổng thể phát
triển hệ thống cảng biển Việt Nam đến năm 2010 được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt, Bộ GTVT đã chỉ đạo lập và phê duyệt Quy hoạch chi tiết (QHCT) 8 nhóm
cảng biển. Đồng thời, để đáp ứng nhu cầu thực tế, Bộ GTVT đã chỉ đạo lập, phê
duyệt Quy hoạch chi tiết cảng biển Dung Quất đến năm 2010; QHCT cảng trung
chuyển quốc tế Vân Phong; Quy hoạch di dời các cảng trên sông Sài Gòn và NMĐT
Ba Son (ghép chung vào QHCT Nhóm cảng biển số 5); Quy hoạch cảng biển lớn cho
khu vực đồng bằng sông Cửu Long (ghép chung vào QHCT Nhóm cảng biển số 6).
Tuy nhiên, đến nay vẫn còn Quy
hoạch cảng biển Nghi Sơn - Thanh Hóa chưa được phê duyệt do Quy hoạch khu cảng
xuất sản phẩm của Nhà máy lọc dầu số 2 tại Nghi Sơn chưa hoàn thành.
2. Tổ chức thực hiện quy hoạch
Sau khi Quy hoạch được duyệt, đã
triển khai các việc sau:
- Phổ biến tuyên truyền quy hoạch
đến các địa phương liên quan, hướng dẫn các đơn vị, cơ quan quản lý và doanh
nghiệp liên quan triển khai thực hiện.
- Trên cơ sở các quy hoạch, xây
dựng kế hoạch đầu tư phát triển cảng biển trong kế hoạch 5 năm, hàng năm của
ngành, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội theo từng thời kỳ.
- Thực hiện quản lý đầu tư xây dựng
các cảng biển trên toàn quốc, về cơ bản đã theo đúng quy hoạch được duyệt. Bộ
GTVT quyết định điều chỉnh kịp thời các nội dung cụ thể của cảng biển không
trái với chức năng quy mô của các nhóm cảng trong quy hoạch. Trường hợp cần bổ
sung, điều chỉnh quy hoạch, Cục Hàng hải Việt Nam nghiên cứu báo cáo Bộ GTVT
xem xét quyết định hoặc trình Thủ tướng Chính phủ xem xét quyết định đối với
các nội dung vượt thẩm quyền.
- Phối hợp với UBND các địa phương
để theo dõi, quản lý quỹ đất theo đúng quy định của pháp luật đáp ứng nhu cầu
xây dựng cảng biển theo quy hoạch được duyệt. Đồng thời, tổ chức xây dựng các
mạng lưới đường bộ, đường sắt, đường sông và luồng tầu biển nhằm khai thác đồng
bộ cảng biển và nâng cao khả năng thông qua của cảng biển;
(Tình hình thực hiện quy hoạch
và các dự án, xem chi tiết tại Phụ lục 1).
3. Kết quả đạt được
- Quá trình nghiên cứu lập quy
hoạch phát triển cảng biển đã được triển khai theo đúng các trình tự thủ tục
quy định. Một số đề án quy hoạch đã học tập được kinh nghiệm phát triển cảng
của các nước tiên tiến qua sự giúp đỡ về tài chính, tham gia trực tiếp hoặc
chuyên gia tư vấn của các tổ chức quốc tế như Quy hoạch phát triển cảng khu vực
miền Trung, miền Nam, Quy hoạch chi tiết cảng trung chuyển quốc tế Vân Phong…
nên sản phẩm có độ tin cậy, khả thi cao;
- Thông qua việc lập quy hoạch, đã
khảo sát đánh giá được điều kiện tự nhiên, các vị trí có thể phát triển cảng
biển để đưa vào quy hoạch. Qua đó xác định rõ tiềm năng thiên nhiên về phát
triển cảng biển trên phạm vi cả nước.
- Quy hoạch phát triển cảng biển
được duyệt đã cùng với các văn bản pháp lý khác như Bộ Luật Hàng hải, Nghị định
của Chính phủ về quản lý cảng biển và luồng hàng hải… thực sự là khung pháp lý
quan trọng định hướng cho việc đầu tư xây dựng phát triển và kinh doanh khai
thác cảng biển, là công cụ không thể thiếu cho việc quản lý nhà nước chuyên
ngành cảng biển trong thời gian qua.
- Hệ thống cảng biển Việt Nam đã cơ
bản hình thành, tạo nên mạng lưới cảng biển trên toàn quốc với các cảng biển có
các chức năng khác nhau, bao gồm cảng biển tổng hợp quốc gia, cảng biển quan
trọng của địa phương và khu vực, cảng cửa ngõ cho các vùng KTTĐ miền Bắc, miền
Trung và miền Nam, cảng trung chuyển container quốc tế. Quy hoạch đã cơ bản
hình thành được 3 cụm cảng biển lớn phục vụ vận tải biển cho các vùng KTTĐ miền
Bắc, miền Trung và miền Nam; cùng với các cảng vệ tinh dọc theo bờ biển làm
nhiệm vụ tiếp chuyển cho các cảng lớn, hình thành một mạng lưới cảng biển hoàn
chỉnh.
- Quy hoạch cũng đã xác định được
kế hoạch và thứ tự ưu tiên đầu tư cho các dự án cảng trọng điểm Cái Lân, Hải
Phòng, Cửa Lò, Nha Trang, Quy Nhơn, Sài Gòn, Cần Thơ, Chú trọng phát triển các
cảng tổng hợp quan trọng phục vụ sự phát triển của các cảng địa phương, các khu
kinh tế như cảng Đình Vũ, Nghi Sơn, Vũng Áng, Dung Quất. Đồng thời còn lập kế
hoạch đầu tư xây dựng các cảng cửa ngõ Lạch Huyện, Cái Mép - Thị Vải, cảng
trung chuyển quốc tế Vân Phong và kế hoạch di dời các cảng trên sông Sài Gòn và
NMĐT Ba Son.
d. Tồn tại
- Tổng khối lượng hàng hóa dự báo
giai đoạn 2003 và 2010 là tương đối hợp lý; tuy nhiên tại một số cảng biển quan
trọng ở các vùng KTTĐ, số liệu dự báo thấp hơn thực tế. Ví dụ như khối lượng
hàng thông qua cảng khu vực Tp. Hồ Chí Minh, khu vực Hải Phòng năm 2006 đã vượt
lượng hàng dự báo cho năm 2010.
- Do tầm nhìn của quy hoạch còn
ngắn và năm mục tiêu để lập dự báo khá gần (năm 2010) nên quy hoạch chưa tạo
được sự chủ động, phát triển đột phá cho cảng biển Việt Nam;
- Việc tổ chức lập, phản biện, thẩm
định và phê duyệt Quy hoạch bị kéo dài, quy hoạch chậm được triển khai, đã ảnh
hưởng đến tiến độ thực hiện các dự án đầu tư xây dựng cảng biển, nhất là cảng
trung chuyển, cảng cửa ngõ quốc tế.
- Còn thiếu đồng bộ giữa quy hoạch
cảng biển với các quy hoạch luồng, đường giao thông nối cảng vào mạng lưới giao
thông quốc gia, đến các khu công nghiệp; quy hoạch hệ thống cấp điện, hệ thống
cấp thoát nước; quy hoạch sử dụng đất đai và bảo vệ môi trường…
- Tại một số khu vực, bố trí các
cảng, bến cảng, cầu cảng chưa khoa học, còn bị xé lẻ do quá nhiều đầu mối quản
lý khai thác, chưa có phân khu chức năng hợp lý dẫn đến sự khó khăn trong quản
lí khai thác, ảnh hưởng môi trường và lãng phí tài nguyên;
- Tư vấn lập Quy hoạch, dự án đầu
tư, thiết kế, giám sát trong lĩnh vực cảng biển còn yếu kém;
- Sự phối hợp trong xây dựng và
quản lý quy hoạch giữa các Bộ ngành, giữa Trung ương và các địa phương vẫn còn
nhiều hạn chế;
e. Nguyên nhân của các tồn tại
- Trong những năm qua, còn thiếu
các văn bản pháp lý quy định đầy đủ về nội dung, trình tự lập, thẩm định, phê
duyệt, quản lý quy hoạch, công tác kiểm tra việc thực hiện của các cấp có thẩm
quyền đối với kết cấu hạ tầng GTVT nói chung và kết cấu hạ tầng cảng biển nói
riêng. Một số văn bản cần thiết chỉ mới được ban hành trong thời gian gần đây
(Nghị định số 92/2006/NĐ-CP ngày 07/9/2006).
- Tổ chức bộ máy quản lý theo dõi
công tác quy hoạch phát triển trong các cơ quan nhà nước chưa hợp lý. Thiếu cơ
chế phối hợp giữa quy hoạch phát triển cảng biển và quy hoạch của các ngành
khác. Đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác quy hoạch (tư vấn lập, tư vấn thẩm
tra, cán bộ quản lý…) vừa ít về số lượng và thiếu về kiến thức và kinh nghiệm
thực tế. Ít có cán bộ được đào tạo chuyên sâu về lĩnh vực quy hoạch phát triển
cảng.
- Thời gian, kinh phí dành cho công
tác lập, thẩm tra và phê duyệt quy hoạch còn hạn chế cũng là một nguyên nhân
ảnh hưởng đến chất lượng của các đề án quy hoạch. Định mức, đơn giá liên quan
đến công tác khảo sát, lập, thẩm tra và phê duyệt quy hoạch chưa hợp lí.
C. Kết luận - Kiến nghị
Thực hiện nhiệm vụ của Thủ tướng
Chính phủ giao, Bộ Giao thông vận tải đã chủ trì và phối hợp với các bộ ngành
đã tiến hành kiểm tra rà soát, đánh giá công tác quy hoạch và thực hiện quy
hoạch cảng biển ở các vùng KTTĐ. Kết quả kiểm tra cho thấy về cơ bản Hệ thống
cảng biển Việt Nam đã đạt được mục tiêu đề ra, đã đảm bảo thông qua lượng hàng
hóa xuất nhập khẩu góp phần tích cực vào tốc độ tăng trưởng GDP, bước đầu đáp
ứng nhu cầu phát triển KT-XH của đất nước.
Tuy nhiên, Hệ thống cảng biển Việt Nam cũng bộc lộ một số tồn tại như có sự thiếu đồng bộ, chưa thật khoa học và đặc biệt tầm
nhìn trong quy hoạch còn rất hạn chế;
Để góp phần cụ thể hóa Chiến lược
kinh tế biển của Trung ương Đảng đề ra, cần có quy hoạch cảng với những cảng
biển chủ lực cho tầu trọng tải lớn, mớn nước sâu, trang thiết bị bốc xếp tiên
tiến với năng suất xếp dỡ cao và được nối với mạng lưới giao thông quốc gia
bằng hệ thống đường bộ (đường cao tốc), đường sắt hiện đại; đồng thời có những
cơ chế chính sách phù hợp với xu thế hội nhập kinh tế thế giới và hình thành cơ
quan, tổ chức quản lí khai thác cảng một cách hiệu quả nhất.
Để đáp ứng được các tiêu chí trên
và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn tới, xin kiến nghị một
số vấn đề như sau.
I. Về công tác xây dựng quy
hoạch phát triển cảng
Quy hoạch phát triển hệ thống cảng
biển Việt Nam cần được rà soát, cập nhật, điều chỉnh, bổ sung với tầm nhìn xa
hơn, mốc quy hoạch là năm 2020 và định hướng đến năm 2030. Trước mắt Bộ GTVT
đang tập trung hoàn thành các quy hoạch sau:
1. Quy hoạch tổng thể phát triển
giao thông vận tải đường biển đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 - Tiến độ
quý I/2008;
2. Quy hoạch phát triển hệ thống
cảng biển Việt Nam đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 - Tiến độ quý I/2008;
Nội dung quy hoạch phát triển cảng
sẽ làm rõ các nội dung như địa điểm, chức năng, quy mô xây dựng, mô hình quản
lý, cơ chế chính sách để phát triển và cơ chế huy động vốn cho phát triển cảng
biển và đội tầu, quy hoạch phát triển luồng chạy tầu và thể hiện đầy đủ mối
liên quan giữa quy hoạch phát triển cảng với quy hoạch phát triển giao thông
vận tải nối cảng (đường bộ, đường sắt, đường thủy và đường ống) và quy hoạch
phát triển đô thị, khu công nghiệp, khu kinh tế …;
Định hướng quy hoạch phát triển
cảng trong giai đoạn tới, ngoài việc nâng cấp, đầu tư chiều sâu, phát huy hết
công suất, hiệu quả của các cảng hiện hữu, sẽ tập trung vào việc xây dựng vào
việc xây dựng cảng trung chuyển quốc tế, một số cảng nước sâu chuyên dụng xếp
dỡ container, than quặng và dầu quy mô lớn, trang thiết bị hiện đại; hướng phát
triển cảng biển trong giai đoạn tới là ngày càng tiến ra biển nên các địa
phương cần phải quy hoạch các khu vực đổ chất nạo vét để tôn tạo mở rộng diện
tích làm kho bãi. Do kinh nghiệm của tư vấn trong nước đối với các vấn đề cần
nghiên cứu nêu trên còn hạn chế nên đề nghị Thủ tướng Chính phủ cho phép thuê
tư vấn nước ngoài lập, tham gia lập quy hoạch hoặc thẩm định các quy hoạch này.
II. Về vốn đầu tư xây dựng cơ sở
hạ tầng cảng biển
1. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản:
Trong thời gian tới, vốn ngân sách
chỉ tập trung đầu tư cho các công trình công cộng như luồng chạy tầu, để chắn
cát, đê chắn sóng, công trình chỉnh trị ổn định luồng chạy tầu. Cầu bến chủ yếu
sẽ kêu gọi các doanh nghiệp tự huy động vốn đầu tư theo các hình thức như công
ty liên doanh, công ty cổ phần… theo quy định hiện hành.
Như vậy, đối với các cảng như Lạch
Huyện, Vân Phong, ngoài các bến khởi động đã giao cho Tổng công ty Hàng hải
Việt Nam đầu tư, đề nghị Thủ tướng Chính phủ cho phép kêu gọi các nhà đầu tư
khác tự huy động vốn đầu tư các bến tiếp theo, đáp ứng nhu cầu phát triển KT-XH
giai đoạn sau 2010 theo hướng Chiến lược biển đã được Đảng và Nhà nước thông
qua.
2. Vốn duy tu bảo dưỡng luồng chạy
tầu:
Đề nghị nhà nước cấp đủ vốn để thực
hiện công tác duy tu bảo dưỡng luồng chạy tầu hàng năm, đặc biệt đối với các
luồng chạy tầu quan trọng như luồng Hải Phòng, Cái Lân, Sài Gòn Vũng Tầu và
Định An. Ước tính kinh phí nạo vét duy tu khoảng 150 tỷ đồng/năm.
III. Về cơ chế chính sách đầu tư
khai thác cảng biển
Về cơ chế chính sách quản lý, đề
nghị Thủ tướng Chính phủ cho phép:
1. Áp dụng cơ chế cho thuê cơ sở hạ
tầng đối với các bến cảng đã được nhà nước bỏ vốn đầu tư xây dựng mới;
2. Thí điểm thành lập mô hình “tổ
chức chính quyền cảng” ở KKT Dung Quất - Quảng Ngãi, để tạo thuận lợi hơn nữa
cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp tại cảng biển.
IV. Về quan hệ giữa cảng biển và
khu công nghiệp
Đề nghị Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo
các địa phương:
1. Ngoài việc tuân thủ quy hoạch
phân khu chức năng như hiện nay, cần có biện pháp hạn chế việc đầu tư xây dựng
các bến nhỏ lẻ dành riêng cho từng nhà máy trong KCN. Các khu công nghiệp cần
chú trọng đến việc xây dựng các cảng để sử dụng chung, tránh lãng phí tài
nguyên và tăng độ hấp dẫn đối với các nhà đầu tư vào khu công nghiệp phía sau
cảng.
2. Trong giai đoạn tới, các KCN cần
được qui hoạch với quy mô diện tích đủ lớn để có thể đáp ứng nhu cầu của nhà
đầu tư;
V. Các nội dung cấp bách đối với
công tác di dời:
Đề nghị Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo:
1. Bộ Tài chính sớm ban hành các cơ
chế tài chính liên quan cho các doanh nghiệp thuộc diện di dời.
2. UBND các địa phương có các cảng
di dời đi, đến cần sớm phê duyệt quy hoạch sử dụng đất, đồng thời chấp thuận về
nguyên tắc cho phép lập các dự án đầu tư di dời theo hình thức chuyển đổi công
năng các địa điểm cũ … để tạo điều kiện di dời, sử dụng lại lao động và sớm ổn
định sản xuất kinh doanh.
VI. Cập nhật, bổ sung, điều
chỉnh quy hoạch cảng
Thông qua kiểm tra, tập hợp ý kiến
đề nghị của UBND các Tỉnh, Thành phố có hai loại hình cập nhật, bổ sung, điều
chỉnh quy hoạch: (i). Những nội dung cần được cập nhật, bổ sung, điều chỉnh
theo tiến độ chung của quy hoạch; (ii). Những nội dung cần được Thủ tướng Chính
phủ chấp thuận cập nhật, bổ sung, điều chỉnh sớm vì các nhà đầu tư đang chờ có
quy hoạch để triển khai các thủ tục đầu tư.
Các nội dung đề nghị cập nhật, bổ
sung, điều chỉnh quy hoạch được thống kê theo từng nhóm cảng biển, tổng hợp
trong Phụ lục 2 kèm theo; trong đó có những hạng mục cần thiết được cập nhật,
bổ sung, điều chỉnh sớm để các địa phương có đủ điều kiện cho phép triển khai
đầu tư như sau:
a. Cảng cửa ngõ Lạch Huyện - Hải
phòng chủ yếu cho tầu trọng tải 50.000 đến 80.000 DWT.
b. Cảng tổng hợp Vinashin Đình Vũ
cho tầu 10.000DWT đầy tải, tầu lớn hơn chở non tải + Hải Phòng;
c. Cảng chuyên dụng, chuyển tải
than tại vịnh Sơn Dương Hà Tĩnh;
d. Cảng chuyên dùng, cảng tổng hợp
Tiền Giang, đoạn sông Soài Rạp dài 6,0km liền kề cửa sông Vòm Cỏ và cảng chuyên
dùng khu vực cửa sông Ninh Cơ Nam Định;
e. Cảng chuyên dụng Nhà máy Thép
POSCO - Bà Rịa - Vũng Tàu;
g. Các nội dung bổ sung, điều chỉnh
đã đề nghị Thủ tướng Chính phủ tại công văn số 2931/BGTVT-KHĐT ngày 16/5/2007
của Bộ GTVT;
h. Cho phép cảng chuyên dùng PVC
Cái Mép bổ sung chức năng chuyên dùng phục vụ KCN Cái Mép, bốc xếp hàng thép,
container, tôn hoa sen; (công văn số 3889/UBND-VP ngày 25/6/2007 của UBND tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu).
i. Bến cảng tổng hợp, chuyên dùng
và luồng chạy tàu khu vực Gò Dầu cho tầu đến 30.000DWT;
k. Bổ sung vào quy hoạch khoảng
700m về phía thượng lưu cảng tổng hợp Cát Lái 1 thuộc KCN Phú Hữu, Q9, Tp.HCM;
nâng tổng chiều dài bến khu vực này lên khoảng 1.000m để đủ quỹ đất xây dựng
một cảng tổng hợp hiện đại;
l. Cảng Nhà máy nhiệt điện Ô Môn,
cảng X55, cảng chuyên dùng KCN tầu thủy Hậu Giang;
Trên đây là báo cáo của Đoàn kiểm
tra liên ngành về công tác kiểm tra thực hiện quy hoạch tổng thể hệ thống cảng
biển Việt Nam đến năm 2010. Kính đề nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết
định./.
Nơi nhận:
- Như trên;
- Bộ trưởng (để b/c);
- Văn phòng Chính phủ;
- Các Bộ: KH&ĐT, TC, CT, TN&MT, XD; NN&PTNT, QP;
- UBND các Tỉnh: Q.Ninh, Th.Hóa, H.Tĩnh, Kh.Hòa, BR-Vũng Tàu, Tiền Giang
- Các Tp: H.Phòng, Đà Nẵng, HCM, Cần Thơ;
- Các Tập đoàn: Điện lực, CN Tàu thủy, Dầu khí;
- Tổng cty Hàng hải VN;
- Cục Hàng hải Việt Nam;
- Thành viên Đoàn kiểm tra;
- Lưu VT, KHĐT (03).
|
KT.
BỘ TRƯỞNG
THỨ TRƯỞNG
Trần Doãn Thọ
|
PHỤ LỤC 1
TÌNH
HÌNH THỰC HIỆN QUY HOẠCH VÀ CÁC DỰ ÁN
(Kèm theo văn bản số 5974 ngày 19/9/2007 của Bộ GTVT)
1. Tình hình thực hiện quy hoạch
phát triển cảng biển
Năm 2006, tổng khối lượng hàng hóa
thông qua hệ thống cảng biển Việt Nam đạt 154,497 triệu tấn, đạt 77,2% sản
lượng mục tiêu đến năm 2010 của quy hoạch tổng thể (216,27-255,27 triệu tấn),
tương ứng với 78,1-82,9% so với sản lượng mục tiêu trong các quy hoạch chi tiết
(169,27-197,77 triệu tấn). Như vậy, nếu giữ ở mức tăng trưởng như những năm gần
đây (≈10,5%/năm) thì đến năm 2010, sản lượng hàng hóa thông qua hệ thống cảng
biển Việt Nam ước khoảng 230 triệu tấn, vượt số dự báo của quy hoạch chi tiết
và phù hợp với số dự báo của quy hoạch tổng thể.
Năm 2007, hệ thống cảng biển Việt
Nam có 160 bến cảng, 305 cầu cảng, tổng chiều dài tuyến bến đạt 36,164 km, công
suất thông qua hàng hóa khoảng 170 triệu tấn/năm. Như vậy, giai đoạn 1999-2007,
quy mô hệ thống cảng biển Việt Nam đã tăng gấp 1,8 lần về chiều dài cầu bến, và
tăng gấp hơn 3 lần về công suất thông qua. Tốc độ xây dựng cầu bến tăng hơn 6%
mỗi năm, bình quân mỗi năm xây dựng được gần 2 km bến.
Theo quy hoạch chi tiết 8 nhóm cảng
biển, quy hoạch xây dựng hệ thống cảng biển Việt Nam đến năm 2010 sẽ có khoảng
65-66 km cầu bến. Tuy nhiên đến năm 2006 mới xây dựng tổng cộng gần 35 km, đạt
53-54% so với quy hoạch. Trong 8 nhóm cảng biển, chỉ có Nhóm cảng số 4 và Nhóm
cảng số 7 đã xây dựng được chiều dài cầu bến đạt yêu cầu của quy hoạch đến năm
2010. Các nhóm còn lại, chiều dài cầu bến hiện có mới chỉ đạt trên dưới 50%
chiều dài cầu bến yêu cầu của quy hoạch đến năm 2010.
Như vậy, với tốc độ đầu tư xây dựng
như hiện nay (chỉ xây dựng được khoảng 2km bến mỗi năm) sẽ rất khó có thể đạt
được số lượng bến theo yêu cầu của quy hoạch. Tuy nhiên, có thể thấy rằng đã
quy hoạch xây dựng quá nhiều cầu bến, đặc biệt là tại khu vực KTTĐ phía Nam. Điều này cho thấy, quy hoạch chủ yếu chạy theo dự án của các nhà đầu tư. Khi các nhà
đầu tư đã có tên trong quy hoạch thì chủ yếu là giữ đất, không triển khai xây
dựng.
Tình hình thực hiện quy hoạch và
hàng hóa thông qua cụ thể đối với từng nhóm cảng biển như sau:
Nhóm 1: Hiện tại có 5.980m
cầu cảng tổng hợp, container và 19 cầu bến chuyên dùng. Năm 2006 hàng hóa qua
Nhóm 1 đạt 45,327 triệu tấn/năm, xấp xỉ mục tiêu đến 2010 (43-53,5 triệu
tấn/năm). Nếu giữ mức tăng trưởng 15-18%/năm và tốc độ xây dựng cảng như hiện
nay, đến 2010 toàn nhóm đạt khoảng 70-80 triệu tấn/năm. Hiện tại trong Nhóm I
đang xây dựng thêm khoảng 1.409m, nâng tổng số chiều dài cầu cảng lên 7.389 m.
Nhóm 2: Hiện tại có 1.704m
cầu cảng tổng hợp, container và 5 cầu bến chuyên dùng đang được khai thác và
xây dựng, bằng 57% chiều dài cầu cảng được quy hoạch đến năm 2010. Năm 2006,
hàng hóa qua Nhóm 2 đạt 4,297 triệu tấn/năm, khối lượng thấp hơn nhiều so với
qui hoạch chi tiết do các cảng chiếm khối lượng hàng hóa lớn như nhà máy lọc
dầu số 2 Nghi Sơn chưa đầu tư khai thác.
Nhóm 3: Hiện tại có 2.955m
cầu cảng tổng hợp, container và 08 cầu bến chuyên dùng, đạt 53-69% chiều dài
cầu cảng được quy hoạch đến năm 2010. Năm 2006 hàng hóa qua Nhóm cảng biển số 2
đạt 6,516 triệu tấn/năm, thấp hơn nhiều so với dự báo của qui hoạch chi tiết,
lí do cụm cảng chuyên dùng phục vụ nhà máy lọc dầu Dung Quất chiếm khối lượng
lớn khoảng 13÷25 triệu tấn/năm chưa khai thác.
Nhóm 4: Hiện tại có 2.465m
cầu cảng, 05 cầu bến chuyên dùng. Năm 2006 hàng hóa qua nhóm cảng số 4 đạt
7,734 triệu tấn đạt 76% so với dự báo của quy hoạch đến 2010, nếu giữ mức tăng
trưởng như 4 năm qua (~7%/năm) thì đến năm 2010 toàn nhóm cảng đạt khoảng 10,15
triệu tấn/năm (chưa kể lượng hàng qua cảng Quốc tế Vân Phong) xấp xỉ với dự báo
Qui hoạch chi tiết. Hiện đang xây dựng thêm 600m cầu cảng, nâng tổng chiều dài
cầu cảng đạt 98% chiều dài cầu cảng được quy hoạch đến năm 2010.
Nhóm 5: Hiện tại có 10.410m
cầu cảng và 67 cầu bến chuyên dùng, bến phao. Năm 2006 tổng khối lượng hàng hóa
thông qua khu vực tp.Hồ Chí Minh - Đồng Nai - Bà Rịa Vũng Tàu là 71,086 triệu
tấn/năm (không kể đầu ở cảng nổi ngoài khơi phục vụ khai thác dầu khí) đã vượt
mục tiêu qui hoạch đến năm 2010 (53 triệu tấn/năm) và đạt 66-77% so với công
suất nhóm cảng 5 trong quy hoạch tổng thể được phê duyệt tại Quyết định
202/1999/QĐ-TTg. Nếu giữ mức tăng trưởng hàng hóa qua cảng nhóm 5 như 4 năm gần
đây là 11,96% thì số liệu theo quy hoạch tổng thể duyệt năm 1999 ở mức cao
khoảng 108,6 triệu tấn/năm 2010 là chấp nhận được.
Trong nhóm đang triển khai xây dựng
8.360m cầu cảng, nâng tổng chiều dài cầu cảng đang khai thác và đang xây dựng
lên 18,770km bằng 51% chiều dài cầu cảng được quy hoạch đến năm 2010. Tiến
trình di dời các cảng trên sông Sài Gòn tiến hành chậm, với tiến trình này thì
sẽ không đáp ứng được tiến độ di dời theo Quyết định số 791/QĐ-TTg ngày 12/8/2005
của Thủ tướng Chính phủ.
Nhóm 6: Hiện tại có 1.052m
cầu cảng tổng hợp, container và 29 cầu bến chuyên dùng, bến phao chuyển tải
đang khai thác, bằng 23% chiều dài cầu cảng được quy hoạch đến năm 2010. Năm
2006 sản lượng hàng hóa thông qua hệ thống cảng biển khu vực đạt 4,02 triệu
tấn/năm thấp hơn rất nhiều so với mục tiêu quy hoạch đến 2010. Hàng hóa khu vực
đồng bằng sông Cửu Long tiếp tục thông qua các cảng thành phố Hồ Chí Minh -
Đồng Nai - Bà Rịa Vũng Tàu; đội tàu ra vào cảng Cần Thơ vẫn còn hạn chế do
luồng chưa đáp ứng được yêu cầu.
Nhóm 7, 8: Qui mô các cảng
này không lớn và không có biến động trong quy hoạch phát triển.
2. Tình hình thực hiện các dự án
đầu tư xây dựng phát triển cảng biển
Giai đoạn 1999-2006, trên toàn quốc
có 16 dự án đầu tư xây dựng cảng biển do nhà nước đầu tư xây dựng. Trong đó,
cải tạo nâng cấp có 9 dự án là: Hải Phòng, Cửa Lò, Tiên Sa, Quy Nhơn, Nha
Trang, Ba Ngòi, Sài Gòn, Đồng Nai, Cần Thơ. Đầu tư xây dựng mới có 7 dự án là:
Cái Lân, Nghi Sơn, Vũng Áng, Hòn La, Chân Mây, Dung Quất, Kỳ Hà, Cái Cui.
Ngoài ra, có 4 dự án do doanh
nghiệp tự bỏ vốn đầu tư xây dựng cảng là: cảng container Cát Lái-Tân Cảng, cảng
container VICT - Liên doanh giữa Singapore và Tổng Công ty Đường sông Việt Nam,
cảng tổng hợp Baria Serece - Công ty 100% vốn đầu tư nước ngoài và cảng tổng
hợp Đình Vũ - Công ty cổ phần. Đồng thời, trong thời gian qua còn nhiều dự án
cảng khác, chủ yếu là cảng chuyên dụng dầu, xi măng, than quặng, dăm gỗ mảnh…
do các Bộ Ngành và các doanh nghiệp đầu tư xây dựng.
Đến nay, các dự án nêu trên đã cơ
bản được hoàn thành. Một số dự án quan trọng như dự án cải tạo nâng cấp cảng
Hải Phòng, Sài Gòn, Tiên Sa, Cửa Lò, Quy Nhơn, Nha Trang, Cần Thơ và dự án xây
dựng mới một số bến đầu tiên của cảng Nghi Sơn, Vũng Áng, Dung Quất, Chân Mây
và Kỳ Hà đã có tác dụng tích cực đối với việc phát triển kinh tế xã hội của địa
phương, phát huy hiệu quả đầu tư.
Hầu hết các dự án cảng biển đều
được thực hiện phù hợp với quy hoạch và tuân thủ quy mô đầu tư theo dự án được
duyệt. Quá trình triển khai thực hiện nghiêm túc, tuân thủ các quy định của các
văn bản quy phạm pháp luật hiện hành liên quan về quản lý đầu tư xây dựng và
đóng mở, công bố cảng biển, xây dựng đạt chất lượng yêu cầu. Các dự án cảng
biển thực sự là những dự án công trình cấp thiết đối với địa phương và khu vực
có cảng, sau khi đầu tư đều phát huy hiệu quả bước đầu và được các địa phương
và nhân dân đồng tình, ủng hộ.
Tuy nhiên, nhìn chung các dự án đầu
tư xây dựng cảng biển, đặc biệt là các dự án sử dụng vốn nhà nước có tiến độ
đầu tư xây dựng chậm, dàn trải và không đồng bộ giữa công trình bến cảng với
các hạng mục công trình khác như luồng chạy tầu, đường bộ tiếp cận, hậu phương
sau cảng hệ thống kỹ thuật cấp điện, cấp nước và thông tin liên lạc, thiết bị
xếp dỡ v.v… Ví dụ như dự án xây dựng cảng Cái Lân chưa hoàn thành hạng mục
luồng ngoài, chưa có đường sắt tiếp cận cảng; dự án cải tạo nâng cấp cảng Hải
Phòng còn thiếu hệ thống kè chỉnh trị bảo vệ luồng chạy tầu; dự án cảng tổng hợp
Đình Vũ chưa có đường vào cảng; dự án cảng Cái Cui chưa có thiết bị xếp dỡ; và
các dự án nâng cấp cải tạo cảng Cửa Lò, Quy Nhơn, Nha Trang thực hiện đầu tư
chậm, trên 5 năm mà chưa hoàn thành. Nguyên nhân chủ yếu là do các dự án chủ
yếu trông chờ vào ngân sách nhà nước, tiến độ thực hiện dự án tùy thuộc vào khả
năng và tiến độ cấp vốn hàng năm, chưa tích cực thu hút sử dụng các nguồn vốn
ngoài ngân sách để phối hợp đầu tư.
Trong khi đó, các dự án cảng biển
do doanh nghiệp bỏ vốn đầu tư như các bến cảng container Cát Lái, VICT, Baria
Serece, Đình Vũ đã thực hiện đầu tư nhanh chóng, công trình đưa vào khai thác
sử dụng đồng bộ giữa bến cảng và thiết bị, đạt hiệu quả sản xuất kinh doanh cao.
Tình hình thực hiện các dự án đầu
tư xây dựng cảng biển trong từng nhóm như sau:
a. Nhóm cảng biển số 1:
- Cảng Cái Lân (Dự án ODA Nhóm A):
Hoàn thành xây dựng và đưa vào khai thác sử dụng các bến 5, 6, 7 từ tháng
6/2004 (sử dụng vốn vay ODA - Nhật Bản). Tuy nhiên hiện nay bến 2, 3, 4 chưa
được xây dựng; hạng mục luồng ngoài nạo vét đến -10m HĐ cho tầu trọng tải
40.000 DWT ra vào cảng chưa được triển khai. Thủ tướng Chính phủ cho phép sử
dụng vốn trong nước để nạo vét luồng ngoài, kinh phí dự kiến cấp khoảng 100 tỷ
đồng để thực hiện nạo vét trong năm 2007 trên tổng kinh phí nạo vét khoảng 270
tỷ đồng.
- Cảng Hải Phòng: Hoàn thành Giai
đoạn I (sử dụng vốn ODA - Nhật Bản) nâng cấp các bến 1 và 2 cảng Chùa Vẽ, cải
tạo các bến cũ, bãi chứa hàng và trang thiết bị xếp dỡ, hệ thống thông tin quản
lý. Đã hoàn thành Giai đoạn II cải tạo và nâng cấp luồng tầu Hải Phòng cho tầu
10.000 DWT và xây dựng 02 bến container tại Chùa Vẽ, kinh phí 126 triệu USD sử
dụng vốn ODA Nhật Bản, nâng công suất toàn cảng Hải Phòng lên 11,8-15,6 triệu
T/năm vào năm 2010.
- Cảng Đình Vũ: Dự kiến xây dựng 06
bến cho tầu 10.000-20.000 DWT, công suất thông qua ở khu cảng tổng hợp Đình Vũ
khoảng 3-4 triệu T/năm. Đang xây dựng 02 bến tổng hợp cho tầu 20.000 DWT tại
Đình Vũ, sử dụng vốn tự huy động bằng cổ phần (đã hoàn hành và đưa vào khai
thác sử dụng bến số 1).
- Cảng than Cẩm Phả: Đã hoàn thành
việc cải tạo và nâng cấp luồng tầu (từ Phao số 0 đến Soi Đèn) đến -11m, cho tầu
trọng tải 7 vạn tấn lợi dụng triều ra vào và lấy đầy tải tại khu vực Hòn Nét.
Hoàn thành xây dựng nối dài 250 m cầu cảng đảm bảo cho tầu trọng tải 7 vạn tấn
có thể cập lấy than tại cầu. Đang chuẩn bị đầu tư nạo vét hạ đoạn luồng trong
từ Hòn Con Ong vào đến cầu cảng đạt độ sâu -8,5 m đảm bảo cho tầu 5 vạn tấn có
thể lợi dụng triều cho tầu vào lấy than đầy tải tại cầu cảng.
b. Nhóm cảng biển số 2:
- Cảng tổng hợp Nghi Sơn (khu bến
địa phương): Sử dụng vốn trong nước. Đang khai thác cầu cảng số 1, tiếp nhận
tầu 10.000 DWT, hàng hóa thông qua năm 2006 đạt 949 ngàn tấn, gần gấp đôi công
suất thiết kế (570.000 T/năm). Hoàn thành cơ bản đầu tư xây dựng bến số 2 dài
225m, hoàn thành xây dựng tuyến kè chắn cát và đang triển khai xây dựng để chắn
sóng giai đoạn I dài 600m…;
- Cảng Cửa Lò: Sử dụng vốn NS trong
nước, đã hoàn thành xây dựng mới bến số 3, 4 sửa chữa bến số 1, 2; tổng chiều
dài bến 660m. Dự kiến tiếp tục nạo vét luồng cho tầu 10.000DWT và đầu tư xây
dựng hệ thống các công trình phụ trợ đồng bộ nâng công suất cảng lên 1,8-2,0
triệu tấn/năm vào năm 2008, tiếp nhận tàu 10.000DWT.
- Cảng Hòn La-Quảng Bình: Đang
triển khai xây dựng 01 bến chuyên dụng cho tầu 10.000DWT, công suất 660.000
tấn/năm phục vụ xuất nhập khẩu cho nhà máy xi măng Thanh Hà (vốn ngân sách địa
phương).
- Cảng Vũng Áng: Hiện tại, cảng đã
xây dựng xong cầu cảng số 1, dài 185m, có khả năng tiếp nhận tầu 45.000 DWT,
công suất thiết kế 460.000 tấn/năm. Hiện cảng đang triển khai xây dựng bến số 2
chiều dài 270 m, tiếp nhận tầu trọng tải 50.000 DWT, công suất thiết kế 860.000
tấn/năm và đang chuẩn bị lập dự án đầu tư bến số 3 cho tầu 30.000-50.000 DWT
c. Nhóm cảng biển số 3:
- Cảng Chân Mây-Thừa Thiên Huế: Đã
hoàn thành xây dựng 01 bến cho tầu 30.000DWT, công suất 500.000 tấn/năm.
- Cảng Tiên Sa:
+ Khu bến Tiên Sa: Cơ bản hoàn
thành theo Quyết định số 723/QĐ-TTg ngày 22/7/1999 của Chính phủ về việc phê
duyệt Dự án mở rộng cảng Tiên Sa - Đà Nẵng giai đoạn 1999-2004 (giai đoạn I):
xây dựng 250m đê chắn sóng, sửa chữa các cầu tầu số 1 và cầu tầu số 2, xây dựng
bãi container Tiên Sa, nạo vét khu nước trước bến, lắp đặt trang thiết bị bốc
xếp và xây dựng hệ thống đường vào cảng. Hiện cảng cũng tiếp tục thực hiện xong
việc sử dụng vốn dư của giai đoạn 1 cho việc kéo dài đê chắn sóng thêm 200m,
nâng tổng chiều dài đê chắn sóng lên 450m. Ngoài ra, cảng cũng đã sử dụng nguồn
vốn tự có của doanh nghiệp đầu tư kéo dài cầu cảng số 3 thêm 60m, nâng chiều
dài cầu số 3 lên 225m để có thể tiếp nhận tầu container sức chở 2000 TEU. Việc
xây dựng các bến theo quy hoạch của giai đoạn 2 sẽ kêu gọi doanh nghiệp huy
động vốn đầu tư.
- Khu bến Sông Hàn: Đã hoàn thành
việc cải tạo và nâng cấp cầu cảng sau cơn lũ năm 1999. Hiện khu bến này đã dừng
hoạt động bốc xếp hàng hóa theo chủ trương chuyển đổi công năng của quy hoạch
và chủ trương của Thành phố di dời ra ngoài thành phố theo quy hoạch chung của
thành phố Đà Nẵng và chuyển thành bến du lịch.
- Cảng Dung Quất: Hoàn thành xây
dựng 01 bến dài 160m, công suất 370.000 tấn/năm, cho tầu 10.000 DWT để phục vụ
việc xây dựng NMLD Dung Quất và Khu CN Dung Quất. Còn cảng chuyên dùng xuất
nhập xăng dầu đang được xây dựng theo dây chuyền công nghệ của NMLD Dung Quất.
Đang xây dựng 01 bến tổng hợp cho tầu 30.000 do GEMADEPT đầu tư;
- Cảng Kỳ Hà: Phục vụ khu kinh tế
mở Chu Lai, hiện mới xây dựng xong 01 bến 6600 DWT, công suất thông qua 300.000
tấn/năm. Đang triển khai xây dựng bến số 2 cho tầu container 20.000 DWT
d. Nhóm cảng biển số 4:
- Cảng Quy Nhơn: Hoàn thành sửa
chữa 350 m bến cho tầu 5000 DWT, xây dựng mới 01 cầu tầu dài 174 m cho tầu
10.000 DWT cập tầu hai phía, xây dựng 01 bến dài 170 cho tầu 30.000 DWT; nạo
vét luồng cho tầu 30.000 DWT cùng hệ thống các công trình phụ trợ đồng bộ đưa
công suất thông qua của cảng lên 2,5 triệu T/năm vào năm 2006, tiếp nhận tầu
30.000 DWT. Dự kiến tiếp tục đầu tư 01 bến dài 200m cho tầu container, công
suất thông qua 2 triệu tấn/năm. Nâng tổng công suất toàn cảng lên 4-4,5 triệu
tấn vào năm 2010.
- Cảng Nha Trang: Hoàn thành cải
tạo và nâng cấp cầu tầu 10.000 DWT dài 171 m, xây dựng cầu tầu 20.000 DWT dài
215m cập tầu hai phía, nạo vét luồng cho tầu 20.000-30.000 DWT. Dự kiến tiếp
tục xây dựng hệ thống các bến bãi, nhà ga hành khách và các công trình phụ trợ
đồng bộ, nâng công suất thông qua hàng hóa lên 0,85 triệu T/năm và hành khách.
- Cảng Ba Ngòi - Khánh Hòa: Đã hoàn
thành cải tạo nâng cấp hoàn chỉnh 01 bến cho tầu 30.000 DWT, công suất thông
qua 400.000 T/năm (sử dụng vốn ngân sách địa phương)
e. Nhóm cảng biển số 5
- Khu vực Tp Hồ Chí Minh:
+ Cảng Sài Gòn: Đã hoàn thành cải
tạo nâng cấp bằng vốn vay ADB vào năm 2000 (sửa chữa nâng cấp cầu bến, mua sắm
trang thiết bị bốc xếp) có khả năng tiếp nhận tầu 20.000-30.000 DWT, công suất
thông qua 15 triệu T/năm.
+ Cảng Đồng Nai: Hoàn thành mở rộng
giai đoạn I, xây dựng thêm 70m bến cho tầu 5000 DWT, nâng công suất cảng
300.000-400.000 tấn/năm. Đang chuẩn bị triển khai mở rộng giai đoạn II. Sử dụng
vốn tái đầu tư phát triển sản xuất của cảng Đồng Nai.
+ Ngoài ra các cảng của các Doanh
nghiệp cũng đã được xây dựng hoàn thành như cảng Cát Lái của Công ty Tân cảng
Sài Gòn, cảng VICT của liên doanh giữa Tổng công ty Đường sông miền Nam với tập
đoàn APL của Singapore, cảng Bến Nghé của UBND Tp. Hồ Chí Minh.
- Khu vực Bà Rịa Vũng Tầu:
Cảng tổng hợp Thị Vải trong Quyết
định 202 của Thủ tướng Chính phủ được thay thế bằng các cảng Tổng hợp Quốc tế
Thị Vải (Dự án cảng Quốc tế Cái Mép - Thị Vải) bao gồm 02 bến cho tàu trọng tải
50.000 - 75.000DWT. Tổng chiều dài 600m. Đầu tư bằng nguồn vốn ODA của Nhật
Bản. Công suất thông qua 1,3 - 2,5 triệu tấn/năm. Theo kế hoạch, dự kiến dự án
sẽ khởi công vào cuối năm 2007, hoàn thành và đưa vào khai thác đầu năm 2011.
Ngoài ra, trong khu vực Bà Rịa Vũng
Tầu đang triển khai chuẩn bị đầu tư và thực hiện đầu tư nhiều dự án cảng biển
lớn như sau:
+ Cảng Quốc tế SP - PSA: Cảng tổng
hợp cho tàu 50.000 - 75.000DWT, dành cho cảng Sài Gòn di dời. Giai đoạn đến năm
2010 xây dựng hoàn thành 02 bến dài 600m; đến năm 2012 hoàn thành 02 bến còn
lại. Tổng diện tích cảng 54ha, công suất 5,90 Tr. tấn/năm. Chủ đầu tư là Công
ty TNHH cảng Quốc tế SP-PSA (liên doanh giữa Cảng Sài Gòn và tập đoàn
PSA-Singapore). Hiện nay liên doanh đang xúc tiến các công tác chuẩn bị đấu
thầu Thiết kế - Xây dựng.
+ Cảng Container Tân cảng Cái Mép:
Cảng container cho tàu 80.000DWT, phục vụ công tác di dời Tân cảng Sài Gòn.
Giai đoạn đến năm 2010 xây dựng 02 bến dài 600m, diện tích 40ha, công suất 6,6
Tr.tấn/năm. Giai đoạn đến năm 2020, xây dựng hoàn chỉnh 03 bến dài 900m, diện
tích 61ha, công suất 9,9 Tr.tấn/năm (khoảng gần 1 triệu TEU). Chủ đầu tư là
Công ty Tân cảng Sài Gòn. Hiện nay Công ty Tân Cảng Sài Gòn đang triển khai đầu
tư xây dựng giai đoạn I.
+ Cảng Quốc tế Cái Mép: Cảng
container cho tàu 80.000DWT, bao gồm 02 bến, có tổng chiều dài 600m, diện tích
60,5ha, công suất thông qua khoảng gần 1 triệu TEUs/năm, phục vụ di dời cảng
Sài Gòn. Chủ đầu tư là Công ty TNHH cảng Quốc tế Cái Mép (liên doanh giữa Cảng
Sài Gòn và tập đoàn APMT - Hà Lan thuộc Maersk Seland. Hiện nay liên doanh đang
xúc tiến các công tác chuẩn bị đầu tư xây dựng.
+ Cảng Container Quốc tế Cái Mép
(Dự án cảng Quốc tế Cái Mép-Thị Vải): Là cảng container, khu cảng này gồm 02
bến cho tàu trọng tải 80.000DWT. Tổng chiều dài 600m. Đầu tư bằng nguồn vốn ODA
của Nhật Bản. Công suất thông qua 740.000 TEUs/năm. Theo kế hoạch, dự kiến dự
án sẽ khởi công vào cuối năm 2007, hoàn thành và đưa vào khai thác đầu năm 2011.
+ Cảng Container Quốc tế cảng Sài
Gòn-SSA: Cảng container cho tàu 80.000DWT, bao gồm 02 bến, có tổng chiều dài
600m, diện tích 48ha, công suất thông qua khoảng gần 1 triệu TEUs/năm, phục vụ
di dời cảng Sài Gòn. Chủ đầu tư là Công ty Liên doanh Dịch vụ container Quốc tế
cảng Sài Gòn liên doanh giữa Cảng Sài Gòn và tập đoàn SSA Marine (Mỹ). Hiện nay
liên doanh đang xúc tiến các công tác chuẩn bị đầu tư.
+ Cảng container Cái Mép hạ: Là
cảng container cho tàu 50.000DWT-80.000DWT. Giai đoạn I đầu tư 600m bến và phần
trên bờ tương ứng; giai đoạn II đầu tư thêm 400m bến và một phần trên bờ; giai
đoạn III mở rộng khu cảng trên bờ. Tổng chiều dài bến 1000m; tổng diện tích
73ha, công suất gần 1,0-1,8 triệu TEUs/năm. Chủ đầu tư là Công ty Gemadept,
hiện dự án đang xúc tiến các công tác chuẩn bị thực hiện đầu tư và công tác đền
bù giải tỏa.
- Khu vực tỉnh Đồng Nai:
+ Cảng Tổng hợp Phú Hữu 1: cảng
tổng hợp cho tàu trọng tải 20.000-30.000DWT, chiều dài bến 750m. Hiện nay chủ
đầu tư là Công ty Vận tải Dầu khí Việt Nam đang triển khai công tác đền bù giải
tỏa khu đất xây dựng cảng. Tuy nhiên hiện tuyến đường vào cảng chưa được hình
thành.
f. Nhóm cảng biển số 6:
- Cảng Cái Cui: Quy hoạch xây dựng
04 bến, tổng chiều dài 665m, tiếp nhận tầu biển trọng tải 10.000-20.000 DWT,
công suất thông qua 2,3-2,5 triệu tấn/năm. Hiện nay, cảng Cái Cui đã hoàn thành
đầu tư xây dựng bến số 1 dài 165m cho tầu 10.000DWT, song chưa được lắp đặt
thiết bị. Năm 2006, chưa có hàng hóa qua cảng, quý I/2007 có khoảng 34,3 ngàn
tấn hàng qua cảng, chủ yếu là cát xuất khẩu.
- Cảng Cần Thơ (khu Hoàng Diệu): Đã
hoàn thành dự án cải tạo và nâng cấp cảng phù hợp với quy hoạch. Hiện cảng có 2
bến, tổng chiều dài 304 m, tiếp nhận tầu 10.000-23.000 DWT. Năm 2006, cảng Cần
Thơ đã xếp dỡ được 875,53T tấn hàng hóa.
- Dự án luồng kênh Quan Chánh Bố:
+ Mục tiêu của dự án là xây dựng
luồng tàu từ biển (khu vực Định An) vào sông Hậu có độ sâu đảm bảo cho tàu biển
mớn nước 8m, có trọng tải 10.000 DWT đầy tải và tàu 20.000DWT giảm tải để vận
chuyển khối lượng hàng hóa vào đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL); đảm bảo thông
qua 21-22 Triệu tấn/năm (hàng xuất nhập khẩu) và hàng container 450.000-500.000
TEUs/năm cho giai đoạn 2010-2020. Địa điểm xây dựng ở huyện Duyên Hải - tỉnh
Trà Vinh. Diện tích sử dụng đất khoảng 350 ha thuộc các xã Long Toàn, Long
Khánh, Dân Thành.
+ Quy mô của dự án bao gồm đầu tư,
cải tạo luồng có chiều dài tổng cộng là 40 km. Tổng mức đầu tư của dự án là
3.148,502 tỷ đồng (thời điểm hoàn thành dự án năm 2006) tương đương 198,019
triệu USD.
+ Hiện dự án đã được Thủ tướng
Chính phủ chấp thuận và giao Bộ GTVT làm quyết định đầu tư, chủ đầu tư là Cục
Hàng hải Việt Nam. Hiện nay, Bộ GTVT đang tiến hành rà soát, chuẩn xác lại tổng
mức đầu tư để quyết định phê duyệt.
+ Dự án sẽ được triển khai tập
trung xây dựng các công trình chủ yếu đến mở tuyến luồng sớm để đưa tuyến luồng
vào khai thác trong các năm 2008-2010, các hạng mục phục vụ dân sinh không có
tính quyết định cho mục tiêu đầu tư sẽ được thực hiện trong 2 năm 2010-2011.
- Cảng Trà Nóc: Cơ bản hoàn thành
việc cải tạo nâng cấp bến hàng tổng hợp cho tàu 2500 DWT tại khu Trà Nóc. Đang
triển khai thực hiện dự án đầu tư bến hàng tổng hợp 7500 DWT.
g. Nhóm cảng biển số 7, 8:
- Cảng An Thới - Phú Quốc: Đang
chuẩn bị thực hiện đầu tư xây dựng cảng An Thới cho tầu 2000-3000 DWT vào bến
cứng và tầu 30.000 DWT vào bến phao với công suất thông qua giai đoạn đầu là
180-200 ngàn tấn hàng và 360 ngàn lượt khách, giai đoạn đến năm 2010 là 415.000
tấn hàng, 80 ngàn lượt khách. Dự án sử dụng vốn TPCP do Cục HHVN làm chủ đầu
tư, Ban QLDA Biển Đông - Bộ GTVT quản lý.
Ngoài ra, khu vực các đảo Tây Nam
hiện đang xây dựng 380m cầu cảng tổng hợp, 10 bến chuyên dụng và 3 bến chuyển
tải. Khu vực Côn Đảo có 82m cầu cảng hiện đang khai thác.
3. Tình hình thực hiện kế
hoạch di dời các cảng trên sông Sài Gòn và NMĐT Ba Son
Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết
định số 791/QĐ-TTg, ngày 12/8/2005 phê duyệt Quy hoạch chi tiết Nhóm cảng biển
Tp Hồ Chí Minh - Đồng Nai - Bà Rịa Vũng Tầu (nhóm cảng biển số 5) và Quy hoạch
di dời các cảng trên sông Sài Gòn và NMĐT Ba Son; trong đó có tổng cộng 11 cảng
biển thuộc diện di dời trước và sau năm 2010, tất cả đều đã tích cực chủ động
triển khai lập phương án, kế hoạch di dời đến vị trí mới phù hợp với tiến độ
yêu cầu của Quyết định số 791/QĐ-TTg, ngày 12/8/2005 của Thủ tướng Chính phủ.
Kết quả đến nay, mới chỉ có Tân
Cảng Sài Gòn đã hoàn thành việc di dời và hiện đã ổn định hoạt động sản xuất
tại vị trí mới là Cát Lái. Hàng hóa qua cảng của Tân Cảng tại Cát Lái năm 2006
đạt 1,47 triệu TEU, tương đương với gần 20 triệu tấn hàng không phải qua khu vực
nội thành thành phố Hồ Chí Minh. Dự kiến hàng hóa container qua Tân Cảng Cát
Lái năm 2007 sẽ đạt 1,7 triệu TEU, chiếm trên 60% lượng hàng hóa container của
khu vực KTTĐ phía Nam.
Các cảng Sài Đòn, NMĐT Ba Sơn, Bến
Nghé, Bông Sen đang thực hiện các công tác như làm các thủ tục về đất đai, thỏa
thuận xây dựng cảng, lập dự án đầu tư, triển khai thiết kế kỹ thuật chi tiết,
lập hồ sơ mời thầu và các thủ tục pháp lý cần thiết xây dựng cảng tại vị trí
mới để di dời. Các cảng Elf Gas Sài Gòn, càng VICT, cảng Biển Đông, NMTB Sài
Gòn thuộc diện nghiên cứu di dời sau năm 2010, hiện chưa triển khai công tác
xác định vị trí để di dời.
Tuy nhiên, hiện nay kế hoạch di dời
các cảng trên sông Sài Gòn và NMĐT Ba Son đang có một số tồn tại và hạn chế ảnh
hưởng đến tiến độ di dời như sau:
- Việc xây dựng các cảng mới, nhà
máy mới tại Hiệp Phước, Cái Mép-Thị Vải của cảng Sài Gòn, NMĐT Ba Son bị chậm
tiến độ, dự kiến phải đến các năm 2010-2012 mới có thể hoàn thành. Lý do là
thay đổi luật lệ và cơ chế chính sách về đầu tư và quản lý xây dựng công trình
trong thời gian qua; do phải mất thời gian tìm kiếm đối tác nước ngoài liên
doanh mới đủ vốn đầu tư để xây dựng, hoặc là do chưa xác định được nguồn vốn để
đầu tư xây dựng công trình v.v… Đặc biệt là cơ sở hạ tầng ngoài cảng tại những
vị trí mới như đường bộ, luồng lạch, hệ thống thông tin liên lạc, điện, nước
v.v… chưa được nhà nước đầu tư xây dựng kịp thời để tạo điều kiện cho các chủ
đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trong cảng. Do đó việc di dời các khu bến của
Cảng Sài Gòn và NMĐT Ba Son trong nội thành thành phố Hồ Chí Minh có thể sẽ bị
chậm hơn từ một đến hai năm so với tiến độ của quy hoạch.
- Một số cảng đã có vị trí di dời
dự kiến theo quy hoạch được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, nhưng do địa phương
đã cấp đất cho chủ đầu tư khác nên phải làm thủ tục xin cấp lại vị trí mới (ví
dụ như cảng Tân Thuận Đông).
- Việc chuyển đổi công năng, chuyển
quyền sử dụng đất của các cảng tại vị trí cũ là nguồn chủ yếu để lấy vốn đầu tư
cho thiết bị và xây dựng cơ sở hạ tầng tại vị trí di dời chưa được thực hiện do
quy hoạch và chủ trương sử dụng đất tại vị trí cũ chưa được các cấp thẩm quyền
phê duyệt (Tân Cảng Sài Gòn, Cảng Sài Gòn đã lập xong quy hoạch chuyển quyền sử
dụng đất của các cảng tại vị trí cũ như UBND Tp.Hồ Chí Minh chưa xem xét phê
duyệt, NMĐT Ba Son cũng đã lập xong quy hoạch sử dụng đất tại vị trí cũ nhưng
Bộ Quốc phòng và UBND Tp.Hồ Chí Minh chưa thống nhất v.v…).
- Bộ Tài chính chưa soạn thảo và
ban hành các chế độ, chính sách liên quan đến kinh phí thuê đất, thuế, sử dụng
vốn tín dụng ưu đãi … Cho các doanh nghiệp di dời (theo Quyết định số
791/QĐ-TTg, ngày 12/8/2005 của Thủ tướng Chính phủ).”
4. Về vốn đầu tư xây dựng
cảng biển
Tổng số vốn đầu tư xây dựng cảng
biển giai đoạn 1999-2006 ước tính khoảng 16.342 tỷ đồng. Trong đó chủ yếu là
vốn ODA 13.037 tỷ đồng, chiếm 81,43%; vốn NSNN khoảng 2.013 tỷ đồng, chiếm
12,31%; vốn TPCP 683 tỷ đồng chiếm 4,1% và vốn doanh nghiệp 338 tỷ đồng chiếm
2,0%. Tuy nhiên đến thời điểm này mới chỉ thực hiện được 6.685 tỷ đồng đạt 41%
so với kế hoạch đề ra. Đáng chú ý là vốn ngân sách nhà nước dành cho đầu tư xây
dựng kết cấu hạ tầng cảng biển cấp qua Bộ GTVT trong các năm gần đây chiếm tỷ
trọng rất thấp, chỉ khoảng 2,5-3%.
Hiện nay, sau khi Việt Nam gia nhập WTO, tình hình đầu tư xây dựng cảng biển đã bắt đầu khởi sắc. Hiện tại, có
khoảng 17 dự án đầu tư xây dựng phát triển cảng biển đã được đăng ký và triển
khai chuẩn bị đầu tư trong giai đoạn 2006-2010, chủ yếu tập trung vào các cảng
container, cảng tổng hợp tại khu vực KTTĐ phía Nam, với tổng số vốn đầu tư đã
đăng ký khoảng 1,485 tỷ đô la vào năm 2010 và 2,4 tỷ đô la vào năm 2020.
PHỤ LỤC 2
CẬP
NHẬT BỔ SUNG VÀ ĐIỀU CHỈNH QUY HOẠCH
(Kèm theo văn bản số 5974 ngày 19/9/2007 của Bộ GTVT)
Các mục tiêu, định hướng của quy
hoạch tổng thể và các quy hoạch chi tiết đến năm 2010 cơ bản giữ nguyên như các
quy hoạch như đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, chỉ xem xét điều chỉnh,
cập nhật bổ sung một số nội dung quy hoạch cụ thể như sau:
1. Dự báo hàng hóa
Điều chỉnh dự báo hàng hóa thông
qua hệ thống cảng biển Việt Nam và từng nhóm cảng biển đến năm 2010 như sau:
Hàng hóa qua hệ thống cảng biển Việt Nam năm 2010 đạt 230-250 triệu tấn/năm,
đến năm 2020 là 500-550 triệu tấn. Trong đó nhóm cảng biển số 1 đạt 60-70 triệu
tấn/năm, nhóm cảng biển số 5 đạt 100-110 triệu tấn/năm.
2. Quy hoạch phát triển cảng
2.1. Nhóm cảng biển số 1
a. Về dự báo hàng hóa: Nghiên cứu
cập nhật dự báo hàng hóa nhóm cảng biển số 1 năm 2010 đạt 60-70 triệu tấn/năm.
b. Về quy hoạch phát triển cảng
Khu vực cảng biển Quảng Ninh:
- Cảng Cái Lân: Nâng tải trọng tầu
thiết kế các bến số 2, 3, 4 và nghiên cứu khả năng bổ sung quy hoạch các bến số
8, 9 gắn với yêu cầu bảo vệ môi trường Vịnh Hạ Long.
- Cảng xăng dầu B12: Quy hoạch
Nghiên cứu cập nhật theo hai phương án: (i) Cho phép lùi thời gian di dời sau
2015 để tận dụng khai thác các đầu tư đã có, gắn với việc yêu cầu về PCCC
nghiêm ngặt, hiệu quả được cơ quan thẩm quyền chấp thuận; (ii) Nghiên cứu khả
năng cho phép tồn tại (không được đầu tư thêm), mọi nhu cầu đầu tư phát triển
thêm phải đưa vào vị trí quy hoạch hạ lưu sông Chanh.
- Cập nhật quy hoạch các cảng Than
Cẩm Phả, cảng khách Hòn Gai vào quy hoạch chung. Bổ sung quy hoạch các cảng khu
CN Hải Hà, khu vực Vạn Gia, Mũi Chùa-Vạn Hoa phục vụ phát triển kinh tế và là
cửa ngõ ra biển cho các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, gắn với đảm bảo quốc phòng an
ninh.
- Tại vịnh Cửa Lục, ngoài các cảng
nhiệt điện, xi măng hiện hữu, đã được phê duyệt, không quy hoạch bổ sung các
cảng chuyên dụng khác trong vịnh Cửa Lục.
- Nghiên cứu lập quy hoạch khu vực
đổ chất nạo vét hợp lý phục vụ công tác thi công xây dựng cảng, nạo vét duy tu
luồng tầu và lấn biển trên địa bàn tỉnh
Khu vực cảng biển Hải Phòng:
- Bổ sung 404 m đường bờ tại khu
Đình Vũ cho cảng Hải Phòng đầu tư để thay thế các bến 8, 9, 10, 11 khu cảng
Hoàng Diệu cần di dời để xây dựng quảng trường thành phố. Nâng tổng số chiều
dài mét bến của Cảng Hải Phòng tại khu cảng Đình Vũ là 1400m bến.
- Bổ sung quy hoạch xây dựng tuyến
đường chung sau khu vực quy hoạch xây dựng cảng tổng hợp và cảng container Đình
Vũ, quy mô tối thiếu 6 làn xe.
- Bổ sung cảng tổng hợp Vinashin
Đình Vũ cho tầu 20.000DWT;
- Nghiên cứu xây dựng trung tâm
dịch vụ hậu cần sau cảng (logistic) phục vụ cho khu cảng Đình Vũ và Lạch Huyện.
- Bổ sung quy hoạch đến năm 2010
cảng cửa ngõ Lạch Huyện, tiếp nhận tàu trọng tải 50.000 DWT.
- Nghiên cứu lập quy hoạch khu vực
đổ chất nạo vét hợp lý phục vụ công tác thi công xây dựng cảng, nạo vét duy tu
luồng tầu và lấn biển trên địa bàn thành phố.
- Khu vực Nam Định: Bổ sung vào quy hoạch cảng chuyên dùng khu vực cửa sông Ninh Cơ.
2.2. Nhóm cảng biển số 2
- Cảng Nghi Sơn: Hoàn chỉnh quy
hoạch chi tiết cảng biển Nghi Sơn đến năm 2010-2020 để trình duyệt theo quy
định tại đây ưu tiên dành quỹ đất và vị trí thuận lợi cho việc phát triển khu
bến tổng hợp, khi bến container. Chú ý làm rõ các phân khu chức năng của cảng
và hệ thống giao thông hậu phương của cảng, bao gồm đường sắt, đường bộ tiếp
cận cảng, các điểm giao cắt của đường bộ, đường sắt với hệ thống giao thông của
khu kinh tế và các điểm đấu nối với mạng lưới giao thông của quốc gia… Nghiên
cứu nạo vét luồng chạy tầu cảng biển Nghi Sơn cho tàu trọng tải 30.000 DWT và
khả năng nạo vét luồng cho tầu trọng tải lớn hơn.
- Cảng Vũng Áng:
Cập nhật, bổ sung hoàn chỉnh quy
hoạch chi tiết cảng biển tỉnh Hà Tĩnh đến năm 2010 và sau năm 2010, bao gồm các
khu bến cảng tại Vũng Áng, Sơn Dương, Thạch Khê, Kỳ Phương… để phê duyệt điều
chỉnh. Cập nhật các cầu cảng xăng dầu ở Vũng Chùa, cầu cảng nhà máy nhiệt điện
Vũng Áng 1 và 2, cầu cảng Nhà máy nhiệt điện Kỳ Phương, cầu cảng chuyên dụng
phục vụ cho mỏ sắt Thạch Khê, cầu cảng chuyên dụng phục vụ cho nhà máy thép,
đóng tầu …;
Làm rõ quy hoạch phân khu chức năng
và quy hoạch giao thông hậu phương của cảng Vũng Áng, bao gồm đường sắt, đường
bộ nối cảng, các điểm giao cắt của đường bộ, đường sắt với hệ thống của khu
kinh tế và các điểm đấu nối với mạng lưới giao thông của quốc gia (quốc lộ 1A,
đường sắt Bắc Nam và các vùng lân cận…).
Nghiên cứu quy hoạch xây dựng tuyến
đường ven biển từ Thạch Khê đi Vũng Áng. Xác định vị trí chuyển tải than cho
tầu trọng tải lớn phục vụ nhập than cho các Nhà máy nhiệt điện quy mô lớn tại
Hà Tĩnh.
2.3. Nhóm cảng biển số 3
- Khu bến cảng Sông Hàn: Lập kế
hoạch di dời khu bến cảng Sông Hàn, kết hợp giữa xây dựng phát triển cảng tại
vị trí mới với chuyển đổi công năng một phần tại vị trí cũ để xây dựng bến cho
tầu khách và Trung tâm dịch vụ hàng hải cho khu vực miền Trung.
- Khu bến cảng Tiên Sa: Thu hút vốn
đầu tư và khuyến khích các doanh nghiệp tự bỏ vốn đầu tư xây dựng các bến còn
lại (giai đoạn II) theo quy hoạch đã được phê duyệt cho cảng Tiên Sa.
- Khu vực Thọ Quang-bán đảo Sơn
Trà: Cập nhật cảng khu vực Thọ Quang vào quy hoạch chung để đáp ứng việc di dời
khu bến cảng Sông Hàn và nhu cầu phát triển cảng biển của Tp. Đà Nẵng trong giai
đoạn tiếp theo. Nghiên cứu khả năng xây dựng bến cảng tổng hợp, bến cảng
container cho tầu trọng tải 50.000 DWT hoặc lớn hơn tại khu vực Thọ Quang.
- Làm rõ quy hoạch các phân khu
chức năng dành cho cảng tổng hợp, cảng container và cảng chuyên dụng trên địa
bàn thành phố theo nguyên tắc tập trung về một khu vực theo phân khu chức năng
để đảm bảo PCCC, vệ sinh môi trường và đáp ứng yêu cầu công tác quản lý chuyên
ngành.
2.4. Nhóm cảng biển số 4
- Cập nhật các dự án đầu tư xây
dựng về xi măng, thép, đóng tầu, xăng dầu… liên quan đến quy hoạch phát triển
cảng biển trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa vào quy hoạch cảng. Chú ý trong quy hoạch
phải làm rõ hậu phương cảng và hệ thống giao thông đường bộ và đường sắt tiếp
cận cảng và các điểm đấu nối với mạng giao thông vận tải của quốc gia.
- Nghiên cứu quy hoạch cảng tổng
hợp, cảng container và cảng chuyên dụng trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa theo nguyên
tắc tập trung về một khu vực theo phân khu chức năng của quy hoạch để đảm bảo
PCCC, vệ sinh môi trường và đáp ứng yêu cầu công tác quản lý chuyên ngành.
- Cảng Nha Trang: Thống nhất việc
Cảng tiếp tục khai thác hàng sạch và hành khách đến năm 2015. Sau năm 2015
chuyển hoàn toàn thành cảng khách phục vụ cho du lịch. Định hướng đầu tư cho
cảng Nha Trang trong giai đoạn tới cần tập trung vào mục tiêu xây dựng và phát
triển thành cảng hành khách có khả năng tiếp nhận tầu khách trọng tải 50.000 GT.
- Cảng Ba Ngòi: Định hướng phát
triển thành cảng tổng hợp và container với vai trò thay thế chức năng xếp dỡ
hàng hóa của cảng Nha Trang và hỗ trợ cho cảng trung chuyển quốc tế Vân Phong.
2.5. Nhóm cảng biển số 5:
Khu vực tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu:
- Khu Gò Dầu: Bổ sung quy hoạch
phát triển cảng tại khu vực đoạn cong Tắc Cá Trung cho các bến cảng tổng hợp,
bến cảng chuyên dùng thép và xi măng; Nghiên cứu nâng cấp đoạn luồng Gò Dầu cho
tầu trọng tải đến 30.000 DWT lợi dụng thủy triều ra vào làm hàng;
- Khu Mỹ Xuân: Bổ sung kéo dài thêm
tuyến bến khu cảng Mỹ Xuân A2 về phía hạ lưu khoảng 300m. Nghiên cứu khả năng
cho tầu đến 60.000DWT lợi dụng thủy triều ra vào cảng.
- Khu Phú Mỹ: Bổ sung cảng chuyên
dùng Nhà máy thép POSCO, kéo dài tuyến bến cảng Nhà máy thép Phú Mỹ một khoảng
hợp lý.
- Khu Cái Mép hạ: Bổ sung quy hoạch
cảng tổng hợp container Cái Mép hạ diện tích khoảng 86 hạ, chiều dài bến khoảng
1200 m. Đồng thời kéo dài khu cảng Cái Mép hạ về phía hạ lưu theo hướng phát
triển ra phía biển, bám sát luồng chạy tầu sông Cái Mép đã được quy hoạch, làm
khu cảng tiềm năng, dự trữ phát triển cho hệ thống cảng Bà Rịa Vũng Tàu trong
giai đoạn tới. Điều chỉnh chiều dài bến cảng Gemadept thành 1100m.
- Các nội dung bổ sung, điều chỉnh
đã đề nghị Thủ tướng Chính phủ tại công văn số 2931/BGTVT-KHĐT ngày 16/5/2007,
nội dung cụ thể là:
+ Cảng tổng hợp container Cái Mép
hạ - Bà Rịa - Vũng Tàu;
+ Căn cứ dịch vụ dầu khí Cái Mép:
Giao Công ty đóng tàu và Dịch vụ dầu khí Vũng Tàu làm chủ đầu tư;
- Cho phép cảng chuyên dùng PVC Cái
Mép bổ sung chức năng chuyên dùng phục vụ KCN Cái Mép, bốc xếp hàng thép, container,
tôn hoa sen; (công văn số 3889/UBND-VP ngày 25/6/2007 của UBND tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu).
- Khu Bến Đình Sao Mai: Cân nhắc
làm rõ hướng rút hàng sau cảng và chú trọng vấn đề môi trường trong phát triển
cảng khu vực Bến Đình Sao Mai.
- Bổ sung quy hoạch Trung tâm dịch
vụ hậu cần (logistic) quy mô lớn trên địa bàn của tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu (theo
tinh thần văn bản số 1734/VPCP-QHQT ngày 03/4/2007 của Văn phòng Chính phủ).
Khu vực Tp. Hồ Chí Minh:
- Nghiên cứu cập nhật lại dự báo
hàng hóa, nâng tổng công suất cảng biển khu vực Tp. Hồ Chí Minh lên tương xứng
với thực tế và nhu cầu phát triển (khoảng 100 triệu tấn/năm)
- Bổ sung vào quy hoạch khoảng 700m
về phía thượng lưu cảng tổng hợp Cát Lái 1 thuộc KCN Phú Hữu, Q9, Tp.HCM; nâng
tổng chiều dài bến khu vực này lên khoảng 1.000m để đủ quỹ đất xây dựng một
cảng tổng hợp hiện đại;
- Bổ sung quy hoạch khu bến tổng
hợp Hiệp Phước (giai đoạn 3 - tiềm năng) vào quy hoạch chính thức để có căn cứ
triển khai lập dự án đầu tư khi có nhu cầu đầu tư.
- Nghiên cứu bổ sung quy hoạch phát
triển cảng tại khu vực Ngã Bảy-Thiềng Liềng đáp ứng nhu cầu phát triển tương
lai.
2.6. Nhóm cảng biển số 6:
Khu vực sông Hậu:
- Bổ sung quy hoạch các bến cảng
Nhà máy nhiệt điện Ô Môn, X55, khu công nghiệp tàu thủy Hậu Giang.
- Nghiên cứu xác định vị trí xây
dựng Trung tâm dịch vụ hậu cần cảng biển (logistic) cho thành phố Cần Thơ và
khu vực ĐBSCL;
Khu vực Tiền Giang:
Bổ sung khu cảng biển sông Soài Rạp
bao gồm phạm vi toàn bộ tuyến đường bờ sông Soài Rạp, chiều dài khoảng 6 km từ
vị trí cửa sông Vàm Cỏ Đông ra đến cửa biển Soài Rạp, thuộc địa phận tỉnh Tiền
Giang vào quy hoạch hệ thống cảng biển quốc gia.