BỘ
GIÁO DỤC
*******
Số:
918-QĐ
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
*******
Hà
Nội, ngày 24 tháng 12 năm 1963
|
QUYẾT ĐỊNH
BAN HÀNH “QUY CHẾ TẠM THỜI VỀ TỔ CHỨC LÃNH ĐẠO TRƯỜNG BỔ TÚC
VĂN HÓA CẤP I VÀ CẤP II Ở NÔNG THÔN” VÀ “QUY CHẾ VỀ NHIỆM VỤ CỦA CÁC TRƯỜNG PHỔ
THÔNG LÀM CÔNG TÁC BỔ TÚC VĂN HÓA Ở NÔNG THÔN”
BỘ TRƯỞNG BỘ GIÁO DỤC
Căn cứ vào Chỉ thị số 042-CT
ngày 11-7-1963 của Bộ Giáo dục về phát triển giáo dục năm 1963-1964.
Căn cứ vào Quyết định số 218-CĐ ngày 24-4-1963 của Bộ Giáo dục có quy định nhiệm
vụ nhà trường phổ thông làm công tác bổ túc văn hóa.
Xét sự cần thiết phải đưa phong trào bổ túc văn hóa ở nông thôn vào nền nếp.
Căn cứ vào đề nghị của ông Vụ trưởng Vụ giáo dục cấp I-II.
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. – Ban hành: “Quy
chế tạm thời về tổ chức lãnh đạo trường bổ túc văn hóa cấp I và cấp II ở nông
thôn” và “quy chế về nhiệm vụ của các trường phổ thông làm công tác bổ túc văn
hóa ở nông thôn” đính kèm theo quyết định này.
Điều 2. – Ông Chánh văn
phòng Bộ Giáo dục và các ông Vụ trưởng Vụ giáo dục cấp I-II, Vụ trưởng Vụ tổ chức
cán bộ chịu trách nhiệm thi hành quyết định này.
|
BỘ
TRƯỞNG BỘ GIÁO DỤC
Nguyễn Văn Huyên
|
QUY CHẾ TẠM THỜI
VỀ TỔ CHỨC VÀ LÃNH ĐẠO CÁC TRƯỜNG BỔ TÚC VĂN HÓA CẤP I VÀ CẤP
II NÔNG THÔN
Quy chế tạm
thời này ấn định những nguyên tắc cơ bản bảo đảm cho phong trào bổ túc văn hóa ở
nông thôn phát triển rộng rãi và có nền nếp để bảo đảm chất lượng học tập, phát
huy tác dụng mạnh mẽ của nhà trường đến sản xuất và đời sống ở nông thôn.
Chương 1:
MỤC ĐÍCH HỌC BỔ TÚC VĂN
HÓA
Điều 1. – Cán bộ,
thanh niên và xã viên có nhiệm vụ học tập văn hóa để góp phần đẩy mạnh sản xuất
và công tác, nâng cao trình độ quản lý hợp tác xã và cải tiến kỹ thuật ở nông
thôn.
Theo Nghị quyết
93 ngày 2-12-1959 của Ban bí thư Trung ương Đảng thì việc học tập văn hóa
“ngoài nhiệm vụ cung cấp những kiến thức văn hóa cơ bản nhằm giúp cán bộ, công
nhân, nông dân giải quyết những vấn đề thiết thực trong công tác, trong sản xuất…
còn phải chuẩn bị để người học có thể tiến lên nắm những kiến thức khoa học và
kỹ thuật hiện đại”.
Nghị quyết của
Đại hội Đảng lần thứ 3 cũng chỉ rõ: “Bổ túc văn hóa nhằm đạt cơ sở đẩy mạnh
công tác giáo dục tư tưởng và chính trị trong nhân dân lao động, xúc tiến công
tác đào tạo cán bộ kinh tế và văn hóa theo quy mô lớn và mở rộng công tác phổ
biến khoa học kỹ thuật”.
Cho nên việc
học bổ túc văn hóa phải có mục đích tính rõ rệt, kiên quyết chống xu hướng học
văn hóa chung chung, coi nhẹ phần ứng dụng vào công tác, vào sản xuất, phải
theo đúng phương châm như nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ
8 đã vạch rõ là: “Phải gắn việc học văn hóa với việc học thêm về kỹ thuật, nghiệp
vụ”.
Chương 2:
CHƯƠNG TRÌNH VÀ VIỆC THỰC
HIỆN CHƯƠNG TRÌNH BỔ TÚC VĂN HÓA
Điều 2. - Bộ Giáo dục
đã quy định các chương trình học bổ túc văn hóa cho cán bộ, thanh niên và xã
viên hợp tác xã nông nghiệp gồm:
Chương trình
cấp I cho trường bổ túc văn hóa cấp I và hợp tác xã.
Chương trình
cấp II cho trường bổ túc văn hóa cấp II ở xã.
Mỗi chương
trình đã quy định mục đích, yêu cầu, mức độ các môn học, hệ thống các kiến thức
và thời gian thực hiện. Các cơ quan giáo dục các cấp và các trường bổ túc văn
hóa phải có trách nhiệm thực hiện đầy đủ các quy định đó.
Điều 3. - Mỗi địa phương
có những đặc điểm riêng của mình cho nên khi thực hiện chương trình nếu có sự
thay đổi hoặc thêm bớt nội dung chương trình cần phải được Ty giáo dục quyết định,
và chỉ được thay đổi hoặc thêm bớt những điểm đã quy định rõ trong từng môn học
của chương trình.
Những tài liệu
đã quy định trong chương trình cần được thực hiện đúng đắn, trường hợp không đủ
sách giáo khoa thích hợp cần phải theo đúng yêu cầu nội dung và phân phối của
chương trình để soạn bài.
Điều 4. – Chương trình có
ghi cả kế hoạch thực hiện, số tuần học trong một năm và số giờ học hàng tuần.
Mỗi trường phải
nghiêm chỉnh thực hiện kế hoạch ấy, tuy nhiên do tình hình thực tế thời vụ mỗi
nơi một khác cho nên phân phối năm học có thể khác nhau. Việc quyết định phân
phối năm học có thể khác nhau. Việc quyết định phân phối năm học phải do Ty
giáo dục quyết định, trên tinh thần bảo đảm đủ số giờ đã quy định trong chương
trình.
Chương 3:
TỔ CHỨC TRƯỜNG LỚP BỔ
TÚC VĂN HÓA
Điều 5. - Ở nông thôn được
tổ chức hai loại trường, trường cấp I và trường cấp II. Việc mở trường phải do Ủy
ban hành chính xã đề nghị lên Ty giáo dục quyết định.
Trường cấp I
mở ở các hợp tác xã quy mô thôn do hợp tác xã quản lý. Hợp tác xã cử một cán bộ
trong ban quản trị ra làm hiệu trưởng và cử những người có khả năng và trình độ
văn hóa ra làm giáo viên giảng dạy trong các lớp bổ túc văn hóa của hợp tác xã.
Trường cấp II
mở chung ở xã do Ủy ban hành chính xã quản lý, Trường cấp II cần dành ưu tiên
cho các cán bộ chủ chốt ở xã và hợp tác xã, các anh hùng lao động, chiến sĩ thi
đua, đảng viên, thanh niên lao động, các giáo viên bổ túc văn hóa vào học.
Ủy ban hành
chính xã cần cử cán bộ ra làm hiệu trưởng để trực tiếp quản lý trường sở. Giáo
viên dạy ở trường này là các giáo viên của trường phổ thông, giáo viên chuyên
trách hoặc những người có đủ trình độ văn hóa ở trong xã được Ủy ban hành chính
lựa chọn ra làm giáo viên.
Điều 6. - Tất cả các trường
bổ túc văn hóa cần phải cố gắng có đủ cơ sở vật chất cần thiết như: - bàn ghế -
bảng đen – các dụng cụ giảng dạy cần thiết – có đủ ánh sáng – có đất đai để thực
hành kỹ thuật.
Điều 7. - Tất cả các lớp
(cấp I và cấp II) đều phải có đủ các sổ sách cần thiết như sổ gọi tên, sổ ghi
điểm, sổ theo dõi đầu bài, sổ biên bản của lớp và các sách giáo khoa cần thiết
cho việc giảng dạy.
Các sổ sách
phải được bảo quản chu đáo, và có sự theo dõi thường xuyên của hiệu trưởng và
giáo viên phụ trách lớp.
Chương 4:
LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC BỔ TÚC
VĂN HÓA
Điều 8. - Mỗi trường bổ
túc văn hóa phải có một ban giám hiệu từ ba đến năm người để lãnh đạo công tác
của trường. Thành phần của ban giám hiệu trường cấp I bổ túc văn hóa gồm có:
- Một đại biểu
của ban quản trị hợp tác xã làm hiệu trưởng. Ngoài ra có tổ trưởng tổ giáo viên
của trưởng bổ túc văn hóa cấp 1, một đại biểu của trường phổ thông cấp I cử ra
làm công tác bổ túc văn hóa và một đại biểu của chi đoàn Thanh niên lao động
tham gia vào ban giám hiệu.
Thành phần của
ban giám hiệu trường cấp II bổ túc văn hóa gồm có:
- Một đại biểu
của chính quyền xã cử ra làm hiệu trưởng. Ngoài ra hiệu trưởng trường phổ thông
cấp II, giáo viên chuyên trách, hoặc giáo viên đặc trách, và đại biểu đoàn thể
thanh niên tham gia vào ban giám hiệu.
Ban giám hiệu
có trách nhiệm lãnh đạo toàn diện công tác bổ túc văn hóa của trường đó và phân
công người phụ trách từng mặt công tác.
Cụ thể là:
a) Tổ chức cơ
sở vật chất của trường:
- Thiết bị
trường lớp, bàn ghế, bảng, ánh sáng, các sách giáo khoa, đồ dùng để dạy v.v…
- Thực hiện
quy chế do cơ quan giáo dục ban hành.
- Thực hiện nội
quy của trường.
- Thu học phí
và trả thù lao cho giáo viên.
b) Lãnh đạo
công tác giảng dạy và học tập:
- Bố trí giáo
viên, lập kế hoạch giảng dạy, chỉ đạo giáo viên nghiên cứu và thực hiện chương
trình.
- Theo dõi và
kiểm tra việc giảng dạy của giáo viên.
- Tổ chức các
buổi kiến thực tập, bồi dưỡng cho giáo viên về chuyên môn.
- Theo dõi kết
quả học tập và hướng dẫn phương pháp học tập cho học viên. Tổ chức tốt các kỳ
thi lên lớp, quản lý việc ghi học bạ cho học viên và các sổ sách của trường.
c) Lãnh đạo
công tác thi đua:
- Lãnh đạo
tinh thần và thái độ học tập của học viên, động viên học viên đi học.
- Phát động
phong trào thi đua trong giáo viên và học viên, bình bầu những giáo viên và học
viên có nhiều thành tích.
d) Tổ chức
các buổi sinh hoạt thường kỳ với giáo viên phụ trách các lớp, với ban quản trị
lớp để nắm được tình hình chung và có biện pháp bổ khuyết kịp thời.
Điều 9. - Hiệu trưởng chịu
trách nhiệm chung về các mặt công tác, nhất là công tác thi đua, và liên hệ với
chính quyền và các đoàn thể địa phương để giải quyết những công tác của trường.
Trong ban
giám hiệu phải có một người nắm được công tác chuyên môn để phụ trách công tác
giảng dạy và học tập, giúp hiệu trưởng lãnh đạo tốt công tác chuyên môn của trường.
Các đại biểu
còn lại sẽ phân công nhau giúp hiệu trưởng phụ trách từng mặt công tác khác như
tổ chức cơ sở vật chất của trường, thu học phí của học viên và chịu trách nhiệm
đôn đốc học viên ở đoàn thể mình đi học.
Điều 10. – Các giáo
viên bổ túc văn hóa được tổ chức thành những nhóm hoặc tổ chuyên môn.
Đối với giáo
viên các trường cấp I thì tổ chức chung thành một tổ giáo viên có tổ trưởng phụ
trách.
Các giáo viên
trường cấp II bổ túc văn hóa thì tùy theo tình hình thực tế mà tổ chức thành
các tổ hoặc nhóm chuyên môn về tự nhiên và xã hội có các tổ trưởng hoặc nhóm
trưởng phụ trách.
Các tổ giáo
viên và tổ hoặc nhóm chuyên môn phải sinh hoạt thường kỳ để bàn những công tác
thiết thực nhất trong việc giảng dạy. Cụ thể là:
- Xây dựng kế
hoạch giảng dạy các bộ môn kiểm điểm việc thực hiện chương trình kế hoạch và giảng
dạy.
- Trao đổi
kinh nghiệm soạn bài, giáo án, kinh nghiệm giảng dạy và kinh nghiệm sử dụng
sách giáo khoa.
- Tổ chức
thăm lớp lẫn nhau để rút kinh nghiệm.
- Bàn kế hoạch
tổ chức thực hành kỹ thuật hoặc phổ biến khoa học kỹ thuật trong nhân dân.
- Bàn kế hoạch
kiểm tra lên lớp và thi hết cấp cho học viên.
Điều 11. – Trong các buổi
học, học viên phải tự quản là chính. Mỗi lớp cần cử ban quản trị lớp có lớp trưởng
và lớp phó để:
- Theo dõi,
đôn đốc việc thực hiện nội quy học tập của lớp mình.
- Bảo quản cơ
sở vật chất của trường, giữ các sổ gọi tên và ghi điểm, thu học phí.
- Tổ chức cho
lớp góp ý kiến với nhà trường về mọi mặt: tổ chức, giảng dạy, học tập v.v…
Chương 5:
GIÁO VIÊN
Điều 12. – Giáo viên dạy
các lớp bổ túc văn hóa phải lựa chọn người có khả năng và phải được bồi dưỡng về
chuyên môn để thực hiện chương trình và đảm bảo chất lượng giảng dạy.
Về văn hóa:
Giáo viên phải hơn lớp mình phụ trách ít nhất là ba lớp. Mỗi giáo viên phải tích
cực học văn hóa để nâng cao trình độ văn hóa của mình để đảm bảo tốt việc giảng
dạy.
Về nghiệp vụ:
Phải được bồi dưỡng về tâm sinh lý người lớn và phương phàp giảng dạy người lớn,
biết cách soạn bài, soạn giáo án và cách làm kế hoạch giảng dạy để thực hiện tốt
chương trình.
Mỗi giáo viên
phải nắm chắc được toàn bộ nội dung chương trình của bộ môn lớp mình phụ trách
và nghiên cứu chương trình của cấp mình để thực hiện tốt chương trình. Phải
tham dự các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ, các buổi kiến thực tập và các buổi rút
kinh nghiệm về nâng cao chất lượng giảng dạy. Giáo viên phải tham gia đều đặn
các buổi sinh hoạt của tổ, của nhà trường và tích cực tham gia vào các hoạt động
của tổ giáo viên.
Về đạo đức:
Giáo viên phải có tư tưởng, thái độ chính trị tốt, nắm được chủ trương, chính
sách của Đảng và Chính phủ, nhất là các chủ trương chính sách đang được phổ biến
ở nông thôn để thông qua bài giảng mà giáo dục cho học viên.
- Phải nâng
cao nhiệt tình giảng dạy, quan tâm đến tình hình học tập của học viên để có biện
pháp giúp đỡ học viên học tập kết quả.
- Giáo viên bổ
túc văn hóa được hưởng thù lao tùy theo khả năng thu nhập ở cơ sở mình giảng dạy,
và tùy theo quy định cụ thể của cơ sở đó. Giáo viên bổ túc văn hóa được miễn
công tác dân công trong thời gian tham gia công tác bổ túc văn hóa theo quy định
của Chính phủ.
Điều 13. - Ở những nơi
có trường cấp II phổ thông thì theo Chỉ thị số 042-CT ngày 11-7-1963 của Bộ
Giáo dục, mà sử dụng giáo viên đặc trách lấy tỉ lệ 1,7 giáo viên cho các lớp phổ
thông ra làm công tác bổ túc văn hóa. Giáo viên đặc trách chỉ dạy một số ít giờ
ở trường phổ thông (từ 3 đến 6 giờ trong một tuần) số giờ còn lại để làm công
tác bổ túc văn hóa.
Những nơi
chưa có trường cấp II phổ thông sẽ có giáo viên chuyên trách. Giáo viên chuyên
trách phải dậy từ 9 đến 12 giờ một tuần ở các lớp học bổ túc văn hóa của cán bộ
chủ chốt và đối tượng chính,.
Giáo viên
chuyên trách cũng tới trường phổ thông cấp I tổ chức và giảng dạy các lớp cấp
II bổ túc văn hóa của xã và tổ chức bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên kiêm chức
của xã đó.
Chương 6:
HỌC VIÊN
Điều 14. - Học viên phải
luôn luôn xác định mục đích chính của việc học tập là nhằm đẩy mạnh sản xuất, cải
tiến kỹ thuật, cải tiến công tác quản lý ở nông thôn. Mỗi học viên phải tuân
theo kế hoạch học tập và nội quy của trường lớp, cố gắng khắc phục khó khăn để
thường xuyên đi học đều đặn.
Điều 15. - Mỗi học viên
phải có học bạ, hàng năm phải được ghi đầy đủ thành tích học tập và ý kiến nhận
xét của giáo viên chủ nhiệm.
Khi học viên
vào học lớp nào phải có học bạ đầy đủ và phải qua kỳ kiểm tra để đánh giá trình
độ trước khi vào lớp.
Điều 16. - Học viên phải
đi học thường xuyên, nếu nghỉ bài nào phải cố gắng học bù để có cơ sở tiếp tục
học các bài sau. Nếu học viên nghỉ qua 1/4 số bài học trong một năm học thì phải
học lại, hoặc phải có kế hoạch học bổ sung cho đủ mới được dự các kỳ kiểm tra
lên lớp và thi tốt nghiệp.
Học viên phải
học đầy đủ các môn học đã quy định trong chương trình, không được chỉ chú trọng
môn này coi nhẹ môn khác, phải tích cực vận dụng những điều đã học vào thực tế
sản xuất và đời sống. Phải thực hiện theo những hướng dẫn của giáo viên, tích cực
tham gia công tác thực hành kỹ thuật do trường tổ chức và hướng dẫn.
Điều 17. - Học viên có
nhiệm vụ đóng học phí đầy đủ, các góp sức xây dựng trường lớp. Tham gia các hoạt
động của nhà trường.
Điều 18. - Đối với một
số cán bộ chủ chốt có thể tùy theo khả năng của địa phương mà có thể được bố
trí học những lớp riêng và tăng thêm nhiều buổi hơn để chóng thanh toán chương
trình học, hoặc có thể được đi dự lớp tập trung ngắn ngày do huyện hay tỉnh tổ
chức. Các cấp chính quyền, các đoàn thể và các ban quản trị hợp tác xã cần quan
tâm đầy đủ đến tình hình học tập của các cán bộ chủ chốt, phải quy định chế độ
cụ thể về giờ giấc học tập, phân công giáo viên tốt giảng dạy và giúp đỡ các
phương tiện để giảng dạy cũng như có trường lớp, bàn ghế, bảng chu đáo để học
viên học tập được kết quả.
Chương 7:
CHẾ ĐỘ THI CHUYỂN LỚP VÀ
THI HẾT CẤP
Điều 19. - Để đảm bảo
cho học viên học tập kết quả và tiến lên vững chắc, nhà trường phải tổ chức việc
kiểm tra lên lớp và tổ chức thi tốt nghiệp chặc chẽ và kịp thời. Trước khi kiểm
tra hoặc thi, nhà trường phải có kế hoạch giúp học viên ôn tập, hệ thống hóa
các môn học.
Học viên muốn
dự kiểm tra lên lớp cần có đủ điều kiện sau đây:
a) Phải học
căn bản hết số giờ đã quy định cho từng môn học ở lớp mình, làm tương đối đầy đủ
bài kiểm tra hàng tháng mới được dự kiểm tra lên lớp.
b) Nếu vì lý
do nào đó phải nghỉ mất quá 1/4 số bài học của lớp đó mà không có kế hoạch học
bù thì không được dự kiểm tra.
c) Nếu trong
năm học có 3/4 số điểm tổng kết cả năm dưới trung bình, hoặc có 1/2 số điểm tổng
kết cả năm trong đó có cả hai môn văn và toán dưới trung bình thì phải học lại.
Học viên khi
dự kiểm tra lên lớp nếu đạt được điểm trung bình của tất cả các môn mới được
lên lớp. Môn nào đạt điểm dưới trung bình thì phải kiểm tra lại. Nếu khi kiểm
tra lại vẫn có những môn dưới trung bình, trong đó không có môn văn hoặc toán
thì xét điểm tổng kết, nếu điểm tổng kết môn đó đạt điểm trung bình thì được
lên lớp. Nếu các môn kiểm tra lại mà có môn toán hay văn vẫn không đạt điểm
trung bình thì phải học lại. Trường hợp có những học viên kiểm tra xong, hoặc học
bù đủ số bài trong chương trình thì nhà trường có thể tổ chức những kỳ thi
riêng cho những học viên đó.
Điều 20. - Học viên có
những điều kiện sau đây thì được dự kỳ thi hết cấp:
- Học viên phải
có học bạ chứng nhận đã học hết chương trình các lớp của cấp đó.
- Phải có đủ
điều kiện quy định ở điều 19 (gồm các điểm a, b, c) đối với các lớp cuối cấp (lớp
4 của cấp I và lớp 7 của cấp II) mới được dự thi hết cấp.
(Thể lệ thi,
tổ chức hội đồng thi và điều kiện trúng tuyển sẽ có quy định riêng cho từng cấp
học).
Điều 21. – Khi học hết chương
trình của mỗi lớp, ban giám hiệu có trách nhiệm tổ chức kiểm tra chuyểnlớp cho
học viên. Bài kiểm tra các lớp cấp I do trường cấp I bổ túc văn hóa soạn phải
thông qua ban giám hiệu trường đó và được sự góp ý của nhà trường phổ thông cấp
I ở địa phương. Bài kiểm tra các lớp cấp II do trường cấp II bổ túc văn hóa soạn
và phải được phòng giáo dục huyện thông qua.
Điều 22. – Khi học xong
chương trình của một cấp, sau khi đã tổ chức ôn tập kỹ cho học viên, ban giám
hiệu phải đăng ký với ban giáo dục xã để xin tổ chức thi. Ban giáo dục xã phải
báo cáo lên phòng giáo dục để quyết định ngày thi hết cấp I. Ty giáo dục ra đề
thi hết cấp I và phải duyệt danh sách thí sinh trúng tuyển hết cấp I. Việc tổ
chức thi hết cấp I phải thống nhất cho các trường cấp I ở trong xã hay liên xã.
Mỗi năm có thể tổ chức thi hết cấp I làm hai kỳ vào lúc thuận tiện nhất.
- Đối với thi
hết cấp II, phòng giáo dục phải báo cáo với Ty giáo dục và do Ty giáo dục quyết
định ngày thi, ngày thi hết cấp II cần thống nhất cho toàn huyện hoặc cho một số
xã trong huyện.
Việc ra đề
thi hết cấp II do Ty giáo dục soạn và phải được Bộ Giáo dục thông qua. Ty giáo
dục duyệt danh sách thí sinh trúng tuyển kỳ thi hết cấp II.
Mỗi năm chỉ tổ
chức thi hết cấp II vào một lần chính thức, tùy số học viên thi hỏng mà có thể
tổ chức thi lại lần thứ hai.
Điều 23. – Ty giáo dục
có nhiệm vụ cấp giấy chứng nhận tốt nghiệp cấp I và cấp II theo mẫu thống nhất
của Bộ Giáo dục.
Chương 8:
KHEN THƯỞNG VÀ KỶ LUẬT
Điều 24. – Các trường bổ
túc văn hóa thi đua giảng dạy tốt, học tập tốt (theo tiêu chuẩn của Bộ Giáo dục)
và thi đua thực hiện tốt chỉ tiêu kế hoạch của từng năm học.
Giáo viên giảng
dạy tích cực sẽ được bầu là giáo viên tiên tiến, giáo viên có nhiều thành tích
xuất sắc sẽ được bầu là chiến sĩ thi đua và được đề nghị lên cấp trên khen thưởng
thích đáng.
Những học
viên học tập tốt, đạt nhiều thành tích sẽ được bầu là học viên tiên tiến và được
chính quyền và các đoàn thể xét để khen thưởng.
Điều 25. - Những giáo
viên vi phạm nội quy của trường, mắc những khuyết điểm trong giảng dạy hoặc
không làm đầy đủ nhiệm vụ của mình, ban giám hiệu sẽ phê bình, nếu khuyết điểm
nặng sẽ do Ty giáo dục hoặc cơ quan cấp trên quyết định kỷ luật.
Những học
viên phạm nội quy của trường, ban giám hiệu sẽ phê bình giáo dục. Nếu khuyết điểm
nặng mà không chịu sửa chữa, ban giám hiệu có thể cảnh cáo hoặc đưa ra khỏi trường.
Chương 9:
SỬ DỤNG QUỸ VÀ CHẾ ĐỘ
BÁO CÁO
Điều 26. - Quỹ của trường
bổ túc văn hóa gồm tiền học phí (hoặc công điểm) của học viên đóng, tiền ủng hộ
các đoàn thể hay tư nhân và tiền thu hoạch của tổ giáo viên và học viên trong
việc thực hành kỹ thuật.
Ban giám hiệu
được quyền chi tiêu tiền quỹ vào các việc: mua sắm phương tiện để dậy như phấn,
giấy, sách giáo khoa v.v… và chi thù lao cho giáo viên theo quy định của địa
phương. Việc thu chi phải có sổ sách, Ủy ban hành chính xã có trách nhiệm kiểm
tra việc sử dụng quỹ của các trường trong xã.
Từng học kỳ
hoặc từng năm học, ban giám hiệu phải báo cáo tài chính cho toàn trường biết.
Điều 27. - Từng học kỳ,
hoặc sau các đợt sơ kết, tổng kết, ban giám hiệu phải có nhiệm vụ báo cáo tình
hình cho ban giáo dục xã. Ban giáo dục xã tập hợp tình hình hàng tháng để báo
cáo lên cấp trên.
Điều 28. – Quy chế này
có hiệu lực kể từ ngày ban hành. Các quy định trước đây trái với quy chế này đều
không có giá trị. Quy chế này ban hành theo Quyết định số 918-QĐ ngày
24-12-1963.
QUY CHẾ
VỀ NHIỆM VỤ CỦA CÁC TRƯỜNG PHỔ THÔNG LÀM CÔNG TÁC BỔ TÚC VĂN
HÓA Ở NÔNG THÔN
Nghị quyết Đại
hội Đảng lần thứ 3 đã ghi rõ: “Về giáo dục, trước mắt cần coi nhiệm vụ bổ túc
văn hóa là nhiệm vụ hàng đầu, nhằm đặt cơ sở đẩy mạnh công tác giáo dục tư tưởng
chính trị trong nhân dân lao động, xúc tiến công tác đào tạo cán bộ kinh tế văn
hóa theo quy mô lớn và mở rộng công tác phổ biến khoa học và kỹ thuật”. Nghị
quyết của Trung ương Đảng lần thứ 8 lại một lần nữa xác định công tác bổ túc
văn hóa là công tác hàng đầu của ngành giáo dục. Để thực hiện nhiệm vụ này,
ngành ta cố ra sức động viên lực lượng toàn dân và trước hết là động viên lực
lượng toàn ngành giáo dục tham gia làm công tác bổ túc văn hóa thì nhiệm vụ
hàng đầu mới thực hiện được tốt.
Năm 1962, Bộ
đã đề ra nhiệm vụ thứ 8 làm công tác bổ túc văn hóa cho các trường phổ thông.
Thực hiện nhiệm vụ này, nhiều trường phổ thông đã làm tốt công tác bổ túc văn
hóa. Đến nay, đã tạo điều kiện cho các trường phổ thông có thể làm tốt hơn nữa
công tác bổ túc văn hóa. Bộ đã có chủ trương tính thêm tỷ lệ giáo viên cho các
trường cấp II (từ tỷ lệ mỗi lớp có 1,5 giáo viên nay tăng lên 1,7).
Trong khi chờ
đợi một bản quy chế chính thức, Bộ tạm thời quy định một số chế độ của nhà trường
phổ thông làm nhiệm vụ bổ túc văn hóa như sau:
NHIỆM VỤ CỦA TRƯỜNG PHỔ THÔNG CẤP I
Điều 1. - Trường phổ
thông cấp I, ngoài việc giảng dạy tốt cho học sinh phổ thông, còn có nhiệm vụ
giúp đỡ bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên bổ túc văn hóa về chương trình, kế
hoạch thực hiện phương pháp soạn bài, tổ chức kiến tập, xây dựng tổ giáo viên.
Điều 2. - Cử giáo
viên dạy các lớp 3, 4 hoặc lớp 5 bổ túc văn hóa nhất là đối với các lớp có đối
tượng chủ chốt và đối tượng chính theo học, có thể dạy ở các lớp 1, 2 nếu thiếu
giáo viên bổ túc văn hóa.
Điều 3. – Phong trào
bổ túc văn hóa do cán bộ bổ túc văn hóa, hợp tác xã, chính quyền địa phương phụ
trách. Trường phổ thông có nhiệm vụ giảng dạy là chính. Tuy nhiên tùy theo tình
hình cụ thể và yêu cầu của địa phương, trường còn có nhiệm vụ phối hợp với
chính quyền xã, hợp tác xã để góp ý kiến và tham gia xây dựng phong trào trong
một chừng mực nhất định.
NHIỆM VỤ CỦA TRƯỜNG PHỔ THÔNG CẤP II
Điều 4. - Trường phổ
thông cấp II chịu trách nhiệm chính về chất lượng của các lớp cấp II bổ túc văn
hóa, nhất là ở các lớp có đối tượng chủ chốt và đối tượng chính theo học.
Điều 5. – Nghiên cứu
nắm vững chương trình bổ túc văn hóa để cùng giáo viên bổ túc văn hóa bố trí thời
khóa biểu, phân công giáo viên giảng dạy các môn, lập kế hoạch thực hiện chương
trình ở các lớp và điều chỉnh kế hoạch thực hiện khi cần thiết.
Điều 6. – Có kế hoạch
bồi dưỡng văn hóa và chuyên môn tại chức cho giáo viên cấp I và cấp II bổ túc
văn hóa làm tốt nhiệm vụ giảng dạy (giáo viên kiêm chức)
Điều 7. - Sử dụng trường
lớp, các đồ cùng giảng dạy, các hóa chất thí nghiệm vào công tác bổ túc văn
hóa. Đối với những nơi hóa chất có hạn, có thể vận động học viên bổ túc văn hóa
đóng góp để mua thêm.
Điều 8. - Hiệu trưởng
(hoặc hiệu phó) phải tham gia vào trong Ban giám hiệu trường bổ túc văn hóa cấp
II, lãnh đạo giáo viên và học sinh làm công tác bổ túc văn hóa, theo dõi và đôn
đốc kiểm tra sự thực hiện.
Điều 9. - Cử giáo
viên đặc trách làm công tác bổ túc văn hóa. Với chủ trương tăng tỷ lệ giáo viên
từ 1,5 đến 1,7, Bộ đã dành cho cấp II lực lượng giáo viên để làm công tác bổ
túc văn hóa. Các trường có 4, 5, 6 lớp phải cử ra một giáo viên đặc trách. Các
trường có 7, 8, 9, 10 lớp phải cử hai giáo viên đặc trách. Các giáo viên đặc
trách phải là những người có trình độ chính trị, có uy tín trong Hội đồng giáo
viên, nắm được chuyên môn và có kinh nghiệm về công tác quần chúng. Ngoài giáo
viên đặc trách, nhà trường còn phải cử giáo viên chủ nhiệm cho các lớp cấp II bổ
túc văn hóa.
Điều 10. – Hội đồng
giáo viên, trong các kỳ sinh hoạt cần phải dành một phần thời gian để kiểm điểm
về công tác tham gia bổ túc văn hóa (tình hình giảng dạy, sự thực hiện chương
trình, đánh giá kết quả các mặt công tác), khi cần thiết có thể triệu tập một kỳ
sinh hoạt để bàn riêng về công tác bổ túc văn hóa.
NHIỆM VỤ GIÁO VIÊN ĐẶC TRÁCH VÀ CHUYÊN TRÁCH LÀM CÔNG TÁC BỔ
TÚC VĂN HÓA
Điều 11. – Giáo
viên đặc trách có nhiệm vụ trực tiếp giảng dạy và chăm lo tổ chức các lớp cấp
II bổ túc văn hóa có cán bộ chủ chốt và đối tượng chính theo học. Ngoài ra còn
phải dành một số giờ để giảng dạy ở lớp phổ thông. Tỷ lệ sử dụng thời gian như
sau:
- Dành từ 9 đến
12 giờ để giảng dạy cho bổ túc văn hóa.
- Dành từ 3 đến
6 giờ để dạy cho các lớp phổ thông.
Điều 12. – Làm công
tác giáo vụ cho trường cấp II bổ túc văn hóa, giúp hiệu trưởng trường liên hệ với
các cấp lãnh đạo ở địa phương để xây dựng các lớp bổ túc văn hóa cho cán bộ chủ
chốt và đối tượng chính.
Điều 13. – Nghiên cứu
chương trình, tài liệu giáo khoa bổ túc văn hóa, theo dõi đôn đốc giáo viên đã
được nhà trường phân công giảng dạy bổ túc văn hóa để đảm bảo việc thực hiện
chương trình, bảo đảm chất lượng, tổ chức sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm, cải
tiến phương pháp giảng dạy, đề ra những biện pháp để duy trì lớp học và nâng
cao chất lượng học tập, tổ chức thi hết lớp.
Điều 14. - Tổ chức
bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên cấp II bổ túc văn hóa (kiêm chức) bồi dưỡng
phương pháp học tập cho học viên, tổ chức thực hành kỹ thuật cho các lớp chủ chốt,
đối tượng chính.
Điều 15. - Ở những
trường có hai giáo viên đặc trách mà không sử dụng hết số giờ đã quy định thì
phân công nhau một người tham gia ngay ở cơ sở, một người sang làm nhiệm vụ giảng
dạy bổ túc văn hóa ở xã bên cạnh (nơi không có trường cấp II phổ thông và giáo
viên chuyên trách).
Điều 16. – Giáo
viên chuyên trách do Ty cử ra ở nơi không có trường cấp II và giáo viên đặc
trách, có nhiệm vụ phối hợp chặt chẽ với trường phổ thông cấp I ở nơi phụ tách,
sinh hoạt với hội đồng nhà trường để làm nhiệm vụ giảng dạy và chăm lo cho công
tác bổ túc văn hóa như đã quy định đối với giáo viên đặc trách.
Giáo viên
chuyên trách không phải làm công tác giảng dạy ở trường phổ thông cấp II như
giáo viên đặc trách. Do đó ngoài số giờ quy định giảng dạy cho các lớp bổ túc
văn hóa, phải dùng số giờ còn lại để phụ đạo cho cán bộ chủ chốt, hoặc bồi dưỡng
chuyên môn, văn hóa cho giáo viên bổ túc văn hóa.
NHIỆM VỤ CỦA TẤT CẢ GIÁO VIÊN PHỔ THÔNG
Điều 17. – Các giáo
viên phổ thông đều có nhiệm vụ tham gia công tác bổ túc văn hóa theo như Thông
tư số 46-TT của Bộ đã ban hành ngày 24-10-1962. Tất cả giáo viên đều có nhiệm vụ
dạy bổ túc văn hóa từ 2 đến 6 giờ một tuần (có phụ cấp) ngoài số giờ quy định.
Nếu chưa dạy đủ số giờ quy định thì phải dạy thêm bổ túc văn hóa cho đủ số giờ
(không có phụ cấp). Số giờ đã quy định:
Cấp I: dạy đủ
số giờ tối đa ấn định trong thời khóa biểu hàng tuần của một lớp mình phụ
trách.
Cấp II: dạy học
mỗi tuần là 18 giờ.
Cấp II: dạy học
mỗi tuần là 16 giờ.
Điều 18. – Hội đồng
nhà trường sẽ tính toán toàn bộ số giờ của giáo viên phải dạy và số giờ đã được
tăng lên do việc nâng tỷ lệ giáo viên từ 1,5 đến 17 để tùy tình hình cụ thể mà
có thể phân công cho một số giáo viên chuyên giảng dạy cho phổ thông, một số
giáo viên khác vừa dạy cho bổ túc văn hóa vừa dạy cho phổ thông. Các giáo viên
được cử tham gia dạy bổ túc văn hóa phải là người có chuyên môn vững, chính trị
tốt.
CHẾ ĐỘ PHỤ CẤP
Điều 19. – Ngoài số
giờ dạy đã quy định, nếu dạy quá giờ giáo viên sẽ được tính phụ cấp theo như chế
độ hiện hành. Phụ cấp giảng dạy của giáo viên đều trích ở quỹ học phí do học
viên đóng góp. Ở những nơi nào chưa có điều kiện bảo đảm mức phụ cấp giảng dạy
trên đây thì nhà trường cần động viên tinh thần phục vụ của giáo viên, đồng thời
phải tích cực bàn bạc với lãnh đạo của địa phương, làm cho học viên thông sốt,
việc thu học phí đạt kết quả tốt, dần dần giải quyết thỏa đáng vấn đề đãi ngộ
cho giáo viên.
ĐỐI VỚI MIỀN NÚI
Điều 20. - Đối với
miền núi, công tác bổ túc văn hóa đòi hỏi người giáo viên phổ thông phải vừa
tham gia tổ chức phong trào, vừa tham gia giảng dạy một cách thật linh hoạt cho
phù hợp với địa phương. Vì vậy, chế độ, giờ giấc dạy sẽ do Ty giáo dục địa
phương dựa vào quy chế này và điều kiện thực tế quy định cho sát.
KHEN THƯỞNG VÀ KỶ LUẬT
Điều 21. – Các trường
phổ thông nào, giáo viên nào làm tốt công tác bổ túc văn hóa sẽ được khen thưởng.
Trái lại trường nào, giáo viên nào không thực hiện đầy đủ các điểm đã ghi trong
quy chế sẽ tùy tình hình mà phê bình, khiển trách.
Điều 22. – Quy chế
này có hiệu lực kể từ ngày ban hành. Các quy định trước đây trái với quy chế
này đều không có giá trị.
Bản quy chế
này ban hành theo Quyết định số 918-QĐ ngày 24-12-1963.