BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO
TẠO
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------
|
Số: 760/BC-BGDĐT
|
Hà Nội, ngày 29
tháng 10 năm 2009
|
BÁO CÁO
SỰ
PHÁT TRIỂN CỦA HỆ THỐNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC, CÁC GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO VÀ NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO
Sau 23 năm đổi mới của đất nước và 9 năm thực
hiện Chiến lược phát triển giáo dục 2001 - 2010, giáo dục đại học nước ta đã
từng bước phát triển rõ rệt về quy mô, đa dạng về loại hình trường và hình thức
đào tạo, nguồn lực xã hội được huy động nhiều hơn và đạt được nhiều kết quả
tích cực, cung cấp nguồn lao động chủ yếu có trình độ cao đẳng, đại học, thạc
sĩ và tiến sĩ phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bảo đảm an ninh quốc phòng và hội nhập kinh
tế quốc tế.
Tuy nhiên, giáo dục đại học đang đứng trước
thách thức rất to lớn: Phương pháp quản lý nhà nước đối với các trường đại học,
cao đẳng chậm được thay đổi, không đảm bảo yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo
của toàn hệ thống, chưa phát huy mạnh mẽ được sự sáng tạo của đội ngũ nhà giáo,
các nhà quản lý và sinh viên. Chất lượng nguồn nhân lực đang là một khâu yếu
kém, kéo dài của toàn bộ hệ thống kinh tế.
I. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA
HỆ THỐNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
1. Kết quả đạt được
của giáo dục đại học những năm qua
1.1. Đa dạng hóa về
loại hình trường và hoàn thiện quy hoạch mạng lưới các trường đại học, cao đẳng
a) Về số trường: Năm 1987 cả nước có 101
trường đại học và cao đẳng (63 trường đại học, chiếm 62%; 38 trường cao đẳng,
chiếm 38%), đến tháng 9/2009 có 376 trường đại học và cao đẳng, tăng gấp 3,7
lần (150 trường đại học, chiếm 40%, gấp 2,4 lần và 226 trường cao đẳng chiếm
60%, gấp 6 lần).
b) Về loại hình trường và sở hữu: Năm 1987 cả
nước có 101 trường đại học và cao đẳng công lập, không có trường ngoài công
lập; năm 1997 có 126 trường đại học và cao đẳng (tăng 1,2 lần), trong đó 15
trường đại học ngoài công lập; đến tháng 9/2009 có 376 trường đại học và cao
đẳng (tăng 3,7 lần), trong đó 81 trường đại học, cao đẳng ngoài công lập, chiếm
21,5% (44 trường đại học và 37 trường cao đẳng).
c) Về thực hiện quy hoạch mạng lưới: Từ năm
1998 đến nay (12 năm) đã có 33 trường đại học được thành lập mới (2 trường công
lập và 31 trường ngoài công lập); 54 trường đại học nâng cấp từ trường cao đẳng
(51 trường đại học công lập và 3 trường đại học ngoài công lập). Cả nước có
35/63 tỉnh có thêm trường đại học mới, trong đó: 23 tỉnh có thêm 1 trường; 10
tỉnh có thêm 2 - 3 trường; riêng thành phố Hồ Chí Minh có thêm 18 trường đại
học và Hà Nội (mở rộng) có thêm 23 trường, chiếm tỷ lệ 43% số trường đại học
thành lập mới và nâng cấp.
d) Về cơ sở đào tạo sau đại học (bao gồm các
trường đại học và viện nghiên cứu): Tính đến tháng 9/2009, cả nước có 159 cơ sở
đào tạo sau đại học (71 viện nghiên cứu, chiếm 44,7% và 88 trường đại học,
chiếm 55,3%), trong đó có 121 cơ sở đào tạo tiến sĩ và 100 cơ sở đào tạo thạc
sĩ (trong đó có 4 trường đại học ngoài công lập được giao nhiệm vụ đào tạo
trình độ thạc sĩ).
Nhận xét về kết quả phát triển mạng lưới các
trường đại học, cao đẳng:
- Công tác xã hội hoá giáo dục được đẩy mạnh,
nguồn lực trong xã hội đầu tư cho giáo dục huy động ngày càng nhiều.
- Hệ thống các cơ sở giáo dục đại học được
phát triển đúng theo định hướng qui hoạch, phân bố trên phạm vi cả nước. Đến
nay, đã có 40/63 tỉnh, thành phố có trường đại học (đạt tỷ lệ 63%); có 60/63
tỉnh, thành có trường cao đẳng (đạt tỷ lệ 95%) và có 62/63 tỉnh, thành có ít
nhất 1 trường cao đẳng hoặc đại học (đạt tỷ lệ 98%, trừ tỉnh Đăknông chưa có
trường đại học, cao đẳng nào).
- Số lượng trường đại học, cao đẳng ở các
vùng cao, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn đã tăng lên,
như Tây Bắc (1 trường đại học, 8 trường cao đẳng); Tây Nguyên (3 trường đại
học, 10 trường cao đẳng); đồng bằng sông Cửu Long (11 trường đại học, 27 trường
cao đẳng), tạo điều kiện cho các tầng lớp nhân dân có cơ hội tiếp cận với giáo
dục đại học, nhất là ở khu vực nông thôn và vùng sâu, vùng xa, miền núi, con em
đồng bào dân tộc thiểu số.
- Các trường đại học, cao đẳng công lập đã
giữ được vai trò nòng cốt trong đào tạo nguồn nhân lực (tổng quy mô đào tạo đại
học, cao đẳng năm học 2008 - 2009 là 1.719.499 sinh viên, quy mô các trường
công lập là 1.501.310 sinh viên, chiếm tỷ lệ 87,3%). Tổng số các đại học, cao
đẳng công lập là 295, chiếm 78% tổng số đại học, cao đẳng cả nước.
- Các trường ngoài công lập phát triển nhanh
về số lượng, năm 1997 có 15 trường đại học ngoài công lập, đến tháng 9/2009 có
81 trường (44 trường đại học và 37 trường cao đẳng ngoài công lập), tăng 5,8
lần. Quy mô đào tạo tại các trường đại học, cao đẳng ngoài công lập năm học
2008 - 2009 là 218.189 sinh viên, chiếm tỷ lệ 12,7% so với tổng số sinh viên.
- Các cơ sở đào tạo sau đại học trong nước đã
và đang cung cấp nguồn nhân lực trọng yếu trình độ cao trong giảng dạy và
nghiên cứu khoa học, phát triển kinh tế, cải thiện đời sống xã hội, giữ vững an
ninh và chủ quyền quốc gia. Phần lớn số tiến sĩ, thạc sĩ đào tạo trong nước là
giảng viên, cán bộ nghiên cứu của các cơ sở đào tạo sau đại học và viện nghiên
cứu. Số còn lại làm việc trong bộ máy quản lý nhà nước của các Bộ, ngành và địa
phương.
Tuy nhiên, trong công tác thành lập trường,
triển khai thực hiện quy hoạch mạng lưới trường đại học, cao đẳng theo Quyết
định số 121 của Thủ tướng Chính phủ cũng còn bộc lộ những hạn chế là:
- Khoảng 20% trường đại học, cao đẳng (12
trường) được thành lập mới hoặc nâng cấp lên đại học từ năm 2005 trở lại đây
chưa thực hiện đầy đủ các cam kết như trong Đề án khả thi thành lập trường và
mở ngành tuyển sinh, chưa chuẩn bị đồng bộ 4 yếu tố về: đất đai xây dựng
trường; đội ngũ giảng viên cơ hữu và thỉnh giảng; vốn đầu tư và các điều kiện
đảm bảo chất lượng khác (chương trình đào tạo, thư viện, giáo trình, trang
thiết bị thí nghiệm, ...).
- Chưa có quy định bắt buộc về kiểm tra thực
tế các điều kiện cần thiết khi cho phép mở ngành đào tạo và tuyển sinh (chỉ
kiểm tra dựa theo hồ sơ). Chế tài xử lý đối với các trường không thực hiện đúng
cam kết về các điều kiện mở ngành và tuyển sinh chưa đủ mạnh. Chưa có quy định
các trường phải xây dựng chuẩn năng lực người tốt nghiệp (chuẩn đầu ra) nên
chưa có cơ sở đánh giá đúng chất lượng đào tạo. Hệ thống quản lý chất lượng
trong giáo dục đại học chậm được hình thành (năm 2004 Cục Khảo thí và Kiểm định
chất lượng giáo dục mới được thành lập).
- Các trường đại học, cao đẳng vẫn tập trung
chủ yếu ở 5 thành phố trực thuộc Trung ương, 5 thành phố này có 102/150 trường
đại học cả nước, chiếm 68% và có 184/276 trường đại học, cao đẳng cả nước,
chiếm 49%. Riêng các trường cao đẳng, 5 thành phố có 82/226 trường, chiếm 36%.
1.2. Mở rộng quy mô
đào tạo cao đẳng, đại học, thạc sĩ, tiến sĩ
a) Về chỉ tiêu tuyển sinh đại học, cao đẳng:
Năm 1987 số sinh viên tuyển mới là 34.110, năm 1997 là 123.969 (tăng 3,6 lần so
với 1987), đến năm 2009 là 503.618 (tăng 4 lần so với năm 1997 và tăng 14,7 lần
so với năm 1987);
Công bằng xã hội được thực hiện tốt hơn. Số
con em diện chính sách, miền núi, dân tộc, vùng sâu, vùng xa được thu hút ngày
càng đông vào các trường đại học và cao đẳng (bình quân 5 năm 2004 - 2008, tỷ
lệ thí sinh trúng tuyển đại học, cao đẳng hệ chính quy có hộ khẩu thường trú
tại vùng cao miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn là
26,29%, số thí sinh là người dân tộc thiểu số đạt tỷ lệ 4,71% , số thí sinh từ
khu vực nông thôn và miền núi là 64,5% và số thí sinh nữ là 51,6% so với tổng
số thí sinh trúng tuyển).
b) Về quy mô đào tạo cao đẳng, đại học: Năm
1987 tổng số sinh viên là 133.136, năm 1997 là 715.231 (tăng 5,4 lần), năm 2009
là 1.719.499 (tăng 2,4 lần so với năm 1997 và gần 13 lần so với năm 1987);
Quy mô đào tạo đại học, cao đẳng tăng dần qua
các năm, tỷ lệ sinh viên/1 vạn dân cũng tăng, năm 1997 là 80 sinh viên/1 vạn
dân, năm 2006 là 166,5 sinh viên/1 vạn dân, năm 2009 là 195 sinh viên/1 vạn
dân, đến năm 2010 có thể đạt 200 sinh viên/1 vạn dân theo đúng định hướng Nghị
quyết số 14 của Chính phủ và Quyết định số 121 của Thủ tướng Chính phủ. Nếu so
với các nước, thì tỷ lệ sinh viên/1 vạn dân của Việt Nam còn rất thấp: năm 2005
Thái Lan có 374 sinh viên/1vạn dân; Chi Lê có 407 sinh viên/1 vạn dân, Nhật Bản
có 316 sinh viên/1 vạn dân, Pháp có 359 sinh viên/1 vạn dân, Anh có 380 sinh
viên/1 vạn dân, Úc có 504 sinh viên/1 vạn dân, Mỹ có 576 sinh viên/1 vạn dân và
Hàn quốc có 674 sinh viên/1 vạn dân.
c) Số sinh viên tốt nghiệp: Năm 1987 có
19.900 sinh viên tốt nghiệp, năm 1997 có 73.736 (tăng 3,7 lần so với 1987) và
năm 2009 có 222.665 (tăng 11 lần so với năm 1987); số sinh viên tốt nghiệp đại
học, cao đẳng từng bước đáp ứng nhu cầu nhân lực qua đào tạo cho phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước;
d) Quy mô đào tạo sau đại học: Từ năm 2000
đến nay, các cơ sở đào trung bình mỗi năm đào tạo 650 tiến sĩ trong nước. Năm
2008 các cơ sở đào tạo sau đại học đã tuyển được 1.805 nghiên cứu sinh và
22.885 học viên cao học. Năm 2009, các cơ sở đào tạo sau đại học trong nước đã
đăng ký 2.504 chỉ tiêu đào tạo tiến sĩ và 30.638 chỉ tiêu đào tạo thạc sĩ. So
với chỉ tiêu đào tạo ở nước ngoài, năm 2009, số lượng nghiên cứu sinh trong
nước cao hơn 3,57 lần, học viên cao học gấp 15,3 lần. Con số đó cho thấy vai
trò quan trọng của đào tạo sau đại học trong nước đối với việc cung ứng nhân
lực trình độ cao cho đất nước.
Sự phát triển quy mô của giáo dục đại học
những năm qua đã đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập của nhân dân, nguồn nhân lực
cho phát triển kinh tế - xã hội, nhưng hạn chế cơ bản là một thời gian rất dài,
từ năm 1975 đến năm 2004, Nhà nước buông lỏng quản lý chất lượng giáo dục đại
học, do đó việc tăng quy mô đào tạo, số trường đại học, cao đẳng trong nhiều
trường hợp làm tăng nguy cơ chất lượng giảm sút.
1.3. Cơ cấu trình độ,
ngành nghề đào tạo thay đổi theo xu hướng hợp lý và hình thức đào tạo đa dạng
hơn
a) Cơ cấu trình độ đào tạo: Quy mô đào tạo
đại học giảm từ 79,4% (năm 1997) xuống 72,3% (năm 2009); quy mô đào tạo cao
đẳng tăng từ 20,6% (năm 1997) lên 27,7% (năm 2009);
b) Ngành nghề đào tạo: Tỷ lệ đào tạo các
ngành kỹ thuật - công nghệ, nông - lâm - ngư, y dược, văn hóa - nghệ thuật, thể
dục, thể thao tăng; đào tạo nguồn nhân lực thuộc các lĩnh vực công nghệ, thông
tin, sinh học, vật liệu mới được ưu tiên;
c) Hình thức đào tạo: Theo quy định của Luật
Giáo dục 1998 và 2005, hình thức đào tạo cao đẳng, đại học được đa dạng hoá,
gồm đào tạo chính quy tập trung và giáo dục thường xuyên/đào tạo không chính
quy (vừa làm vừa học, đào tạo từ xa và tự học có hướng dẫn). Tổng quy mô đào
tạo không chính quy hiện nay khoảng gần 900.000 sinh viên (trong đó đào tạo từ
xa khoảng 220.000 sinh viên), chiếm xấp xỉ 50% tổng quy mô đào tạo của các trường
đại học, cao đẳng.
Cùng với đào tạo chính quy, đào tạo không
chính quy ở các trường đại học, cao đẳng những năm qua, đã có những đóng góp
đáng kể trong việc đào tạo nguồn nhân lực tại chỗ cho phát triển kinh tế - xã
hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng các vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế khó khăn,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số; đồng thời cũng đã huy động được các nguồn lực
trong xã hội phục vụ cho sự nghiệp phát triển giáo dục. Bằng nguồn kinh phí
đóng góp của người học, các trường cao đẳng, đại học có thêm nguồn kinh phí
để tái đầu tư tăng cường cho cơ sở vật chất, trang thiết bị và tài liệu giảng
dạy, học tập, cải thiện đời sống. Khai thác được khả năng, trí tuệ của đội ngũ
nhà giáo trong công tác đào tạo nguồn nhân lực.
1.4. Chất lượng giáo
dục đại học bước đầu được kiểm soát và từng bước được cải thiện
a) Hình thành hệ thống cơ quan chuyên trách
quản lý chất lượng giáo dục đại học từ Trung ương đến các trường.
Trước năm 2004, Bộ Giáo dục và Đào tạo chưa
có cơ quan chuyên trách quản lý chất lượng giáo dục, chưa có chủ trương các
trường đại học, cao đẳng phải công bố chuẩn đầu ra, các đại học không báo cáo
chất lượng giáo dục một cách chính quy, Bộ Giáo dục và Đào tạo chưa có khả năng
đánh giá chất lượng của toàn hệ thống giáo dục đại học một cách khoa học và sát
thực tiễn. Năm 2004 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã thành lập Cục Khảo thí và Kiểm
định chất lượng giáo dục, sau đó đã hỗ trợ các trường đại học, cao đẳng hình
thành 77 tổ chức chuyên trách về đảm bảo chất lượng ở các trường đại học, cao
đẳng. Trên cơ sở đó, đến nay đã có 114 trường đại học, cao đẳng tiến hành tự
đánh giá chất lượng, chiếm trên 70% số trường đại học cả nước.
b) Tạo sự giám sát xã hội về chất lượng đào
tạo và động lực cho việc nâng cao chất lượng đào tạo
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Quy chế
thực hiện 3 công khai đối với các cơ sở giáo dục từ tháng 5/2009 (công khai cam
kết chất lượng đào tạo và chất lượng thực tế của cơ sở đào tạo; công khai nguồn
lực phục vụ đào tạo (giảng viên, giáo trình, chương trình đào tạo, cơ sở vật
chất,…); công khai thu chi tài chính). Các nội dung của 3 công khai phải được
công bố ở Website của mỗi trường, ở các khoa, thư viện để mọi người dễ tiếp
cận. Theo đó, từ năm học 2009 – 2010, trường đại học, cao đẳng nào không thực
hiện 3 công khai theo hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo vào tháng 01/2010
thì sẽ không được phép tuyển sinh năm học 2010 – 2011. Từ năm 2007 Bộ Giáo dục
và Đào tạo đã yêu cầu các cơ sở giáo dục xác định chỉ tiêu tuyển sinh hàng năm
phải căn cứ vào số giảng viên và chất lượng giảng viên của trường, tỷ lệ sinh
viên trên giảng viên của trường, năng lực thiết bị chuyên ngành phục vụ đào
tạo, diện tích phòng học, phòng thí nghiệm theo đầu sinh viên,… qua đó tạo ra
sự ràng buộc khách quan giữa phát triển số lượng sinh viên và chất lượng đào
tạo.
Nhằm tạo động lực cho quá trình nâng cao chất
lượng đào tạo, từ năm 2007, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai chủ trương
“Đào tạo theo nhu cầu xã hội”. Theo đó, nhà trường cần xây dựng và công bố
chuẩn đầu ra của mỗi ngành đào tạo, đánh giá sự phù hợp của các chuẩn đó so với
nhu cầu sử dụng nhân lực của các doanh nghiệp, nhà nước, người sử dụng lao
động. Đến nay có khoảng 10 trường đại học, cao đẳng công bố chuẩn đầu ra của
mình (chiếm 2,7% số trường đại học, cao đẳng). Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phối
hợp với các Bộ, ngành khác, các doanh nghiệp, các trường đại học, cao đẳng tổ
chức 13 Hội thảo quốc gia về đào tạo theo nhu cầu xã hội, qua đó có trên 600
hợp đồng, thoả thuận đào tạo và sử dụng lao động giữa các doanh nghiệp, cơ quan
sử dụng lao động và các trường đại học, cao đẳng được ký kết với hơn 10.000 lao
động được đào tạo theo đặt hàng. Giá trị thiết bị, chương trình đào tạo mà các
doanh nghiệp đã hỗ trợ các trường qua liên kết đào tạo này là khoảng 10 triệu
USD.
c) Chuẩn hoá và nâng cao chất lượng các đầu
vào của quá trình đào tạo đại học:
- Chuẩn hoá chất lượng sinh viên được nhập
học: Thực hiện tuyển sinh đại học nghiêm túc đồng thời trong cả nước với đề thi
chung cho tất cả các trường đại học, cao đẳng (theo khối thi) và sử dụng chung
kết quả thi để xét tuyển cho nhiều trường đại học, cao đẳng khác nhau. Điểm sàn
để xét tuyển vào các trường đại học do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định tương
ứng với từng khối thi, dao động trong khoảng từ 13 đến 15 điểm/30 điểm, 3 môn
thi.
- Chuẩn hoá giảng viên đại học: Bộ Giáo dục
và Đào tạo đã xác định tỷ lệ tối đa sinh viên/giảng viên của các khối ngành đào
tạo khác nhau (Khối Kỹ thuật - Công nghệ: 20 sinh viên/1 giảng viên; Khối ngành
Kinh tế - Quản trị kinh doanh: 25 sinh viên/1 giảng viên; Khối ngành Nghệ
thuật, Thể dục thể thao: 15 sinh viên/1 giảng viên; …). Chính phủ cũng đã có
Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP ngày 2/11/2005 về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo
dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006 - 2020, trong đó xác định yêu cầu phải đạt
tỷ lệ giảng viên là tiến sĩ qua từng giai đoạn, mục tiêu là đến năm 2020 phải
đạt ít nhất 35% giảng viên có trình độ tiến sĩ. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển
khai chương trình đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ ở nước ngoài cho giảng viên các
trường đại học, cao đẳng với quy mô ngày càng tăng. Công tác xét và công nhận
Giáo sư, Phó giáo sư đã được tiến hành liên tục từ năm 2000 đến nay với quy
trình, nội dung có cải tiến. Số giảng viên đại học, cao đẳng đã tăng từ 20.112
năm 1997 lên 61.190 năm 2009 (gấp 3 lần), số giảng viên có trình độ tiến sĩ
tăng từ 2.041 người lên 6.217 người (gấp 3 lần), số giảng viên có trình độ thạc
sĩ tăng từ 3.802 người lên 24.831 người (gấp 6 lần), số giảng viên là Giáo sư,
Phó giáo sư tăng từ 526 người lên 2.286 người (gấp 4,5 lần).
- Chuẩn hoá đội ngũ lãnh đạo các trường đại
học, cao đẳng: Từ năm 2007 đến nay đã tổ chức các lớp bồi dưỡng quản lý trường
đại học, cao đẳng, có sự tham gia của chuyên gia có kinh nghiệm nước ngoài, gắn
với thăm quan các đại học ở nước ngoài cho 252 Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng các
trường đại học, cao đẳng; đang chuẩn bị lớp bồi dưỡng năm 2009 cho 300 Hiệu
trưởng, Phó hiệu trưởng các trường đại học, cao đẳng.
- Chuẩn hoá chương trình đào tạo: Trong bối
cảnh trình độ đa số giảng viên chưa phải là tiến sĩ, tình hình các trường còn
rất khác nhau về chất lượng đội ngũ giảng viên, việc đưa ra chương trình khung
cho các ngành đào tạo là cần thiết. Theo đó 50 - 60% khối lượng kiến thức của
chương trình đào tạo có nội dung được quy định ở chương trình khung, còn lại là
sự lựa chọn và vận dụng phát triển của các trường. Cho đến nay, Bộ Giáo dục và
Đào tạo đã ban hành được 207 chương trình khung trình độ đại học và cao đẳng.
- Hiện đại hoá chương trình và điều kiện đào
tạo qua hợp tác với các đại học có uy tín ở nước ngoài: Được sự chấp thuận của
Thủ tướng Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phối hợp với các đại học triển
khai 23 chương trình đào tạo tiên tiến ở 17 trường đại học ở các ngành khoa học
công nghệ mũi nhọn chọn lọc, chương trình đào tạo là của trường đối tác, giảng
dạy bằng tiếng Anh, đánh giá kết quả theo tiêu chuẩn của trường đối tác. Hiện
nay đang chuẩn bị triển khai tiếp 12 chương trình.
- Nâng cao chất lượng giáo trình: Để khắc
phục tình hình thiếu giáo trình có chất lượng cho các ngành, Bộ Giáo dục và Đào
tạo đã chỉ đạo và phối hợp với 24 trường đại học đưa hơn 1.000 giáo trình lên
Website của Bộ, đến nay đã có hơn 10 triệu lượt người truy cập vào Website tra
cứu.
- Đổi mới phương pháp giảng dạy, tăng cường
ứng dụng công nghệ thông tin: Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo các trường chủ
động đổi mới phương pháp giảng dạy, khuyến khích sự tự học có hướng dẫn, học
qua thảo luận và làm việc theo nhóm, giảng viên sử dụng thiết bị trình chiếu và
máy tính để giảng dạy.
- Đổi mới cơ chế quản lý tài chính giáo dục
đại học: Quốc hội đã có Nghị quyết số 35 về định hướng đổi mới một số nội dung
của cơ chế tài chính giáo dục, trong đó có tăng học phí cho giáo dục đại học,
thực hiện cơ chế xã hội giám sát đầu tư cho giáo dục. Thủ tướng Chính phủ đã
quy định chương trình cho học sinh hộ nghèo, cận nghèo vay để học đại học, cao
đẳng, học nghề (đến nay có 1,4 triệu học sinh học nghề, sinh viên được vay,
chiếm 50% tổng số sinh viên), triển khai chương trình xây ký túc xá cho 60%
sinh viên Việt Nam, tạo một cơ hội hết sức to lớn để tạo ra và phát huy thế
mạnh của con người Việt Nam được đào tạo trong giai đoạn tăng tốc phát triển
bền vững và hội nhập.
- Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về
giáo dục đại học tiếp tục được hoàn thiện: Nhiều văn bản quy phạm pháp luật về
giáo dục đại học đã được ban hành, làm căn cứ pháp lý cho các trường tổ chức
triển khai thực hiện và công tác thanh tra, kiểm tra của các cơ quan quản lý
các cấp, cụ thể là: Quy chế về tuyển sinh; Quy chế đào tạo; quy định về đào tạo
liên thông, liên kết; quy chế đào tạo trình độ thạc sĩ, tiến sĩ; công khai
trong giáo dục; chế độ làm việc của giảng viên; điều lệ trường cao đẳng; thành
lập, đình chỉ hoạt động, sáp nhập, chia, tách, giải thể trường đại học; tổ chức
và hoạt động của đại học tư thục,…
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật phục vụ
cho công tác kiểm định như: các tiêu chuẩn kiểm định chất lượng, quy trình kiểm
định kèm theo các văn bản hướng dẫn đã được xây dựng làm tiền đề cho việc triển
khai công tác kiểm định chất lượng các cơ sở giáo dục đại học và các chương
trình đào tạo.
Tuy nhiên, so với yêu cầu triển khai Luật
Giáo dục 2005 và nhu cầu quản lý chất lượng giáo dục, việc ban hành các văn bản
quy phạm pháp luật còn chậm, chưa đồng bộ.
Các hoạt động nêu trên do Bộ Giáo dục và Đào
tạo chỉ đạo triển khai đã có tác dụng quan trọng, tích cực trong việc từng bước
nâng cao chất lượng giáo dục đại học và bắt đầu kiểm soát chất lượng giáo dục.
Tuy nhiên, quản lý chất lượng giáo dục là
khâu yếu nhất hiện nay, đang còn nhiều bất cập. Cho đến năm 2007, Bộ Giáo dục
và Đào tạo chưa có chủ trương là các trường đại học, cao đẳng phải công bố
chuẩn năng lực của người tốt nghiệp các ngành nghề của các trường đại học (hiểu
biết gì, có kỹ năng gì, có năng lực hành vi thế nào, có thể làm việc được ở các
vị trí gì trong xã hội?), vì vậy, cũng chưa có trường nào công bố chuẩn năng
lực sinh viên tốt nghiệp của trường mình. Do đó, chưa có đủ cơ sở để đánh giá
chất lượng giáo dục của các trường một cách khách quan, toàn diện. Các yếu tố
đầu vào để đảm bảo chất lượng cho đào tạo thực tế chưa được kiểm soát triệt để.
Năm 1987, một giảng viên đại học, cao đẳng đào tạo bình quân 6,6 sinh viên, đến
năm 2009 một giảng viên đại học, cao đẳng đào tạo bình quân 28 sinh viên. Sau
22 năm, số sinh viên tăng 13 lần, số trường đại học, cao đẳng tăng 3,7 lần,
nhưng số giảng viên chỉ tăng 3 lần. Năm 1987 tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến
sĩ là 10,09%, năm 2009 là 10,16%. Cho đến nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng chưa
ban hành quy chế về giáo trình đại học, cao đẳng. Cho đến năm 2004, trong Bộ
Giáo dục và Đào tạo chưa có cơ quan chuyên trách về quản lý chất lượng (Cục
Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục thành lập vào năm 2004), hàng năm, Bộ
Giáo dục và Đào tạo không có đánh giá chất lượng giáo dục đại học một cách có
cơ sở khoa học và thực tiễn.
Nhìn chung chất lượng đào tạo còn thấp, chưa
có chuyển biến trên diện rộng. Chưa tạo được sự đồng hướng về lợi ích, sự quan
tâm đủ mạnh đến chất lượng giáo dục giữa người học, người dạy, nhà đầu tư cho
giáo dục, người sử dụng lao động và xã hội. Thực tế gần 30 năm chúng ta chưa
thực sự quản lý được chất lượng giáo dục đại học vì chưa có chuẩn đầu ra của
các trường đại học, cao đẳng (chuẩn năng lực của người tốt nghiệp); chưa giữ
được chuẩn của nhiều yếu tố đầu vào (giáo viên, chương trình, giáo trình, cơ sở
vật chất); chưa có cơ quan chuyên trách quản lý chất lượng; hàng năm chưa có
đánh giá thực tế và có báo cáo hàng năm về chất lượng đào tạo của các trường và
cả hệ thống giáo dục đại học.
1.5. Hợp tác quốc tế
a) Trong thời gian qua, chúng ta đã đàm phán
ký kết được các thỏa thuận công nhận tương đương bằng cấp giữa Việt Nam
với 10 nước trên thế giới;
b) Gia hạn và đàm phán ký mới hiệp định hợp
tác về giáo dục với nước ngoài; trong 2 năm 2008 và 2009, Việt Nam đã ký 31
Điều ước quốc tế và Thoả thuận quốc tế về hợp tác trong lĩnh vực giáo dục và
đào tạo với các nước ở cấp Chính phủ và cấp Bộ (không kể cấp trường);
c) Trong gần 10 năm, từ năm 2000 đến tháng
10/2009 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã cử 7.039 lưu học sinh đi học nước ngoài bằng
ngân sách Nhà nước và Hiệp định (trong đó đi học tiến sĩ là 2.029 người, thạc
sĩ là 1.598 người, thực tập sinh là 626 người và đại học là 2.786 người); bình
quân 1 năm cử trên 700 lưu học sinh đi học nước ngoài. Năm học 2008 - 2009 đã
cử được trên 1.000 người đi học nước ngoài, trong đó trên 700 người học tiến
sĩ, thạc sĩ, thực tập sinh bằng nguồn ngân sách nhà nước, không kể các nguồn
khác. Riêng 10 tháng đầu năm 2009, đã gửi được 900 người đi học nước ngoài,
trong đó có 585 người ( 330 đi học tiến sĩ, 184 đi học thạc sĩ và 71 thực tập
sinh).
d) Có trên 30 trường đại học có chương trình
hợp tác quốc tế tốt, có hiệu quả, đã đạt được thỏa thuận công nhận liên thông
chương trình với các trường đại học nước ngoài, theo đó các trường đại học nước
ngoài đã công nhận những tín chỉ sinh viên Việt Nam tích lũy trong quá trình
học đại học ở Việt Nam. Nhiều chương trình đại học 3+1 và 2+2 đã được ký kết.
Ngày càng có nhiều chương trình đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ phối hợp với nước
ngoài có cả giáo sư Việt Nam và giáo sư nước ngoài đồng hướng dẫn;
e) Phối hợp với các đại học nước ngoài triển
khai 23 chương trình tiên tiến ở 17 trường đại học; với Ngân hàng thế giới,
Ngân hàng phát triển Châu Á để xây dựng các đại học xuất sắc theo chỉ đạo của
Thủ tướng Chính phủ. Đến nay, đại học Việt - Đức đã đi vào hoạt động từ năm
2008;
g) Trong những năm gần đây, sinh viên nước
ngoài đến học tại các trường đại học của Việt Nam ngày một tăng. Theo số liệu
thống kê chưa đầy đủ, hiện nay có gần 10.000 sinh viên nước ngoài đang học tại
các trường đại học, cao đẳng của Việt Nam. Bắt đầu xuất hiện sinh viên nước
ngoài đến Việt Nam học các chương trình chuyên ngành bằng tiếng Anh;
1.6. Quản lý hệ thống
giáo dục đại học
Do đặc điểm lịch sử, việc quản lý và chịu
trách nhiệm của cơ quan nhà nước về các trường đại học, cao đẳng rất phân tán.
Trong tổng số 376 đại học, cao đẳng cả nước hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo
quản lý 54 trường (14,4%); các Bộ, ngành khác quản lý 116 trường (30,8%); UBND
các tỉnh, thành phố là cơ quan chủ quản của 125 trường (33,2%); có 81 trường
dân lập, tư thục (21,5%).
Trong khi Bộ Giáo dục và Đào tạo là cơ quan
duy nhất theo luật pháp được ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý
giáo dục cấp Bộ, thì việc kiểm tra chấp hành các văn bản đó ở các trường đại
học, cao đẳng thuộc các Bộ, ngành khác và do Uỷ ban nhân dân là cơ quan chủ
quản còn rất hạn chế, có Bộ còn ra văn bản chồng chéo lên chức năng quản lý nhà
nước của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Uỷ ban nhân dân các tỉnh chưa được phân cấp
quản lý các trường đại học, cao đẳng ngoài công lập trên địa bàn tỉnh, thành uỷ,
chủ yếu chỉ tham gia xem xét việc thành lập trường, giải quyết các nhu cầu và vấn
đề xã hội của trường trên địa bàn, quản lý tổ chức Đảng của nhà trường. Mọi nội
dung khác về quản lý nhà nước về giáo dục đại học đối với các đại học này đều
thuộc về Bộ Giáo dục và Đào tạo, trong khi khả năng kiểm soát hoạt động của các
trường trong cả nước của Bộ Giáo dục và Đào tạo là rất hạn chế (nếu mỗi tuần Bộ
Giáo dục và Đào tạo thanh tra, kiểm tra 2 trường đại học, cao đẳng thì phải mất
3,5 năm mới thanh tra, kiểm tra hết một lượt 376 trường đại học, cao đẳng).
Thực tế thời gian qua không có họp định kỳ
hàng năm giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo, các Bộ, ngành khác và Uỷ ban nhân dân các
tỉnh về quản lý các trường đại học, cao đẳng, chưa có quy chế phối hợp giữa Bộ
Giáo dục và Đào tạo, các Bộ, ngành khác và Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố
về quản lý các trường này. Do đó xét về tổng thể Bộ Giáo dục và Đào tạo chưa
thể trả lời được 3 câu hỏi: 1). Chất lượng đào tạo của các trường thế nào? 2).
Các trường tuân thủ các quy định pháp luật liên quan đến đào tạo thế nào? 3).
Hiệu quả đầu tư từ ngân sách cho các trường đại học, cao đẳng công lập thế nào?
(Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ quản lý 54 trong tổng số 295 đại học, cao đẳng công
lập toàn quốc, chiếm 18,3%).
Để việc nâng cao chất lượng đào tạo được
thường xuyên, thiết thực thì các trường đại học, cao đẳng phải vừa có quyền tự
chủ cao, vừa có nghĩa vụ chịu trách nhiệm rõ ràng trước xã hội và Nhà nước.
Việc tự chủ gắn với tự chịu trách nhiệm chỉ có thể làm được khi Chính phủ và Bộ
Giáo dục và Đào tạo ban hành đầy đủ các quy chế, quy định chung liên quan đến các
mặt hoạt động của nhà trường như: Điều kiện thành lập trường đại học, cao đẳng
và mở ngành đào tạo, tuyển sinh, Điều lệ trường đại học, cao đẳng; quy chế hoạt
động của nhà trường; quy chế đào tạo, tuyển sinh, tuyển dụng; quy định về giáo
trình; quy chế quản lý chất lượng; quy chế quản lý khoa học; quy chế hợp tác
quốc tế; quyền hạn và trách nhiệm của giảng viên; quy chế quản lý sinh viên;
quy chế quản lý tài chính; quy định về mối quan hệ giữa Ban giám hiệu, Đảng uỷ,
các Đoàn thể trong nhà trường; quy chế công khai các hoạt động của trường,...
Thời gian qua, các quy chế, quy định này chưa đầy đủ nên việc tự chủ, tự chịu
trách nhiệm của cơ sở giáo dục hạn chế. Các trường chưa chịu áp lực giám sát
của xã hội, áp lực cạnh tranh lành mạnh vì lợi ích xã hội, tập thể và cá nhân.
Việc quy hoạch và đánh giá đội ngũ Hiệu trưởng các trường đại học, cao đẳng
cũng còn hạn chế, chưa đảm bảo có đội ngũ giảng viên giỏi, có năng lực quản lý,
sẵn sàng tham gia lãnh đạo các nhà trường với yêu cầu ngày càng cao. Việc xem xét
bổ nhiệm Hiệu trưởng, Hiệu phó các đại học công lập do Bộ Giáo dục và Đào tạo
quản lý và công nhận Hội đồng quản trị, Hiệu trưởng, Hiệu phó của các đại học
ngoài công lập được lãnh đạo Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện nghiêm túc.
Các quy định về tài chính chậm được đổi mới,
còn nhiều bất hợp lý, hạn chế sự năng động, sáng tạo của các trường.
Quy định về Hội đồng trường thực tế còn nhiều
bất hợp lý, tuyệt đại đa số các trường không thực hiện. Các trường đại học, cao
đẳng không thực hiện nghiêm túc chế độ báo cáo hàng năm cho Bộ Giáo dục và Đào
tạo. Kết thúc năm học 2008 - 2009, 54% số trường có gửi báo cáo, 46% không gửi.
Từ năm 2000 đến 2005 Bộ Giáo dục và Đào tạo không tiến hành tổng kết năm học
với sự tham gia của các trường đại học, cao đẳng, từ năm 2006 thì tổng kết hàng
năm theo 3 khu vực của cả nước. Cho đến nay Bộ Giáo dục và Đào tạo chưa có cơ
sở dữ liệu các đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý của các trường đại học, cao
đẳng cả nước. Chưa hình thành hệ thống quản lý được tin học hoá giữa các trường
đại học, cao đẳng và Bộ Giáo dục và Đào tạo.
2. Đánh giá tổng quát
2.1. Những thành tựu
nổi bật của giáo dục đại học sau 23 năm đổi mới
- Cung cấp hàng triệu nhân lực có trình độ
cao đẳng, đại học, hàng vạn lao động có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ cho đất nước.
Đây là lực lượng chủ lực, nòng cốt của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, của phát triển đất nước trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế.
- Năng lực đào tạo tăng hơn 3 lần (376 trường
đại học, cao đẳng với 61.150 giảng viên so với 101 trường đại học, cao đẳng và
20.212 giảng viên, 6.217 giảng viên là tiến sĩ so với 2.041, 2.286 GS, PGS so
với 526 GS, PGS), quy mô đào tạo tăng gần 13 lần (1,7 triệu sinh viên so với
133.136 sinh viên).
- Hệ thống cơ sở đào tạo đại học đã phủ gần
kín cả nước (62/63 tỉnh, thành phố đã có đại học hoặc cao đẳng).
- Đầu tư của nhà nước cho giáo dục đại học
tăng nhanh, cơ chế tài chính cho giáo dục đại học đã bắt đầu được đổi mới.
Nguồn lực của xã hội đầu tư cho giáo dục đại học tăng nhanh (có 81 trường đại
học, cao đẳng ngoài công lập, chiếm 21,5% số trường).
- Đã bắt đầu hình thành hệ thống quản lý chất
lượng giáo dục đại học trong cả nước và cơ chế nhà nước, nhà trường và người
dân giám sát chất lượng giáo dục và đầu tư cho giáo dục.
- Quan hệ quốc tế phát triển tương đối nhanh
cả cấp quốc gia và cấp trường.
2.2. Những hạn chế
chủ yếu của giáo dục đại học
- Việc quản lí nhà nước về giáo dục đại học
còn nhiều bất cập, trì trệ, là nguyên nhân cơ bản của việc chất lượng giáo dục
đại học không có cải thiện đáng kể trên diện rộng. Nếu không có giải pháp kiên
quyết, có tính đột phá, chất lượng giáo dục đại học sẽ ngày càng tụt hậu trước
đòi hỏi của phát triển đất nước.
- Chất lượng giáo dục đại học nói chung,
trong đó đặc biệt là đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ còn nhiều hạn chế, đang và sẽ còn
gây hậu quả cho nền kinh tế trong thời gian tương đối dài.
2.3. Nguyên nhân của
các thành tựu
- Sự quan tâm lớn, liên tục của Đảng, Quốc
hội và Chính phủ cho sự nghiệp giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói
riêng. Chính phủ và Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành các qui hoạch phát triển
giáo dục đại học dài hạn, các chương trình mục tiêu, quyết định các chương
trình đề án lớn, có tác dụng lâu dài (cho sinh viên nghèo vay để học, xây dựng
các đại học quốc gia, các chương trình tiên tiến, các đại học xuất sắc, kí túc
xá cho sinh viên, đào tạo 20.000 tiến sĩ,…)
- Đội ngũ nhà giáo tận tâm với nghề, sinh
viên có truyền thống hiếu học, nhân dân có truyền thống chăm lo cho giáo dục.
- Cán bộ quản lí giáo dục ở cơ sở và Bộ Giáo
dục và Đào tạo nỗ lực khắc phục khó khăn, sáng tạo giải quyết các nhiệm vụ thực
tế đặt ra.
- Ngành Giáo dục đã tận dụng được các cơ hội
hợp tác quốc tế để hiện đại hóa giáo dục đại học.
2.4. Nguyên nhân các
hạn chế, yếu kém
- Hệ thống giáo dục bị chi phối cùng lúc bởi nhiều
loại quy luật: quy luật sư phạm, quy luật quản lý hệ thống, quy luật kinh tế và
quy luật xã hội. Các cán bộ quản lý giáo dục đại học, nhất là ở cấp quốc gia
không được quy hoạch và đào tạo có hệ thống, để có thể nắm vững các loại quy
luật trên, vận dụng sáng tạo trong công tác, do đó yếu kém kéo dài mà không
khắc phục được.
- Hệ thống quản lý giáo dục đại học còn nặng
chiều chỉ đạo từ trên xuống, xin từ dưới lên, chưa có cơ chế buộc lãnh đạo cấp
trên phải nghe cơ sở, cấp dưới ở mức cần thiết, chưa có cơ chế sàng lọc cán bộ,
công chức không hoàn thành nhiệm vụ.
II. CÁC GIẢI PHÁP ĐẢM
BẢO VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO 2009 - 2012
1. Tổ chức thảo luận
trong toàn ngành và xã hội: ”Làm gì để đảm bảo và nâng cao chất lượng đào tạo”.
- Tổ chức thảo luận ở các bộ môn, các khoa,
các trường với sự tham gia của giảng viên, sinh viên, đại diện người sử dụng
lao động, đại diện Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố, Bộ Giáo dục và Đào tạo,
Bộ chủ quản xung quanh vấn đề: Không thể tiếp tục phát triển quy mô giáo dục đại
học mà lại buông lỏng quản lý chất lượng như thời gian qua. Mỗi người đều có
trách nhiệm: Quản lý nhà nước, quản lý nhà trường, giảng viên, sinh viên, người
sử dụng lao động và xã hội.
Đổi mới quản lý nhà nước về giáo dục là khâu
đột phá để đảm bảo và nâng cao chất lượng đào tạo.
- Thảo luận và đề xuất, thực hiện các giải
pháp quản lý chất lượng trong toàn hệ thống; ở mỗi đơn vị, mỗi cấp triển khai
cụ thể nhiệm vụ của mình. Mỗi người không làm những việc gây tổn hại đến chất
lượng giáo dục đại học.
2. Đổi mới quản lý hệ
thống giáo dục đại học
2.1. Bộ Giáo dục và Đào tạo hoàn thiện các
văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến hoạt động của nhà trường (các quy chế,
quy định về đào tạo, tuyển sinh, nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế, quản lý
tài chính, tuyển dụng, vv), xong trước tháng 6/2010.
2.2. Quy định về phối hợp và phân cấp quản lý
giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo, các Bộ ngành khác và Uỷ ban nhân dân các tỉnh,
thành phố đối với các trường đại học, cao đẳng (Nghị định Chính phủ), xong
trước tháng 3/2010.
2.3. Các trường đại học, cao đẳng thực hiện
tự chủ, tự chịu trách nhiệm về phát triển của trường: Rà soát và hoàn thiện tất
cả các quy định, quy chế của nhà trường, thực hiện 3 công khai, thực hiện tuyển
dụng theo hợp đồng, trả lương gắn với hiệu quả đóng góp, kiện toàn các cơ quan
quản lý của nhà trường, xong trước tháng 9/2010.
2.4. Kiểm tra thực hiện 3 công khai trong
toàn quốc, gắn với chỉ tiêu tuyển sinh năm 2010 và các năm sau. Tất cả các
trường được kiểm tra 3 công khai 1 lần, trước tháng 7/2010.
2.5. Đổi mới quy chế đánh giá và cho phép mở
ngành tuyển sinh. Kiểm tra tại cơ sở giáo dục trước khi được mở ngành 3 tháng,
3 năm sau đó mỗi năm kiểm tra lại 1 lần. Hoàn thành quy chế mới vào tháng
12/2009.
2.6. Hoàn thiện quy định về Hội đồng trường
và quan hệ giữa Hội đồng trường, Ban giám hiệu, Đảng uỷ trường, các tổ chức
đoàn thể, chính trị xã hội, trước tháng 5/2010.
2.7. Xây dựng quy định về hoàn thiện việc
đánh giá quản lý giáo dục đại học: Sinh viên tham gia đánh giá giảng dạy của
giảng viên, giảng viên tham gia đánh giá hoạt động của lãnh đạo trường; các đại
học, cao đẳng tham gia đánh giá chỉ đạo, quản lý của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ
chủ quản và Uỷ ban nhân tỉnh, thành phố nơi trường đóng, triển khai từ 5/2010.
2.8. Các trường đại học, cao đẳng phải xây
dựng chuẩn đầu ra cho tất cả các ngành đào tạo của mình (Bộ Giáo dục và Đào tạo
hướng dẫn cách làm), xong trước tháng 12/2010.
2.9. Triển khai Nghị định của Chính phủ về
đổi mới cơ chế tài chính giáo dục theo Nghị quyết 35 của Quốc hội, các trường
cần xây dựng kế hoạch dài hạn 2010-2014, sử dụng phần thu học phí tăng thêm để
đầu tư cho các khâu, các yếu tố đầu vào của quá trình đào tạo, nâng cao năng
lực quản lý và chăm lo cho giảng viên để có tác dụng rõ rệt nâng cao chất lượng
đào tạo.
2.10. Rà soát, cập nhật quy hoạch mạng lưới
các trường đại học, cao đẳng trong cả nước, triển khai xây dựng các khu đại học
tập trung được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
3. Nâng cao chất
lượng và chuẩn hoá các đầu vào của hệ thống giáo dục đại học
3.1. Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên:
Triển khai thực hiện nghiêm túc chế độ làm việc của giảng viên do Bộ Giáo dục
và Đào tạo ban hành. Thực hiện quy hoạch đào tạo giảng viên trình độ thạc sĩ,
tiến sĩ đến 2020 ở tất cả các trường cao đẳng, đại học, từ năm 2010 mỗi năm cử
khoảng 1.000 giảng viên làm tiến sĩ ở trong nước, 1.000 giảng viên làm thạc sĩ,
tiến sĩ ở nước ngoài. Từ năm học 2009-2010, thực hiện sinh viên tham gia đánh
giá giảng dạy của 100% giảng viên. Các giảng viên đại học đều có kế hoạch đến
năm 2012 mỗi giảng viên sử dụng tốt một ngoại ngữ cho đào tạo và nghiên cứu
khoa học.
3.2. Chuẩn hoá và nâng cao chất lượng chương
trình đào tạo: Thông qua Hội đồng các Hiệu trưởng trường đại học, cao đẳng và
Trưởng khoa cùng nhóm ngành để thống nhất các chương trình đào tạo khung của
các ngành do các trường đào tạo, phân công viết giáo trình dùng chung cho các
trường. Tham khảo các chương trình tương tự của các trường tiên tiến ở nước
ngoài.
3.3. Chuẩn hoá và đảm bảo đủ 100% giáo trình
đại học: Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành quy chế biên soạn giáo trình đại học
(trước tháng 2/2010). Các trường rà soát tình hình giáo trình, phối hợp qua Hội
đồng Hiệu trưởng các trường đại học, cao đẳng và Trưởng khoa cùng nhóm ngành để
biên soạn giáo trình dùng chung. Phấn đấu đến năm 2012 tất cả các trường đều có
đủ giáo trình cho mỗi ngành đào tạo.
3.4. Chuẩn hoá đội ngũ lãnh đạo các trường
đại học, cao đẳng toàn quốc: Hoàn thiện và tiếp tục chương trình bồi dưỡng Hiệu
trưởng các trường đại học, cao đẳng, phấn đấu từ tháng 12/2011 trở đi tất cả
Hiệu trưởng, Hiệu phó đương nhiệm đã qua bồi dưỡng.
3.5. Triển khai mạnh mẽ chương trình xây dựng
ký túc xá sinh viên, đảm bảo mục tiêu 60% sinh viên có chỗ ở tại ký túc xá vào
năm 2020.
3.6. Thực hiện thi và xét tuyển vào đại học
nghiêm túc, thực hiện tốt chương trình cho vay để học, nhằm thu hút thanh niên
có chất lượng và đạo đức tốt vào học ở các trường đại học, cao đẳng.
3.7. Thông qua Hội đồng Hiệu trưởng các
trường đại học, cao đẳng và Trưởng khoa cùng nhóm ngành, các trường xây dựng đề
án hình thành hệ thống thư viện điện tử chuẩn hoá, hiện đại, liên thông.
3.8. Tổ chức hội nghị đánh giá đào tạo theo
tín chỉ, xây dựng phần mềm quản lý đào tạo theo tín chỉ dùng chung cho các
trường đại học, cao đẳng, phấn đấu đến năm 2012 tất cả các trường đại học, cao
đẳng đều đã triển khai hoặc có kế hoạch triển khai đào tạo theo tín chỉ.
4. Đẩy mạnh hợp tác
quốc tế
4.1. Chủ động phối hợp với các tổ chức kiểm
định chất lượng ở các nước tiên tiến, với các nước OECD để hình thành nhanh hệ
thống các cơ quan kiểm định chất lượng giáo dục của nhà nước và các tổ chức
kiểm định của các cá nhân, tổ chức khác theo quy định của pháp luật. Phấn đấu
đến năm 2012 hình thành ít nhất 3 tổ chức kiểm định của các tổ chức, cá nhân
ngoài nhà nước, do Bộ Giáo dục và Đào tạo cho phép hoạt động theo chuẩn mực
quốc tế.
4.2. Triển khai các chương trình hợp tác với
các đại học, các quốc gia để thực hiện đào tạo 10.000 tiến sĩ ở nước ngoài,
chương trình nâng cao chất lượng đào tạo và sử dụng ngoại ngữ ở Việt Nam tới
năm 2020.
4.3. Phối hợp chặt chẽ với các nhà tài trợ
WB, ADB để triển khai các dự án vốn vay xây dựng các đại học xuất sắc.
4.4. Xây dựng và triển khai đề án thu hút
người Việt Nam ở nước ngoài, các nhà khoa học nước ngoài tham gia giảng dạy và
nghiên cứu khoa học ở các trường đại học, cao đẳng của Việt Nam.
Bộ Giáo dục và Đào tạo trân trọng báo cáo./.
Nơi nhận:
Như
trên;
Thủ tướng Chính phủ (để b/c);
Các Phó Thủ tướng CP (để b/c)
Lưu VP, VT.
|
BỘ TRƯỞNG
Nguyễn Thiện Nhân
|
Ghi chú:
Theo Luật Giáo dục 2005, cơ sở giáo dục đại học
gồm: các trường cao đẳng, trường đại học, các Viện nghiên cứu có tham gia đào
tạo thạc sĩ, tiến sĩ.
Cơ sở giáo dục nghề nghiệp gồm: các trường
dạy nghề, trường trung cấp nghề, cao đẳng nghề và các trường trung cấp chuyên
nghiệp,.... Các trường cao đẳng nghề không thuộc hệ thống giáo dục đại học.
Đến nay cả nước có 102 trường cao đẳng nghề
và 265 trường trung cấp nghề với khoảng 554.500 học sinh.
PHỤ LỤC
1
THỐNG
KÊ
CÁC
ĐẠI HỌC, HỌC VIỆN, CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG THEO ĐỊA PHƯƠNG
(tính
đến ngày 10/8/2009)
STT
|
Tỉnh/ thành phố
|
Trường Đại học
|
Trường Cao đẳng
|
Tổng số
|
Tổng
|
Công lập
|
Ngoài công lập
|
Tổng
|
Công lập
|
Ngoài công lập
|
1
|
Hà Nội
|
53
|
42
|
11
|
30
|
25
|
5
|
83
|
2
|
Hồ Chí Minh
|
37
|
25
|
12
|
30
|
21
|
9
|
67
|
3
|
Hải Phòng
|
4
|
3
|
1
|
4
|
4
|
|
8
|
4
|
Đà Nẵng
|
5
|
2
|
3
|
14
|
6
|
8
|
19
|
5
|
Hà Giang
|
0
|
|
|
1
|
1
|
|
1
|
6
|
Cao Bằng
|
0
|
|
|
1
|
1
|
|
1
|
7
|
Lai Châu
|
0
|
|
|
1
|
1
|
|
1
|
8
|
Lào Cai
|
0
|
|
|
2
|
2
|
|
2
|
9
|
Tuyên Quang
|
0
|
|
|
1
|
1
|
|
1
|
10
|
Lạng Sơn
|
0
|
|
|
2
|
2
|
|
2
|
11
|
Bắc Cạn
|
0
|
|
|
1
|
1
|
|
1
|
12
|
Thái Nguyên
|
1
|
1
|
|
10
|
10
|
|
11
|
13
|
Yên Bái
|
0
|
|
|
1
|
1
|
|
1
|
14
|
Sơn La
|
1
|
1
|
|
1
|
1
|
|
2
|
15
|
Phú Thọ
|
1
|
1
|
|
6
|
4
|
2
|
7
|
16
|
Vĩnh Phúc
|
1
|
1
|
|
3
|
3
|
|
4
|
17
|
Quảng Ninh
|
1
|
1
|
|
5
|
5
|
|
6
|
18
|
Bắc Giang
|
0
|
|
|
2
|
2
|
|
2
|
19
|
Bắc Ninh
|
3
|
2
|
1
|
5
|
3
|
2
|
8
|
20
|
Hải Dương
|
1
|
1
|
|
5
|
5
|
|
6
|
21
|
Hưng Yên
|
2
|
1
|
1
|
5
|
4
|
1
|
7
|
22
|
Hoà Bình
|
0
|
|
|
2
|
2
|
|
2
|
23
|
Hà Nam
|
1
|
|
1
|
4
|
4
|
|
5
|
24
|
Nam Định
|
3
|
2
|
1
|
3
|
3
|
|
6
|
25
|
Thái Bình
|
1
|
1
|
|
4
|
4
|
|
5
|
26
|
Ninh Bình
|
1
|
1
|
|
1
|
1
|
|
2
|
27
|
Thanh Hoá
|
1
|
1
|
|
3
|
3
|
|
4
|
28
|
Nghệ Anh
|
3
|
2
|
1
|
5
|
4
|
1
|
8
|
29
|
Hà Tĩnh
|
1
|
1
|
|
1
|
1
|
|
2
|
30
|
Quảng Bình
|
1
|
1
|
|
0
|
|
|
1
|
31
|
Quảng Trị
|
0
|
|
|
1
|
1
|
|
1
|
32
|
Thừa Thiên Huế
|
3
|
2
|
1
|
5
|
5
|
|
8
|
33
|
Quảng Nam
|
2
|
1
|
1
|
5
|
3
|
2
|
7
|
34
|
Quảng Ngãi
|
1
|
1
|
|
2
|
2
|
|
3
|
35
|
Kon Tum
|
0
|
|
|
2
|
2
|
|
2
|
36
|
Bình Định
|
2
|
1
|
1
|
2
|
2
|
|
4
|
37
|
Gia Lai
|
0
|
|
|
1
|
1
|
|
1
|
38
|
Phú Yên
|
1
|
1
|
|
2
|
2
|
|
3
|
39
|
Đắk Lắk
|
1
|
1
|
|
2
|
2
|
|
3
|
40
|
Khánh Hoà
|
2
|
1
|
1
|
4
|
4
|
|
6
|
41
|
Lâm Đồng
|
2
|
1
|
1
|
3
|
2
|
1
|
5
|
42
|
Bình Phước
|
0
|
|
|
2
|
2
|
|
2
|
43
|
Bình Dương
|
1
|
|
1
|
3
|
2
|
1
|
4
|
44
|
Ninh Thuận
|
0
|
|
|
1
|
1
|
|
1
|
45
|
Tây Ninh
|
0
|
|
|
1
|
1
|
|
1
|
46
|
Bình Thuận
|
1
|
|
1
|
2
|
2
|
|
3
|
47
|
Đồng Nai
|
1
|
|
1
|
4
|
4
|
|
5
|
48
|
Long An
|
1
|
|
1
|
1
|
1
|
|
2
|
49
|
Đồng Tháp
|
1
|
1
|
|
1
|
1
|
|
2
|
50
|
An Giang
|
1
|
1
|
|
0
|
|
|
1
|
51
|
Bà Rịa - Vũng Tàu
|
1
|
|
1
|
2
|
2
|
|
3
|
52
|
Tiền Giang
|
1
|
1
|
|
2
|
2
|
|
3
|
53
|
Kiên Giang
|
0
|
|
|
4
|
4
|
|
4
|
54
|
Cần Thơ
|
3
|
2
|
1
|
4
|
4
|
|
7
|
55
|
Bến Tre
|
0
|
|
|
1
|
1
|
|
1
|
56
|
Vĩnh Long
|
1
|
|
1
|
5
|
|
5
|
6
|
57
|
Trà Vinh
|
1
|
1
|
|
2
|
2
|
|
3
|
58
|
Sóc Trăng
|
0
|
|
|
2
|
2
|
|
2
|
59
|
Bạc Liêu
|
1
|
1
|
|
1
|
1
|
|
2
|
60
|
Cà Mau
|
0
|
|
|
3
|
3
|
|
3
|
61
|
Điện Biên
|
0
|
|
|
2
|
2
|
|
2
|
62
|
Đắk Nông
|
0
|
|
|
0
|
|
|
0
|
63
|
Hậu Giang
|
0
|
|
|
1
|
1
|
|
1
|
|
Tổng số
|
150
|
106
|
44
|
226
|
189
|
37
|
376
|
Ghi chú:
Thống kê trên không bao gồm các trường sĩ
quan quân đội, các trường đại học, cao đẳng thành viên, khoa trực thuộc, phân
hiệu của các đại học và Trường Đại học RMIT.
PHỤ LỤC
2
TỔNG
HỢP SỐ LIỆU VỀ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC QUA CÁC THỜI KÝ 1987 – 1997 – 2009
Năm
|
1987
|
1997
|
2009
|
Dân số Việt Nam
|
62.452.000
|
74.307.000
|
86.967.000
|
Số trường
|
Đại học
|
Công lập
|
63
|
47
|
106
|
Ngoài công lập
|
-
|
15
|
44
|
Tổng số
|
63
|
62
|
150
|
Cao đẳng
|
Công lập
|
38
|
63
|
189
|
Ngoài công lập
|
-
|
-
|
37
|
Tổng số
|
38
|
63
|
226
|
Tổng
|
101
|
126
|
376
|
Số SV tuyển mới
TĂNG (so với năm 1987)
|
34.110
-
|
123.969
3,63
|
503.618
14,76
|
Quy mô đào tạo
TĂNG (so với năm 1987)
|
133.136
-
|
715.231
5,37
|
1.719.499
12,92
|
Số SV tốt nghiệp
TĂNG (so với năm 1987)
|
19.899
-
|
73.736
3,71
|
222.665
11,19
|
Giảng viên
TĂNG (so với năm 1987)
Trong đó:
|
20.212
-
|
25.774
1,28
|
61.190
3,03
|
GS và PGS
Đạt tỷ lệ (%)
TĂNG (so với năm 1987)
|
526
2,63
-
|
1.604
4,13
2,02
|
2.286
3,74
4,35
|
Tiến sĩ
Đạt tỷ lệ (%)
TĂNG (so với năm 1987)
|
2.041
10,09
-
|
3.908
15,16
1,92
|
6.217
10,16
3,05
|
Thạc sĩ
Đạt tỷ lệ (%)
TĂNG (so với năm 1987)
|
-
-
-
|
3.802
14,75
-
|
22.831
37,31
6,01
|
Ghi chú: Đào tạo thạc sĩ bắt đầu từ năm 1991.
PHỤ LỤC
3
THỐNG
KÊ
SỐ
THÍ SINH TRÚNG TUYỂN ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG THEO CƠ CẤU THÀNH PHẦN XÃ HỘI GIAI ĐOẠN
2004 - 2008
Năm
|
Số thí sinh trúng
tuyển
|
Số thí sinh trúng
tuyển là nữ
|
Số thí sinh trúng
tuyển là dân tộc thiểu số
|
Số thí sinh trúng
tuyển là diện chính sách
|
Số thí sinh trúng
tuyển là học sinh nông thôn
|
2004
|
217.279
|
98.856 45,49%
|
9.507
4,37%
|
20.946 9,6%
|
76.848 35,36%
|
2005
|
240.642
|
121.488 50,48%
|
11.297 4,46%
|
20.497 8,5%
|
88.391 36,73%
|
2006
|
285.254
|
149.926 52,56%
|
13.815 4,48%
|
22.949 8,05%
|
106.173 37,22%
|
2007
|
363.619
|
190.295 52,33%
|
18.196 5,0%
|
25.109 6,9%
|
138.352 38,04%
|
2008
|
437.564
|
237.122 53,88%
|
19.869 4,52%
|
23.717 5,39%
|
173.352 39,39%
|
Bình quân
|
308.870
|
159.537
51,65%
|
14.537
4,71%
|
22.644
7,33%
|
116.623
37,87%
|
PHỤ LỤC
4
THỐNG
KÊ
SỐ
THÍ SINH TRÚNG TUYỂN ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG THEO CƠ CẤU VÙNG MIỀN GIAI ĐOẠN 2004 -
2008
Năm
|
Số thí sinh trúng
tuyển
|
Tỷ lệ thí sinh
trúng tuyển theo khu vực, vùng miền (%)
|
Thành phố trực
thuộc TƯ
(KV3)
|
Thành phố không
trực thuộc TƯ (KV2)
|
Nông thôn
(KV2-NT)
|
Vùng cao, miền núi
(KV1)
|
2004
|
217.279
|
15,14
|
24,11
|
35,36
|
23,32
|
2005
|
240.642
|
14,48
|
23,83
|
36,73
|
24,64
|
2006
|
285.254
|
13,76
|
22,92
|
37,22
|
24,63
|
2007
|
363.619
|
12,27
|
19,85
|
38,04
|
29,80
|
2008
|
437.564
|
11,37
|
19,14
|
39,39
|
30,10
|
Bình quân
|
308.870
|
13,51
|
21,96
|
37,87
|
26,69
|
PHỤ LỤC
5
DANH
SÁCH CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC THÍ ĐIỂM ĐÀO TẠO CHƯƠNG TRÌNH TIÊN TIẾN
TT
|
Tên trường VN
|
Chương trình đào tạo
|
Tên trường đối tác
|
Năm bắt đầu
|
|
Trường ĐHKH Tự nhiên, ĐHQG HN
University of Science, VNMU HN
|
Hoá học - Chemistry
|
U. of Illinois at Urbana – Champaign, USA
|
2006
|
|
Toán học - Mathematics
|
University of Washington, USA
|
2008
|
|
Trường ĐH Bách khoa HN
Hanoi University of Technology
|
Cơ điện tử
Mechatronics Engineering
|
California State University, Chico, USA
|
2006
|
|
Kỹ thuật và KH vật liệu
Material Sci. and Eng.
|
U. of Illinois at Urbana – Champaign, USA
|
2006
|
|
Kỹ thuật y sinh
Biomedical Engineering
|
Duke University - Durham, USA
|
2008
|
|
Trường ĐH Kinh tế QD
National Economics Uni.
|
Tài chính
Finance
|
California State Uni., Long Beach, USA
|
2006
|
|
Trường ĐH Nông nghiệp Hà Nội
Hanoi University of Agriculture
|
Khoa học cây trồng
Crops Science
|
University of California, Davis, USA
|
2006
|
|
QTKD nông nghiệp Agricultural Business
Administration
|
University of Wisconsion – Madison, USA
|
2008
|
|
Đại học Huế
Hue University
|
Vật lý - Physics
|
University of Virginia, USA
|
2006
|
|
Đại học Đà Nẵng
Da Nang University
|
Điện tử Viễn thông
Electronics Engineering
|
University of Washington, USA
|
2006
|
|
Hệ thống nhúng
Embeded Computing System
|
University of Washington, USA
|
2008
|
|
Trường ĐHKH Tự nhiên ĐHQG TP HCM
University of Science, VNU HCMC
|
Công nghệ thông tin
Computer Science
|
Portland State University, USA
|
2006
|
|
Trường ĐH Bách khoa, ĐHQG TP HCM
University of Technology, VNU HCMC
|
Hệ thống năng lượng
Electrical and Computer Engineering (major
in Power & Energy System)
|
U. of Illinois at Urbana – Champaign, USA
|
2006
|
|
Trường đại học Cần Thơ
Can Tho University
|
Công nghệ sinh học
Biochemistry&Molecular Biology/Biotech.
Major
|
Michigan State University, USA
|
2006
|
|
Nuôi trồng thuỷ sản Aquaculture
|
Auburn University, USA
|
2008
|
|
Đại học Thái Nguyên
Thainguyen University
|
Kỹ thuật cơ khí
Mechanical Engineering
|
State Uni. of New York at Buffalo, USA
|
2008
|
|
Trường ĐH Thủy lợi
Water Resources University
|
Kỹ thuật tài nguyên nước
Water Resources Engineering
|
Colorado State University, USA
|
2008
|
|
Trường ĐH Giao thông vận tải
University of Transport and Communications
|
Xây dựng công trình giao thông
Civil and Structural Engineering
|
University of Leeds, UK
|
2008
|
|
Trường ĐH Ngoại thương
Foreign Trade University
|
Kinh tế quốc tế
International Economics
|
Colorado State University, USA
|
2008
|
|
Trường ĐH Kiến trúc HN
Hanoi Architectural Uni.
|
Kiến trúc công trình
Architecture
|
University of Nottingham, UK
|
2008
|
|
Trường ĐH Kiến trúc TP HCM
HCMC University of Architecture
|
Quy hoạch đô thị
Urban Planning
|
University of Oxford Brookes, UK
|
2008
|
|
Trường ĐH Nông lâm
TP HCM
Nong Lam University
|
Khoa học và công nghệ thực phẩm
Food Science and Technology
|
UC- Davis, USA
|
2008
|
|
Trường ĐH CNTT, ĐHQG TP HCM
University of Information Technology, VNU
HCMC
|
Hệ thống thông tin
Information System
|
Oklahoma State University, USA
|
2008
|
PHỤ LỤC
6
DANH
MỤC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT VỀ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
I. VĂN BẢN QUY PHẠM
PHÁP LUẬT VỀ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC ĐÃ BAN HÀNH
1. Quy chế đào tạo đại học, cao đẳng hệ chính
quy (Quyết định số 25/2006/QĐ-BGD ĐT ngày 26/6/2006);
2. Quy chế đào tạo đại học, cao đẳng hệ chính
quy theo hệ thống tín chỉ (Quyết định số 43/2007/QĐ-BGD ĐT ngày 15/8/2007);
3. Quy chế đào tạo đại học, cao đẳng theo
hình thức vừa làm vừa học (Quyết định số 62/2008/QĐ-BGD ĐT ngày 25/11/2008);
4. Quy chế tuyển sinh đại học, cao đẳng hệ
chính quy (Thông tư số 02/2009/TT-BGDĐT ngày 02/02/2009);
4. Quy chế tuyển sinh đại học, cao đẳng hệ
vừa làm vừa học (Quyết định số 62/2008/QĐ-BGDĐT ngày 25/11/2008);
5. Quy định về đào tạo liên thông trình độ
cao đẳng, đại học (Quyết định số 06/2008/QĐ-BGDĐT ngày 13/02/2008);
6. Quy định về liên kết đào tạo trình độ
trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học (Quyết định số 42/2008/QĐ-BGDĐT ngày
28/7/2008);
7. Quy chế đào tạo trình độ thạc sĩ (Quyết
định số 45/2008/QĐ-BGDĐT ngày 5/8/2008);
8. Quy chế đào tạo trình độ tiến sĩ (Thông tư
số 10/2009/TT-BGDĐT ngày 07/5/2009);
9. Quy định chế độ làm việc đối với giảng
viên (Quyết định số 64/2008/QĐ-BGDĐT ngày 28/11/2008);
10. Điều lệ trường cao đẳng (Thông tư số
14/2009/TT-BGDĐT ngày 28/5/2009);
11. Điều kiện và thủ tục thành lập, đình chỉ
hoạt động, sáp nhập, chia, tách, giải thể trường đại học (Quyết định số
07/2009/QĐ-TTg ngày 15/01/2009);
12. Quy chế tổ chức và hoạt động trường đại
học tư thục (Quyết định số 61/2009/QĐ-TTg ngày 17/04/2009);
13. Quy định tiêu chuẩn, thủ tục bổ nhiệm,
miễn nhiệm chức danh Giáo sư, Phó giáo sư (Quyết định số 174/2008/QĐ-TTg ngày
31/12/2008).
II. VĂN BẢN QUY PHẠM
PHÁP LUẬT VỀ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC SẼ BAN HÀNH
1. Điều lệ trường đại học (Thủ tướng chính
phủ);
2. Thông tư ban hành Quy chế đào tạo từ xa
(Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo);
3. Thông tư ban hành Quy định về biên soạn
giáo trình đại học, cao đẳng (Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo);
4. Thông tư quy định nội dung, trình tự, thủ
tục chuyển đổi loại hình trường đại học dân lập sang loại hình trường đại học
tư thục (Thủ tướng Chính phủ);
5. Thông tư quy định tổ chức và hoạt động của
Hội đồng Hiệu trưởng trường đại học (Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo);
6. Nghị định của Chính phủ về cơ chế tài
chính giáo dục đào tạo 2009 - 2014; Sửa đổi Quyết định 70/1998/QĐ-TTg ngày
31/3/1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc thu và sử dụng học phí ở các cơ sở
giáo dục và đào tạo công lập thuộc hệ thống giáo dục quốc dân với nội dung điều
chỉnh học phí các cơ sở giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học để áp dụng
ngay từ năm học 2009 - 2010 (Thủ tướng Chính phủ);
7. Thông tư hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào
tạo quy định cơ chế huy động sự đóng góp của xã hội để phát triển sự nghiệp
giáo dục đào tạo (Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo);
8. Nghị định của Chính phủ về phân cấp và
phối hợp quản lý giáo dục giữa các Bộ, ngành và địa phương; tạo sự đồng bộ giữa
Bộ GD&ĐT với các Bộ ngành, các địa phương trong quản lý các trường đại học,
cao đẳng trong hệ thống giáo dục quốc dân (Thủ tướng Chính phủ);
9. Quy định về: công tác nghiên cứu khoa học;
hợp tác quốc tế của các trường ĐH, CĐ; gắn kết đào tạo nghiên cứu sinh với hoạt
động nghiên cứu khoa học, chuyển giao khoa học công nghệ (Bộ trưởng Bộ Giáo dục
và Đào tạo);
10. Quy chế quy định phối hợp Hội đồng trường
- Hiệu trưởng - Đảng ủy - Đoàn Thanh niên - Công đoàn (Bộ trưởng Bộ Giáo dục và
Đào tạo);
11. Quy định về điều kiện, thủ tục thành lập
và tổ chức hoạt động của cơ quan kiểm định độc lập (Bộ trưởng Bộ Giáo dục và
Đào tạo);
12. Quy định về tiêu chuẩn và đánh giá giảng
viên; giảng viên đánh giá cán bộ quản lý (Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo);