BỘ NGOẠI GIAO
******
Số:
98/2004/LPQT
|
Hà
Nội, ngày 26 tháng 10 năm 2004
|
Thỏa thuận hành chính giữa Bộ
Giáo dục và Đào tạo Việt Nam và Bộ Giáo dục quốc gia, Đào tạo đại học và nghiên
cứu Pháp về việc công nhận các quá trình đào tạo và văn bằng nhằm tạo điều kiện
cho học sinh, sinh viên học chuyển tiếp ở bậc đại học tại nước đối tác có hiệu
lực từ ngày 06 tháng 10 năm 2004./.
|
TL.
BỘ TRƯỞNG BỘ NGOẠI GIAO
KT. VỤ TRƯỞNG VỤ LUẬT PHÁP VÀ ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ
PHÓ VỤ TRƯỞNG
Nguyễn Hoàng Anh
|
THỎA THUẬN
HÀNH CHÍNH GIỮA BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆT NAM VÀ BỘ GIÁO DỤC
QUỐC GIA, ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC VÀ NGHIÊN CỨU PHÁP VỀ VIỆC CÔNG NHẬN CÁC QUÁ TRÌNH
ĐÀO TẠO VÀ VĂN BẰNG NHẰM TẠO ĐIỀU KIỆN CHO HỌC SINH, SINH VIÊN HỌC CHUYỂN TIẾP Ở
BẬC ĐẠI HỌC TẠI NƯỚC ĐỐI TÁC
Căn cứ Luật Giáo dục của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tháng 12/1998;
Căn cứ Nghị quyết của Hội nghị
Chủ tịch các trường đại học ngày 01/07/2004 và của Hội nghị Hiệu trưởng các trường
học và đào tạo kỹ sư của nước Cộng hòa Pháp ngày 02/07/2004;
Căn cứ Bộ Luật Giáo dục của nước
Cộng hòa Pháp;
Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam
và Bộ Giáo dục Quốc gia, Đào tạo đại học và Nghiên cứu Pháp (sau đây gọi tắt là
"hai Bên"), với mong muốn thúc đẩy và củng cố quan hệ trong lĩnh vực
đào tạo đại học giữa hai nước, tạo thuận lợi cho sinh viên vào đại học và cho
phép sinh viên học tập tại các trường đại học thuộc nước đối tác trong các điều
kiện thỏa đáng, đã thống nhất như sau:
Điều kiện
tổng quát
Điều 1.
Mục đích của Thỏa thuận này là xác định những trường
hợp có thể được chấp thuận miễn văn bằng hoặc miễn thời gian học tập nhằm tạo
điều kiện thuận lợi cho quá trình học đại học tại nước đối tác:
- đối với những sinh viên được cấp
bằng từ trước tại mỗi nước;
- đối với những sinh viên đã có
các giai đoạn học tập tại mỗi nước, nhưng chưa hoàn thành toàn bộ quá trình để
được cấp bằng, tuy nhiên những giai đoạn này được xác nhận bằng một kỳ thi hay
một bản chứng nhận trong đó các cơ quan có thẩm quyền xác nhận đã đạt yêu cầu;
những giai đoạn này có thể sẽ được hợp thức tại trường tiếp nhận và dẫn đến việc
miễn các học phần tương đương về nội dung và thời gian đào tạo trong quá trình
học tập tại trường tiếp nhận.
Trong cả hai trường hợp, sau khi
xem xét hồ sơ, các cơ quan giáo dục có thẩm quyền xác định những loại hình đào
tạo sinh viên có thể theo học. Việc miễn thời gian học tập và miễn văn bằng nêu
dưới đây được chấp nhận trong cùng phạm vi môn học hoặc cùng chuyên ngành đào tạo.
Thỏa thuận liên quan đến các cơ
sở đào tạo đại học công lập, các trường đại học có thẩm quyền cấp bằng kỹ sư của
Pháp và các trường đại học công lập của Việt Nam.
Thỏa thuận không liên quan đến
việc cấp một văn bằng tại nước tiếp nhận và những ảnh hưởng dân sự đi kèm. Thỏa
thuận không đưa ra quyền cấp văn bằng tương đương, nhưng tạo thuận lợi cho việc
tiếp nhận kèm theo miễn văn bằng với một số điều kiện, đặc biệt là khả năng tiếp
nhận của cơ sở đào tạo và trình độ ngoại ngữ của sinh viên. Trong một số trường
hợp, các cơ sở có thể đồng ý tiếp nhận một sinh viên với điều kiện sinh viên
này theo học những khóa đào tạo bổ sung, nhất là nhằm nâng cao trình độ ngoại
ngữ.
Giới thiệu cơ cấu văn bằng,
trình độ đào tạo và tổ chức các quá trình đào tạo
Điều 2.
Ở Pháp
2.1. Cơ cấu văn bằng và trình độ
đào tạo:
Hai loại văn bằng (grades,
titres) xác nhận những cấp đào tạo khác nhau của bậc đại học chung cho tất cả
các lĩnh vực đào tạo. Loại văn bằng thứ nhất (grades) bao gồm bằng tốt nghiệp
trung học phổ thông, bằng licence (bằng tốt nghiệp trung học phổ thông + 3
năm), bằng thạc sỹ, bằng tiến sỹ, quy định các cấp đối chiếu chính của Không
gian liên minh Châu Âu trong đào tạo đại học. Loại văn bằng thứ hai (titres)
quy định các cấp trung gian (xem Nghị định số 2002-481 ngày 08/04/2002).
Việc áp dụng hệ thống đào tạo đại
học của Không gian liên minh Châu Âu vào hệ thống đào tạo đại học của Pháp (xem
Nghị định số 2002-482 ngày 08/04/2002) được thể hiện bởi điều kiện sau: các lộ
trình đào tạo để đạt được văn bằng quốc gia. Những lộ trình này gồm một số lượng
nhất định những đơn vị học trình, trong đó mỗi đơn vị học trình được tính bằng
tín chỉ Châu Âu: 180 tín chỉ cho bằng licence (bằng tốt nghiệp trung học phổ
thông + 3 năm), 300 tín chỉ cho bằng thạc sỹ (master), tức là thêm 120 tín chỉ
Châu Âu sau khi đạt được bằng licence (bằng tốt nghiệp trung học phổ thông + 3
năm).
Các văn bằng (grades, titres) được
cấp cho những người có bằng đại học quốc gia dưới sự cho phép của Nhà nước,
theo quy định riêng đối với từng trường hợp.
Loại văn bằng thứ nhất (grades)
được công nhận tương ứng với những văn bằng quốc gia sau:
- Để vào đại học: bằng tốt nghiệp
trung học phổ thông (baccalauréat);
- Trình độ đào tạo "bằng tốt
nghiệp trung học phổ thông + 3 năm" (180 tín chỉ Châu Âu): bằng licence (bằng
licence thông thường, bằng licence đào tạo nghề; bằng hướng dẫn – phiên dịch quốc
gia);
- Trình độ đào tạo "bằng tốt
nghiệp trung học phổ thông + 5 năm" (300 tín chỉ Châu Âu): bằng thạc sỹ
(master), bằng thạc sỹ được đương nhiên công nhận cho những người có các văn bằng
sau (xem Nghị định sửa đổi số 99-747 ngày 30/08/1999):
- Bằng kỹ sư được cấp bởi một cơ
sở đào tạo có thẩm quyền do Nhà nước công nhận, sau quá trình đánh giá định kỳ
của Ủy ban bằng kỹ sư;
- Bằng thạc sỹ quốc gia;
- Bằng cao học chuyên sâu (DEA);
- Bằng cao học chuyên ngành
(DESS);
- Các văn bằng tương đương được
cấp với danh nghĩa Nhà nước, nằm trong danh mục do Bộ trưởng phụ trách đào tạo
đại học của Pháp ấn định;
- Trình độ đào tạo "bằng tốt
nghiệp trung học phổ thông + 8 năm": bằng tiến sỹ.
Loại văn bằng thứ hai (titres)
được công nhận tương ứng với những văn bằng quốc gia sau:
- Trình độ đào tạo "bằng tốt
nghiệp trung học phổ thông + 2 năm" (120 tín chỉ Châu Âu): bằng kỹ thuật
viên cao cấp (BTS); bằng cao đẳng công nghệ (DUT); bằng cao đẳng khoa học và kỹ
thuật (DEUST); bằng đại học đại cương (DEUG);
- Trình độ đào tạo "bằng tốt
nghiệp trung học phổ thông + 4 năm" (240 tín chỉ Châu Âu): bằng tốt nghiệp
đại học (maitrise) bao gồm bằng tốt nghiệp đại học thông thường, bằng tốt nghiệp
đại học chuyên nghiệp, bằng tốt nghiệp đại học khoa học và kỹ thuật, bằng tốt
nghiệp đại học khoa học quản lý, bằng tốt nghiệp đại học về tin học ứng dụng
trong quản lý doanh nghiệp;
- Trình độ đào tạo "bằng tốt
nghiệp trung học phổ thông + 5 năm" (300 tín chỉ Châu Âu); bằng nghiên cứu
công nghệ (DRT);
- Và những người được quyền hướng
dẫn các nghiên cứu.
2.2. Tổ chức các quá trình đào tạo:
* Năm thứ nhất của chương trình
đại học: tiếp nhận tất cả những học sinh có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông
hay bằng tương đương, đặc biệt chứng chỉ luật học và bằng tiếp nhận vào đại học.
Quá trình này, được tổ chức thành những lộ trình đào tạo, dẫn đến cấp bằng
licence (bằng tốt nghiệp trung học phổ thông + 3 năm) thuộc các chuyên ngành
khác nhau (tức 180 tín chỉ Châu Âu) sau 6 học kỳ. Ở cấp trung gian, nó cho phép
nhận được các loại văn bằng quốc gia xác nhận trình độ tương đương 120 tín chỉ
Châu Âu.
* Các chương trình đào tạo
chuyên ngành ngắn hạn:
- Các chương trình đào tạo kỹ
thuật viên cao cấp (STS) được tổ chức tại các trường trung học phổ thông, cấp bằng
kỹ thuật viên cao cấp (BTS) sau 2 năm đào tạo.
Việc tiếp nhận vào các chương
trình đào tạo kỹ thuật viên cao cấp (STS) dựa trên cơ sở xét duyệt hồ sơ của những
thí sinh có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông. Những thí sinh từng học tập ở
nước ngoài, nếu có ý kiến của đội ngũ giáo viên và quyết định của Hiệu trưởng,
cũng có thể được tiếp nhận.
- Các viện đại học công nghệ
(IUT), nằm trong các trường đại học, cấp bằng cao đẳng công nghệ (DUT) sau 2
năm đào tạo.
Việc tiếp nhận vào các viện đại
học công nghệ (IUT) dựa trên cơ sở xét duyệt hồ sơ của những thí sinh có bằng tốt
nghiệp trung học phổ thông hoặc bằng tương đương hoặc được miễn bằng.
Bằng kỹ thuật viên cao cấp (BTS)
và bằng cao đẳng công nghệ (DUT) là những văn bằng xác nhận trình độ đại cương
và chuyên ngành. Nó chứng nhận trình độ chuyên môn trong một lĩnh vực hay một
ngành nghề nhất định sau một quá trình đào tạo trong đó nội dung đào tạo được
soạn thảo với sự hợp tác chặt chẽ của giới chuyên môn.
* Các lớp dự bị vào các trường đại
học lớn:
Các lớp dự bị vào các trường đại
học lớn (CPGE) được tổ chức trong 2 năm và phân thành 3 loại: các lớp dự bị
kinh tế và thương mại, các lớp dự bị văn học, các lớp dự bị khoa học. Các lớp
này luyện thi vào các trường đại học lớn như trường đào tạo kỹ sư, trường
thương mại và các trường đại học sư phạm (ENS).
Việc tiếp nhận vào các lớp dự bị
vào các trường đại học lớn (CPGE) dựa trên cơ sở xét duyệt hồ sơ của các thí
sinh có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc bằng tương đương.
* Các chương trình đào tạo kỹ
sư:
Các chương trình đào tạo kỹ sư
tương ứng chương trình đào tạo trình độ "bằng tốt nghiệp trung học phổ
thông + 5 năm" và cấp bằng kỹ sư. Văn bằng này mặc nhiên được công nhận
tương đương bằng thạc sỹ (master). "Bằng kỹ sư" chỉ được cấp bởi một
cơ sở đào tạo được Nhà nước công nhận, sau đánh giá định kỳ của Ủy ban bằng kỹ
sư (giáo dục và chuyên nghiệp) và cho phép được toàn quyền hành nghề.
Các chương trình đào tạo kỹ sư rất
đa dạng và có thể tiếp nhận các thí sinh hoặc thông qua thi tuyển hoặc xét duyệt
hồ sơ và phỏng vấn ở các trình độ khác nhau.
* Các chương trình đào tạo sau đại
học (thạc sỹ - master):
- Bằng thạc sỹ quốc gia (master)
xác nhận một trình độ tương ứng 120 tín chỉ Châu Âu sau bằng licence (bằng tốt
nghiệp trung học phổ thông + 3 năm). Để được đăng ký vào những chương trình đào
tạo thạc sỹ dẫn đến bằng thạc sỹ quốc gia, sinh viên phải chứng minh có một văn
bằng quốc gia tương đương bằng licence (bằng tốt nghiệp trung học phổ thông + 3
năm) trong một lĩnh vực phù hợp.
Những chương trình đào tạo dẫn đến
việc cấp văn bằng này, ở cấp độ trung gian, có thể được xác nhận bởi bằng tốt
nghiệp đại học quốc gia (maitrise) trong lĩnh vực đào tạo liên quan, tương ứng
60 tín chỉ Châu Âu đầu tiên sau bằng licence (bằng tốt nghiệp trung học phổ
thông + 3 năm).
Theo quy định chung, sau khi đạt
60 tín chỉ Châu Âu đầu tiên và có bằng tốt nghiệp đại học (maitrise), các
chương trình đào tạo này được tổ chức dưới dạng các lộ trình đào tạo khác nhau
để dẫn đến bằng thạc sỹ chuyên ngành (hướng tới mục đích chuyên môn) hoặc bằng
thạc sỹ nghiên cứu (hướng tới mục đích nghiên cứu được tổ chức tại các trường
đào tạo tiến sỹ). Bằng thạc sỹ nghiên cứu tương ứng giai đoạn đầu tiên của
chương trình đào tạo tiến sỹ.
- Đối với các trường đại học
chưa có thẩm quyền cấp bằng thạc sỹ quốc gia (master), sau năm học thứ tư được
công nhận bởi bằng tốt nghiệp đại học quốc gia (60 tín chỉ Châu Âu sau khi đạt
bằng licence), hai hướng được đề ra như sau:
+ Hướng phát triển ứng dụng
chuyên ngành dẫn đến bằng cao học chuyên ngành (DESS) với thời gian đào tạo 1
năm; việc ghi danh vào bằng cao học chuyên ngành (DESS) do hiệu trưởng cơ sở
đào tạo quyết định, theo đề nghị của phụ trách bằng cao học chuyên ngành.
+ Hướng phát triển nghiên cứu dẫn
đến bằng cao học chuyên sâu (DEA) với thời gian đào tạo 1 năm; đây là giai đoạn
đầu tiên của chương trình đào tạo tiến sỹ được tổ chức tại các trường đào tạo
tiến sỹ; việc ghi danh vào bằng cao học chuyên sâu (DEA) do hiệu trưởng cơ sở
đào tạo quyết định theo đề nghị của hiệu trưởng trường đào tạo tiến sỹ, sau khi
có ý kiến của phụ trách bằng cao học chuyên sâu.
Bằng cao học chuyên ngành (DESS)
và bằng cao học chuyên sâu (DEA) lần lượt dần được thay thế bởi bằng thạc sỹ
chuyên ngành và bằng thạc sỹ nghiên cứu.
* Tiến sỹ:
Giai đoạn làm nghiên cứu sinh
tương ứng giai đoạn hai của chương trình đào tạo tiến sỹ, thường được thực hiện
trong ba năm và dẫn tới bảo vệ luận án.
Những chương trình đào tạo cấp bằng
tiến sỹ được tổ chức tại các trường đào tạo tiến sỹ.
Để ghi danh vào chương trình tiến
sỹ, sinh viên phải có bằng cao học chuyên sâu (DEA) hoặc bằng thạc sỹ nghiên cứu.
Tuy nhiên, hiệu trưởng nhà trường có thể xem xét và ghi danh cho một thí sinh
không có điều kiện trên đây vào chương trình này. Việc cho phép ghi danh để làm
tiến sỹ và giải quyết các trường hợp ngoại lệ do hiệu trưởng cơ sở đào tạo quyết
định theo đề nghị của hiệu trưởng trường đào tạo tiến sỹ, sau khi nhận được ý
kiến của giảng viên hướng dẫn luận án.
Điều 3.
Ở Việt Nam:
3.1. Các trình độ đào tạo và văn
bằng:
* Các trình độ đào tạo:
- Cao đẳng: 3 năm;
- Đại học: 4 năm, một số ngành
là 5 hay 6 năm;
- Thạc sỹ: 2 năm sau đại học;
- Tiến sỹ: 2 – 3 năm sau thạc sỹ;
Các trình độ đào tạo do các trường
đại học hay các cơ sở đào tạo có thẩm quyền quy định với sự cho phép của Nhà nước.
* Các văn bằng quốc gia:
Bằng tốt nghiệp cao đẳng (Bằng tốt
nghiệp trung học phổ thông + 3 năm);
Bằng tốt nghiệp đại học (Bằng tốt
nghiệp trung học phổ thông + 4 năm);
Bằng thạc sỹ - trình độ thạc sỹ
(Bằng tốt nghiệp trung học phổ thông + 6 năm0;
Bằng tiến sỹ - trình độ tiến sỹ
(Bằng tốt nghiệp trung học phổ thông + 8 hay 9 năm);
3.2. Tổ chức các chương trình
đào tạo đại học:
Những thí sinh có bằng trung học
phổ thông hoặc bằng tương đương có thể tham gia kỳ thi tuyển sinh:
+ Hoặc vào chương tình đào tạo
dài hạn – chương trình đại học;
+ Hoặc vào chương trình đào tạo
ngắn hạn – chương trình cao đẳng.
Chương trình đào tạo ngắn hạn:
Sinh viên đỗ kỳ thi tuyển sinh
vào cao đẳng và hoàn thành toàn bộ các môn học và kỳ thi tốt nghiệp sẽ được nhận
Bằng tốt nghiệp cao đẳng sau 3 năm học.
Trong một số trường hợp1,
các sinh viên có Bằng cao đẳng có thể thi tuyển vào đại học và học tiếp 1 – 2
năm để được nhận Bằng đại học.
Chương trình đào tạo dài hạn:
* Sinh viên đỗ kỳ thi tuyển sinh
vào Đại học và hoàn thành toàn bộ các môn học, kỳ thi tốt nghiệp hoặc bảo vệ đề
án sẽ được nhận Bằng tốt nghiệp đại học sau 4 năm học (một số trường hợp là 5
năm như đối với ngành kỹ sư, kiến trúc sư hoặc 6 năm đối với ngành Y, Nha). Bằng
tốt nghiệp đại học của ngành kỹ thuật gọi là "Bằng kỹ sư", ngành kiến
trúc là "Bằng kiến trúc sư", ngành Y là "Bằng bác sỹ".
* Trong một số trường hợp, những
sinh viên tốt nghiệp đại học loại "xuất sắc" có thể được chuyển thẳng,
không qua thi tuyển, vào chương trình đào tạo Thạc sỹ, với sự đồng ý của Hội đồng
Giáo dục nhà trường và được Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt.
- Những sinh viên tốt nghiệp đại
học loại "khá", "giỏi" có thể tham dự kỳ thi tuyển sinh sau
đại học cấp quốc gia vào chương trình đào tạo Thạc sỹ theo đúng ngành học của
mình và được cấp bằng thạc sỹ sau 2 năm đào tạo.
- Những sinh viên tốt nghiệp đại
học loại "trung bình" chỉ được tham dự kỳ thi tuyển sinh sau đại học
vào chương trình đào tạo thạc sỹ theo ngành học của mình sau ít nhất 2 năm công
tác.
* Chương trình đào tạo kỹ sư ở
Việt Nam kéo dài 5 năm, được tổ chức trong một số trường đại học và các trường
đại học bách khoa.
Chương trình đào tạo này không
tách biệt giai đoạn đào tạo dự bị với giai đoạn đào tào kỹ sư như hệ thống giáo
dục của Pháp trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, mô hình này – giai đoạn dự bị hai
năm/giai đoạn kỹ sư ba năm - được áp dụng trong "Chương trình đào tạo kỹ
sư chất lượng cao ở Việt Nam", và triển khai tại bốn trường đại học và trường
đại học bách khoa của Việt Nam với sự hỗ trợ của nhóm các trường đào tạo kỹ sư
Pháp.
* Các sinh viên có bằng thạc sỹ
(master) có thể tham dự kỳ thi tuyển sinh vào chương trình tiến sỹ theo ngành học
của mình và được nhận bằng tiến sỹ (doctorat) sau thời gian đào tạo thông thường
từ 2 – 3 năm2.
Các sinh viên có bằng thạc sỹ
(master) có thể được chuyển thẳng lên học tiến sỹ (doctorat) theo quyết định của
Hội đồng Giáo dục nhà trường và được Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt.
* Các sinh viên có bằng tốt nghiệp
đại học (maitrise) loại "khá", "giỏi" có thể tham dự kỳ thi
tuyển sinh vào chương trình đào tạo tiến sỹ và được nhận bằng tiến sỹ với thời
gian đào tạo dài hơn là 4 năm.
Phương thức tiếp nhận vào hệ
thống đào tạo đại học ở mỗi nước
Điều 4.
Ở Pháp:
4.1. Ghi danh lần đầu vào năm thứ
nhất đại học
* Một học sinh Việt Nam ghi danh
lần đầu vào năm thứ nhất đại học dẫn đến bằng đại học quốc gia có thể làm trước
một đơn xin nhập học nếu học sinh đó thỏa mãn các điều kiện tiếp nhận vào đại học
tại Việt Nam.
4.2. Việc tiếp nhận vào các
chương trình đào tạo dẫn đến bằng kỹ thuật viên cao cấp (BTS) và bằng cao đẳng
công nghệ (DUT).
* Một học sinh Việt Nam thỏa mãn
các điều kiện tiếp nhận vào đại học tại Việt Nam có thể được ghi danh vào năm
thứ nhất trường đào tạo kỹ thuật viên cao cấp (STS) sau quá trình xét duyệt hồ
sơ do Ban tuyển sinh thực hiện dưới quyền Hiệu trưởng.
* Một học sinh Việt Nam thỏa mãn
các điều kiện tiếp nhận vào đại học tại Việt Nam có thể được tiếp nhận vào năm
thứ nhất viện đại học công nghệ (IUT) sau quá trình xét duyệt hồ sơ.
4.3. Việc tiếp nhận vào các lớp
dự bị vào các trường đại học lớn (CPGE) tổ chức trong các trường trung học phổ
thông
* Một học sinh Việt Nam thỏa mãn
các điều kiện tiếp nhận vào đại học tại Việt Nam có thể nộp hồ sơ dự tuyển để
được tiếp nhận vào năm thứ nhất của lớp dự bị vào các trường đại học lớn
(CPGE).
4.4. Ghi danh lần đầu vào năm thứ
hai đại học và năm học cấp bằng licence
* Một sinh viên Việt Nam sau quá
trình xét duyệt hồ sơ có thể được ghi danh vào năm thứ hai đại học, trong cùng
ngành đào tạo3, nếu sinh viên này có giấy chứng nhận của cơ quan thẩm
quyền Việt Nam cấp xác nhận đã hoàn thành năm thứ nhất đại học tại Việt Nam (tức
tương đương 60 tín chỉ Châu Âu).
* Một sinh viên Việt Nam sau quá
trình xét duyệt hồ sơ có thể được ghi danh vào năm học cấp bằng licence, trong
cùng ngành đào tạo, nếu sinh viên này có giấy chứng nhận của cơ quan thẩm quyền
Việt Nam cấp xác nhận đã hoàn thành hai năm đầu đại học tại Việt Nam (tức tương
đương 120 tín chỉ Châu Âu).
4.5. Việc tiếp nhận vào các
chương trình đào tạo kỹ sư
* Một học sinh Việt Nam thỏa mãn
các điều kiện tiếp nhận vào đại học tại Việt Nam, sau quá trình xét duyệt hồ
sơ, có thể vào học năm thứ nhất giai đoạn dự bị của một trường đào tạo kỹ sư.
* Một sinh viên Việt Nam có bằng
tốt nghiệp đại học (maitrise) loại "khá", "giỏi" hoặc có giấy
chứng nhận của cơ quan thẩm quyền Việt Nam cấp xác nhận đã hoàn thành bốn năm đầu
đại học, sau quá trình xét duyệt hồ sơ, có thể vào học năm thứ hai giai đoạn
đào tạo kỹ sư của một trường đào tạo kỹ sư.
Xin lưu ý rằng bằng kỹ sư được cấp
bởi một cơ sở đào tạo có thẩm quyền được Nhà nước Pháp công nhận, sau đánh giá
định kỳ của Ủy ban bằng kỹ sư. Văn bằng này chỉ được cấp vào cuối quá trình học
của giai đoạn đào tạo kỹ sư, với thời gian đào tạo tối thiểu 4 học kỳ, thực tập
tại doanh nghiệp (hay luận văn cuối khóa) với thời gian 1 học kỳ có thể thực hiện
tại một doanh nghiệp ở Việt Nam.
* Hồ sơ xin học của một sinh
viên Việt Nam đã hoàn thành các chương trình đào tạo tương ứng một số năm học
giữa kỳ thi tuyển sinh đại học và thời điểm cấp bằng đại học, sẽ có thể được tiếp
nhận vào giai đoạn đào tạo kỹ sư tại trường đào tạo kỹ sư. Việc tiếp nhận này sẽ
được thực hiện vào năm học được xét là phù hợp nhất, sau khi các năm học trước
được hợp thức bởi hội đồng xét tuyển của trường. Hội đồng xét tuyển có thể yêu
cầu sinh viên học thêm các chương trình đào tạo bổ sung nhằm đảm bảo sự thích ứng
tốt của sinh viên với chương trình đào tạo kỹ sư.
4.6. Việc tiếp nhận vào chương
trình đào tạo sau đại học (thạc sỹ - master)
Phía Pháp coi bằng tốt nghiệp đại
học (maitrise) loại "khá", "giỏi" ở Việt Nam tương đương 60
tín chỉ Châu Âu đầu tiên sau bằng licence (bằng tốt nghiệp trung học phổ thông
+ 3 năm). Một sinh viên Việt Nam có bằng tốt nghiệp đại học loại
"khá", "giỏi", sau quá trình xét duyệt hồ sơ, có thể được
ghi danh vào học bằng cao học chuyên ngành (DESS) hoặc bằng cao học chuyên sâu
(DEA) theo đúng ngành học của mình, trong cùng các điều kiện đặt ra đối với một
sinh viên Pháp; hay vào năm thứ hai thạc sỹ (chuyên nghiệp hay nghiên cứu).
4.7. Việc tiếp nhận vào chương
trình đào tạo tiến sỹ (doctorat)
* Phía Pháp coi bằng thạc sỹ Việt
Nam (master) tương đương 300 tín chỉ Châu Âu. Một sinh viên Việt Nam có bằng thạc
sỹ Việt Nam, sau quá trình xét duyệt hồ sơ, có thể được ghi danh vào chương
trình đào tạo tiến sỹ theo ngành học của mình.
Tùy theo chương trình đào tạo
trước đó và những đặc thù của chương trình tiến sỹ hay chủ đề luận án dự kiến,
song song với công trình nghiên cứu luận án, sinh viên có thể bắt buộc phải
theo học một số kiến thức đào tạo bổ sung theo quyết định của giảng viên hướng
dẫn luận án hay Hiệu trưởng trường đào tạo tiến sỹ.
Điều 5.
Ở Việt Nam:
5.1. Ghi danh lần đầu vào năm thứ
nhất đại học
* Một học sinh Pháp có bằng tốt
nghiệp trung học phổ thông (baccalauréat) hay bằng tương đương có thể ghi danh
vào năm thứ nhất đại học tại Việt Nam.
5.2. Việc tiếp nhận vào chương
trình đào tạo đại học (maitrise)
* Một sinh viên Pháp đạt 120 tín
chỉ, có bằng cao đẳng khoa học và kỹ thuật (DEUST), bằng kỹ thuật viên cao cấp
(BTS) hoặc bằng cao đẳng công nghệ (DUT) có thể ghi danh vào năm thứ ba đại học
tại Việt Nam, theo ngành học của mình.
* Một sinh viên Pháp có bằng
licence (bằng tốt nghiệp trung học phổ thông + 3 năm) có thể ghi danh vào năm
thứ tư đại học tại Việt Nam, theo ngành học của mình.
5.3. Việc tiếp nhận vào chương
trình đào tạo kỹ sư:
* Một sinh viên Pháp có thể nộp
hồ sơ xin học năm thứ ba chương trình đào tạo kỹ sư 5 năm tại Việt Nam với điều
kiện đã hoàn thành hai năm đầu của chương trình đào tạo kỹ sư 5 năm tại Pháp.
5.4. Việc tiếp nhận vào chương
trình đào tạo thạc sỹ (master):
* Một sinh viên Pháp có bằng tốt
nghiệp đại học (maitrise) hay đạt 240 tín chỉ Châu Âu (chương trình đào tạo thạc
sỹ năm thứ nhất), sau quá trình xét duyệt hồ sơ, có thể được ghi danh vào năm
thứ nhất chương trình đào tạo thạc sỹ tại Việt Nam, theo ngành học của mình.
5.5. Việc tiếp nhận vào chương
trình đào tạo tiến sỹ (doctorat)
* Một sinh viên Pháp có bằng cao
học chuyên sâu hay bằng thạc sỹ nghiên cứu, sau quá trình xét duyệt hồ sơ, có
thể ghi danh vào chương trình đào tạo tiến sỹ tại Việt Nam, theo ngành học của
mình.
* Một sinh viên Pháp tốt nghiệp
tại một trường đào tạo kỹ sư có thẩm quyền được Nhà nước công nhận, sau đánh
giá định kỳ bởi Ủy ban bằng kỹ sư, có thể ghi danh vào chương trình đào tạo tiến
sỹ nếu sinh viên đó chứng tỏ đã nắm được những kỹ năng nghiên cứu cơ bản; nếu
những kỹ năng nghiên cứu này được đánh giá là chưa đủ thì sinh viên này, song
song với công trình nghiên cứu luận án, bắt buộc học thêm kiến thức bổ sung
theo quyết định của giảng viên hướng dẫn luận án.
Điều 6. Ghi danh làm luận án tiến sỹ đồng hướng dẫn
Những quy định liên quan đến việc
đồng hướng dẫn luận án tiến sỹ nêu ở phụ lục 2
Thể thức
áp dụng
Điều 7.
Hai Bên cam kết sẽ cung cấp cho nhau những thông tin
về hoạt động và các thay đổi trong hệ thống đào tạo đại học của mỗi nước.
Điều 8.
Thỏa thuận này có hiệu lực kể từ ngày ký và có giá trị
trong 4 năm. thỏa thuận này có thể được gia hạn và sửa đổi khi có sự nhất trí
giữa hai Bên. Hết thời hạn 4 năm, việc áp dụng thỏa thuận sẽ do Ủy ban giáo dục
hỗn hợp Pháp - Việt đánh giá.
Các Bên có thể chấm dứt thỏa thuận
bất cứ lúc nào, việc chấm dứt sẽ có hiệu lực sau 6 tháng kể từ khi Bên này gửi
thông báo cho Bên kia.
Thỏa thuận này được làm tại Hà Nội,
ngày 06 tháng 10 năm 2004 thành hai bản, mỗi bản bằng tiếng Pháp và tiếng Việt,
các văn bản có giá trị như nhau./.
THAY
MẶT BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
BỘ TRƯỞNG BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
Nguyễn Minh Hiển
|
THAY
MẶT BỘ GIÁO DỤC QUỐC GIA, ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC VÀ NGHIÊN CỨU NƯỚC CỘNG HÒA PHÁP
BỘ TRƯỞNG ĐẶC TRÁCH NGOẠI THƯƠNG
Francois Loos
|
CHÚ THÍCH
(1) Đặc biệt
trường hợp áp dụng đối với các cơ sở đào tạo có cả hai dạng chương trình đào tạo:
ngắn hạn và dài hạn.
(2) Thời gian
thực hiện luận án tiến sỹ là 2 năm đối với hình thức tập trung, 3 năm đối với
hình thức không tập trung.
(3) Chuyên
ngành đào tạo chính quy hay chuyên ngành liên quan.
ĐỒNG HƯỚNG DẪN LUẬN ÁN TIẾN SỸ
Quá trình này
được thể hiện bởi bốn quy định chính sau:
- Nghiên cứu
sinh thực hiện quá trình học tập và các công trình nghiên cứu với sự đảm trách
của một giáo viên hướng dẫn luận án tại Pháp và một giáo viên tại Việt Nam, hai
giáo viên cùng thực hiện các thẩm quyền được quy định đối với một giáo viên hướng
dẫn luận án hay công trình nghiên cứu tại Pháp và tại Việt Nam;
- Luận án tiến
sỹ được bảo vệ một lần duy nhất, tại Pháp hoặc Việt Nam và được hai cơ sở đào tạo
công nhận;
- Hội đồng
thông qua luận án gồm các nhà khoa học do hai cơ sở đối tác chỉ định với số lượng
đồng đều và bao gồm ít nhất 4 thành viên trong đó bắt buộc có hai giáo viên hướng
dẫn luận án và một thành viên không thuộc hai cơ sở đào tạo;
- Cơ sở đào tạo
Pháp và Việt Nam cam kết cấp bằng tiến sỹ; việc soạn thảo văn bằng cho thấy sự
phối hợp giữa hai cơ sở đào tạo cũng như việc đồng hướng dẫn;
Các quy định
trên kèm theo các thể thức sau:
- Nghiên cứu
sinh bắt buộc phải ghi danh tại một cơ sở đào tạo đại học của Pháp và một cơ sở
đào tạo đại học của Việt Nam (nghiên cứu sinh chỉ phải trả phí ghi danh tại một
trong hai cơ sở đào tạo đối tác).
- Nghiên cứu
sinh thực hiện quá trình học tập và công trình nghiên cứu theo hình thức luân
phiên giữa Pháp và Việt Nam, theo các giai đoạn được quy định bởi hai giáo viên
hướng dẫn luận án thông qua một thỏa thuận chung.
- Đối với mỗi
nghiên cứu sinh làm luận án tiến sỹ theo thể thức đồng hướng dẫn, một hợp đồng
sẽ được ký kết giữa hai cơ sở đào tạo Pháp và Việt Nam; hợp đồng này sẽ nêu rõ
một số điểm nhằm đảm bảo tốt cho tiến trình đồng hướng dẫn, đặc biệt các phương
thức bảo hiểm xã hội.
Với mong muốn
bảo vệ lợi ích của các bên đối tác và sinh viên, hai Bên thống nhất rằng việc bảo
vệ chủ đề luận án cũng như việc xuất bản khai thác và bảo vệ những kết quả
nghiên cứu trong công trình nghiên cứu của nghiên cứu sinh tại hai cơ sở đào tạo
sẽ phải tuân theo quy chế hiện hành và bảo đảm phù hợp với những thủ tục đặc
thù ở mỗi nước áp dụng cho việc đồng hướng dẫn; những quy định liên quan tới bảo
vệ quyền sở hữu trí tuệ sẽ được nêu trong một phụ lục của hợp đồng này.
Trong trường
hợp xảy ra tranh chấp, các vấn đề nêu trên sẽ được giải quyết phù hợp với quy định
và thông lệ của cơ sở đào tạo liên quan./.