BỘ
GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
-----
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
-------
|
Số:
146/BC-BGDĐT
|
Hà
Nội, ngày 26 tháng 5 năm 2008
|
BÁO CÁO
KẾT QUẢ ĐÁNH GIÁ CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC VÀ SÁCH
GIÁO KHOA PHỔ THÔNG NĂM 2008
Thực hiện yêu cầu
trả lời chất vấn của các đại biểu Quốc hội tại kỳ họp thứ 3 về chương trình và
sách giáo khoa phổ thông, Bộ Giáo dục và Đào tạo xin được báo cáo với các đại
biểu Quốc hội về kết quả đánh giá chương trình giáo dục và sách giáo khoa phổ
thông năm 2008 như sau:
1. Quá trình thực hiện, đánh giá chương trình giáo dục và sách giáo
khoa mới
Thực hiện Nghị quyết
40/2000/QH10 của Quốc hội và Chỉ thị 14/2001/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, bắt
đầu từ năm học 2002–2003, Bộ Giáo dục và Đào tạo cho triển khai đại trà chương
trình giáo dục và sách giáo khoa mới ở cấp Tiểu học và Trung học cơ sở, mở đầu
là lớp 1 và lớp 6 trong phạm vi cả nước. Mỗi năm sau đó triển khai chương trình
giáo dục và sách giáo khoa mới cho một lớp ở Tiểu học và một lớp ë Trung học.
Năm học 2008-2009 việc triển khai chương trình giáo dục và sách giáo khoa ở lớp
12 sẽ kết thúc quá trình đưa chương trình giáo dục và sách giáo khoa mới vào
toàn bộ hệ thống giáo dục phổ thông. Sau một số năm triển khai, sự đánh giá của
các cá nhân cũng như của các tổ chức trong ngành giáo dục và sự đánh giá của xã
hội về chất lượng và hiệu quả của chương trình giáo dục và sách giáo khoa mới rất
khác nhau, thậm chí là trái ngược nhau. Có nhiều ý kiến khẳng định những yếu tố
tích cực của chương trình giáo dục, sách giáo khoa mới, nhưng cũng có những ý
kiến bày tỏ sự chưa đồng tình, thậm chí phê phán gay gắt.
Tuy nhiên, những ý
kiến khác nhau đó chưa dựa trên một sự khảo sát điều tra ở quy mô đủ lớn, do đó
chưa có cơ sở khoa học, nhiều ý kiến còn mang tính chủ quan. Để có những nhận định
đúng đắn về chất lượng và hiệu quả của chương trình, sách giáo khoa mới cần có
những nghiên cứu đánh giá nghiêm túc, đảm bảo tính khách quan và khoa học.
Trong c¸c n¨m 2004-2005, Bộ Khoa học Công nghệ và Bộ Giáo dục và Đào tạo đã thống
nhất thực hiện một nghiên cứu cấp Nhà nước với mục đích đánh giá chất lượng, hiệu
quả triển khai chương trình, sách giáo khoa cấp Tiểu học và Trung học cơ sở.
Tuy nhiên nghiên cứu này mới chỉ giới hạn ở một số môn học, ở một số lớp học ở
cấp Tiểu học và cấp Trung học cơ sở (Đối với cấp Tiểu học: đánh giá chương
trình hai môn Toán, Tiếng Việt toàn cấp; đánh giá SGK hai môn Toán, Tiếng Việt
lớp 1 và lớp 3. Đối với cấp THCS: đánh giá chương trình các môn Toán, Vật lý,
Hoá học, Sinh học, Ngữ văn, Lịch sử, Địa lý toàn cấp; đánh giá SGK các môn
Toán, Vật lý, Hoá học, Sinh học, Ngữ văn, Lịch sử, Địa lý lớp 6, lớp 7 và lớp
8). Vì vậy, năm 2008 Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trương đánh giá toàn diện hơn, ở
tất cả các môn học, tất cả các lớp học từ lớp 1 đến lớp 11 (lớp 12 chưa triển
khai sách giáo khoa mới nên chưa đánh giá). Đánh giá lần này, cùng với các lần
đánh giá sau hàng năm (tới năm 2010), nhằm cung cấp cho Bộ Giáo dục và Đào tạo
và báo cáo trước xã hội một đánh giá khách quan về chất lượng của chương trình
và sách giáo khoa phổ thông, từ đó Bộ sẽ có các chỉ đạo kịp thời để chỉnh sửa
chương trình, sách giáo khoa và chỉ đạo thực hiện chương trình, sách giáo khoa
trên qui mô toàn quốc, ở các vùng, miền khác nhau.
Nhằm đạt được những
mục tiêu trên, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xây dựng kế hoạch để giáo viên, cán bộ
quản lí giáo dục - những người đang trực tiếp thực hiện chương trình, sách giáo
khoa mới ở 64 tỉnh thành, cùng Hội Cựu giáo chức Việt Nam, Hội Khuyến học Việt
Nam và Liên hiệp các Hội KHKT Việt Nam tham gia đánh giá chương trình và sách
giáo khoa mới.
Để có được những
nhận định, đánh giá xác đáng, đảm bảo tính khách quan, khoa học, Bộ Giáo dục và
Đào tạo đã thống nhất với các nhà giáo, các nhà hoạt động xã hội và các nhà
khoa học chuyên ngành thuộc các tổ chức trên về quan niệm chương trình, quan niệm
sách giáo khoa và các tiêu chí đánh giá.
Sau hai tháng triển
khai, đến ngày 15 tháng 5 năm 2008, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã nhận được 204 báo
cáo ý kiến đánh giá chương trình, sách giáo khoa của các tập thể và cá nhân,
bao gồm: 60 Sở Giáo dục và Đào tạo; 11 báo cáo của Trung ương Liên hiệp các Hội
KHKT và các hội thành viên; 12 báo cáo tổng hợp của cơ quan Trung ương Hội Cựu
giáo chức Việt Nam và các chi Hội tỉnh, thành phố, 7 bản góp ý của các cá nhân
thuộc Hội; 35 báo cáo tổng hợp của Trung ương Hội Khuyến học Việt Nam và các Hội
cấp tỉnh, thành phố, 78 bản góp ý của các cá nhân thuộc Hội. Bên cạnh đó, Bộ
Giáo dục và Đào tạo cũng thu thập các ý kiến qua báo chí và các phương tiện
truyền thông khác.Tại 60 Sở Giáo dục và Đào tạo đã gửi báo cáo, chiếm 94% số Sở
cả nước, có hơn 20.000 trường phổ thông đã tham gia vào việc đánh giá này, chiếm
hơn 50% tổng số trường phổ thông trong cả nước.
Ngày 18 tháng 5
năm 2008, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức Hội thảo toàn quốc lần thứ nhất về
đánh giá chương trình giáo dục và sách giáo khoa phổ thông với sự tham gia của
475 đại biểu, đại diện cho: Uỷ ban Văn hoá, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và
Nhi đồng Quốc hội, Ban Tuyên giáo Trung ương, Văn phòng Chính phủ, Hội Cựu giáo
chức Việt Nam, Hội Khuyến học Việt Nam và Liên hiệp các Hội KHKT Việt Nam, các
đơn vị trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo, một số trường đại học Sư phạm, các tiểu
ban xây dựng chương trình giáo dục, nhóm tác giả biên soạn SGK; Hội đồng thẩm định
chương trình giáo dục, Hội đồng thẩm định SGK, Hội đồng bộ môn và 33 Sở Giáo dục
và Đào tạo. Hội thảo do Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân cùng Thứ trưởng
Nguyễn Vinh Hiển chủ trì.
Dưới đây là tổng hợp
các ý kiến đánh giá chương trình, sách giáo khoa từ các Sở Giáo dục và Đào tạo,
các tổ chức xã hội, cá nhân nêu trên và từ Hội thảo toàn quốc về đánh giá
chương trình và sách giáo khoa năm 2008. Theo kế hoạch, Bộ Giáo dục và Đào tạo
sẽ tổ chức đánh giá chương trình giáo dục và sách giáo khoa phổ thông liên tục
trong 3 năm 2008, 2009, 2010 để thực hiện việc điều chỉnh chương trình và sách
giáo khoa một cách phù hợp, đồng thời để có cơ sở quyết định việc xây dựng
chương trình giáo dục và biên soạn sách giáo khoa mới cho thời kỳ sau 2010 tới
2020.
2. Kết quả đánh giá chương trình giáo dục, sách giáo khoa năm 2008
2.1. Đánh giá chương trình giáo dục phổ thông
Việc đánh giá
chương trình giáo dục phổ thông tập trung vào việc xem xét mức độ đáp ứng của
chương trình đối với các yêu cầu nêu ra trong Luật Giáo dục và Nghị quyết
40/2000/QH10 của Quốc hội về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông, bao gồm:
mức độ quán triệt quan điểm, đường lối giáo dục của Đảng, Nhà nước; mức độ đảm
bảo tính khoa học và sư phạm; mức độ đảm bảo tính khả thi, tính phù hợp với thực
tiễn Việt Nam.
2.1.1. Về mức độ quán triệt đường lối giáo dục của Đảng, Nhà nước và đảm bảo
tính khoa học, sư phạm của chương trình giáo dục phổ thông:
a. Sáu ưu điểm
1/ Chương trình
các cấp học và môn học đã bám sát mục tiêu giáo dục từng cấp qui định tại Luật
Giáo dục, cơ bản đã thể hiện được quan điểm, đường lối giáo dục của Đảng, Nhà
nước trong Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII, Nghị quyết 40/2000/QH10 của Quốc
hội, Chỉ thị 14/2001/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Chương trình đã chú ý tới
giáo dục toàn diện con người về các mặt đức, trí, thể, mỹ, tăng cường hoạt động
giáo dục và định hướng nghề nghiệp trong hoàn cảnh hiện nay của Việt Nam.
Đây là nhận định,
đánh giá của Hội Cựu giáo chức Việt Nam, Hội Khuyến học Việt Nam và Liên hiệp
các hội KHKT Việt Nam.
2/ Về cơ bản,
chương trình giáo dục các cấp học và môn học đã đảm bảo được tính chính xác,
khoa học, hiện đại, cập nhật và tiếp cận được trình độ giáo dục ở các nước phát
triển trong khu vực, đáp ứng xu thế phát triển của xã hội Việt Nam trong thời
kì hội nhập quốc tế, đề cập đến những vấn đề chung có tính toàn cầu như giáo dục
dân số, bảo vệ môi trường, giáo dục quyền trẻ em, phòng chống các tệ nạn xã hội
và HIV – AIDS, …
Đây là đánh giá
của Hội Cựu giáo chức Việt Nam, Hội Khuyến học Việt Nam, Liên hiệp các Hội KHKT
Việt Nam và 93,6%(*) Sở Giáo dục và Đào tạo.
3/ Nội dung và yêu
cầu của chương trình ở nhiều môn học nhìn chung là phù hợp với trình độ phát
triển tâm, sinh lí của học sinh Việt Nam. Chương trình có chú ý đến sự phân hoá
trình độ nhận thức của học sinh. Ở cấp Trung học phổ thông có chương trình chuẩn
phù hợp với trình độ nhận thức của phần đông học sinh Việt Nam và chương trình
nâng cao đáp ứng nhu cầu, năng lực cá nhân của đối tượng học sinh khá, giỏi. Ở
cả ba cấp đều có chương trình môn học tự chọn, chủ đề tự chọn nhằm đáp ứng nguyện
vọng, sở thích cá nhân và năng khiếu của học sinh.
Đây là đánh giá
của Hội Cựu giáo chức Việt Nam, Hội Khuyến học Việt Nam và 69,1% Sở Giáo dục và
Đào tạo.
4/ Chương trình đã
chú ý đến tính liên thông giữa các môn học, toàn cấp học và giữa các cấp học, đảm
bảo nguyên tắc kế thừa và phát triển từ các chương trình giáo dục trước đây.
Bên cạnh đó, phần nào cũng thể hiện sự tích hợp nhiều phân môn trong một môn học,
tích hợp nhiều lĩnh vực ở một số môn học.
Các mạch kiến thức
xuyên suốt từ lớp 1 đến lớp 12, các chủ đề cụ thể trong từng lớp của chương
trình mỗi môn học đều được sắp xếp một cách hệ thống theo kiểu tuyến tính hoặc
đồng tâm. Sự phát triển các mạch kiến thức đều theo nguyên tắc từ dễ đến khó, từ
đơn giản đến phức tạp và có chú trọng đến mối quan hệ dọc, ngang, trên, dưới
nên đã tạo điều kiện cho học sinh vừa củng cố, ôn luyện vững chắc kiến thức, vừa
từng bước nâng cao dần kĩ năng tư duy. Thông qua đó góp phần phát triển khả
năng tự học, làm quen với tự nghiên cứu của các em.
Đây là nhận định,
đánh giá của Hội Khuyến học Việt Nam và Liên hiệp các hội KHKT Việt Nam và
74,5% Sở Giáo dục và Đào tạo.
5/ Chương trình mỗi
môn học đều nêu cụ thể những định hướng đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới
phương pháp kiểm tra, đánh giá kết quả học tập. Hệ thống chuẩn kiến thức, kĩ
năng đã qui định cụ thể mức độ yêu cầu học sinh cần đạt ở mỗi đơn vị kiến thức.
Do đó, chương trình đã hỗ trợ đắc lực cho giáo viên trong việc xác định đúng, đủ
mục tiêu dạy học và lựa chọn phương pháp dạy học, phương pháp đánh giá thích hợp.
Đây là nhận định,
đánh giá của Hội Cựu giáo chức Việt Nam, Hội Khuyến học Việt Nam và 70,2% Sở
Giáo dục và Đào tạo.
6/ Kế thừa và phát
huy được những ưu điểm cơ bản của chương trình trước đây, chương trình của hầu
hết các môn học đều giảm bớt tính lí thuyết hàn lâm, chú trọng hơn tới yêu cầu
phát triển kĩ năng thực hành, thí nghiệm và liên hệ, vận dụng vào thực tế.
Đây là nhận định,
đánh giá của Hội Cựu giáo chức Việt Nam, Hội Khuyến học Việt Nam, Liên hiệp các
Hội KHKT Việt Nam và 55,3% Sở Giáo dục Đào tạo.
b. Bốn thiếu
sót, hạn chế
1/ Nhìn khái quát,
chương trình giáo dục phổ thông chưa đảm bảo sự cân đối giữa “dạy chữ” và “dạy
người”, còn nặng về kiến thức, chưa coi trọng việc hình thành nhân cách cho trẻ
em. Chưa chỉ rõ nội dung và cách thức đánh giá sự trưởng thành về nhân cách của
học sinh sau mỗi cấp học.
Đây là nhận định,
đánh giá của Hội Cựu giáo chức Việt Nam.
2/ Một số chủ đề
trong chương trình một số môn học ở Trung học còn mang nặng tính hàn lâm với phần
đông học sinh, ít thực hành và rèn luyện kĩ năng như Ngữ văn, Sinh học, Vật lí,
Tiếng Anh. Yêu cầu của chương trình là cao đối với bộ phận học sinh có học lực
yếu kém, học sinh nhóm dân tộc thiểu số và học sinh sinh sống ở địa bàn có điều
kiện kinh tế - xã hội khó khăn.
Đây là đánh giá
của Hội Cựu giáo chức Việt Nam, Hội Khuyến học Việt Nam, Liên hiệp các Hội KHKT
Việt Nam và 48,9% Sở Giáo dục và Đào tạo.
3/ Còn một số nội
dung ở chương trình một số môn học cấp THPT chưa thực sự cơ bản, làm cho khối
lượng kiến thức gia tăng quá mức; chưa thể hiện đầy đủ mức độ hiện đại, cập nhật
cần thiết trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đây là đánh giá
của Hội Khuyến học Việt Nam, Liên hiệp các Hội KHKT Việt Nam và 36,2% Sở Giáo dục
và Đào tạo.
4/ Còn có sự trùng
lặp nội dung ở một số môn học như như: Sinh học và Công nghệ; Hoạt động ngoài
giờ lên lớp và Giáo dục công dân; Giáo dục hướng nghiệp và Nghề phổ thông. Nội
dung của các môn có quan hệ mật thiết với nhau nhưng còn chưa thực sự hỗ trợ
cho nhau như: môn Vật lí phải sử dụng những kiến thức của môn Toán mà tại thời
điểm đó học sinh chưa được học.
Đây là đánh giá
của Hội Khuyến học Việt Nam, Liên hiệp các Hội KHKT Việt Nam và 8,5% Sở Giáo dục
và Đào tạo.
2.1.2. Về mức
độ đảm bảo tính khả thi của chương trình giáo dục phổ thông
a. Hai ưu điểm
1/ Chương trình đã
quy định kế hoạch giáo dục cụ thể gồm tổng số tiết từng năm học, số tiết/tuần đối
với mỗi môn học bắt buộc, tự chọn và mỗi hoạt động giáo dục. Kế hoạch giáo dục
này được thực hiện bởi phân phối chương trình khung, trong đó chỉ qui định cứng
tổng số tiết từng học kì, từng chương đối với từng môn học và từng hoạt động
giáo dục. Do đó đã tạo điều kiện cho nhà trường chỉ đạo triển khai kế hoạch
giáo dục một cách linh hoạt, phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất, đội ngũ giáo
viên và trình độ nhận thức của học sinh.
Đây là đánh giá
của Hội Cựu giáo chức Việt Nam và 19,1% Sở Giáo dục và Đào tạo.
2/ Nội dung chương
trình phù hợp với trình độ chuyên môn của những giáo viên được đào tạo chính
quy và giảng dạy đúng chuyên ngành đào tạo. Tuy nhiên, sẽ khó khăn đối với những
giáo viên không đáp ứng những điều kiện nêu trên.
Đây là ý kiến của
Hội Khuyến học Việt Nam và 19,1% Sở Giáo dục và Đào tạo.
b. Hai thiếu
sót, hạn chế
1/ Có sự không phù
hợp giữa dung lượng kiến thức (thể hiện qua tổng số môn học và hoạt động giáo dục)
và thời lượng học tập. Tiểu học phải học từ 23–25 tiết/tuần, THCS từ 28,5–29,5
tiết/tuần, THPT trên 30 tiết/tuần mới hoàn thành chương trình. Như vậy, học
sinh trung học phải học trên 6 buổi trong một tuần, sinh hoạt chuyên môn của
giáo viên có khi phải làm vào Chủ nhật. Điều này dẫn đến hiện tượng “quá tải” đối
với cả học sinh và giáo viên. Việc phân bổ thời lượng giữa các môn học, giữa
các cấp học, giữa các phần nội dung trong cùng môn học còn chưa hợp lí. Chương
trình môn học Thủ công ở tiểu học có nhiều nội dung không khả thi, không phù hợp
với kỹ năng thực hành của các em (trong thực tế là nhiều cha mẹ phải làm hộ
con).
Đây là đánh giá
của Hội Cựu giáo chức Việt Nam, Hội Khuyến học Việt Nam, Liên hiệp các Hội KHKT
Việt Nam và 46,8% Sở Giáo dục và Đào tạo.
2/ Có sự không phù
hợp giữa chương trình giáo dục với điều kiện cơ sở vật chất nhà trường và trình
độ của một bộ phận giáo viên. Hầu hết các trường THCS và THPT không có đủ các
loại phòng chức năng, thiết bị dạy học thiếu, chất lượng kém. Điều kiện để giảng
dạy một số môn như : Giáo dục hướng nghiệp, giáo dục nghề phổ thông không đảm bảo
ở nhiều địa phương. Có một bộ phận giáo viên chưa đạt chuẩn trình độ đào tạo, một
số giáo viên phải dạy các môn mà không được đào tạo chuyên sâu về môn học đó
(ví dụ môn Công nghệ ở bậc Trung học).
Đây là đánh giá
của Hội Cựu giáo chức Việt Nam, Hội Khuyến học Việt Nam, Liên hiệp các Hội KHKT
Việt Nam và 19,1% Sở Giáo dục và Đào tạo.
Ngoài ra, theo phản
ánh của nhiều phụ huynh và học sinh, yêu cầu cần đạt đối với môn Thể dục là
không phù hợp với thực tế rất đa dạng về chiều cao, sức khỏe, cân nặng của học
sinh các vùng miền và trong mỗi lớp, gây ra sự căng thẳng về tâm lý và quá tải
về thể lực với một bộ phận học sinh.
Mặc dù việc đánh
giá chương trình giáo dục phổ thông vừa qua chưa đề cập đến phương pháp kiểm
tra, đánh giá kết quả học tập, song qua thực tế hiện nay tại các trường trong cả
nước, nhiều môn học như Ngữ văn, Lịch sử, Địa lý, Giáo dục công dân giáo viên
yêu cầu học sinh phải thuộc lòng các bài mẫu, các số liệu chi tiết quá nhiều,
chưa đòi hỏi đúng mức việc hiểu và vận dụng các kiến thức, giá trị cần đạt tới,
do đó vừa gây quá tải cho việc học tập, vừa không khuyến khích sự sáng tạo,
hình thành chính kiến của học sinh.
2.2. Đánh giá sách giáo khoa phổ thông
Đánh giá sách giáo
khoa lần này chủ yếu tập trung vào các tiêu chí: mức độ đảm bảo tính khoa học,
sư phạm; mức độ phù hợp thực tiễn Việt Nam; mức độ đảm bảo thống nhất với
chương trình và mức độ đảm bảo tính khả thi.
2.2.1. Về đảm bảo tính khoa học, sư phạm, phù hợp với thực tiễn của sách
giáo khoa
a. Bốn ưu điểm
1/ Do kế thừa,
phát triển hợp lí từ sách giáo khoa cũ, nội dung trong sách giáo khoa mới của hầu
hết các môn học đều đảm bảo tính chính xác, khoa học, hiện đại, tương đối cập
nhật với sự phát triển của khoa học công nghệ và phù hợp với thực tiễn Việt
Nam.
Đây là đánh giá
của Hội Cựu giáo chức Việt Nam, Hội Khuyến học Việt Nam, Liên hiệp các Hội KHKT
Việt Nam và 68,1% Sở Giáo dục và Đào tạo.
2/ Nhìn chung, ở
phần lớn các sách giáo khoa đã xác định rõ ràng những vấn đề trọng tâm ở từng
bài, từng chương; trình bày nội dung phù hợp với trình độ nhận thức của học
sinh; các bài học, các đơn vị kiến thức, các đề mục, câu hỏi gợi mở… được thiết
kế, trình bày có hệ thống theo cấu trúc đường thẳng hoặc đồng tâm, phù hợp với
đặc điểm tâm sinh lí học sinh. Qua đó tạo điều kiện để học sinh có cơ hội rèn
luyện kĩ năng giao tiếp, diễn đạt, trình bày ý tưởng khoa học. Mỗi cuốn sách đều
chú trọng đến việc cân đối giữa các phần lí thuyết, bài tập, thực hành và thí
nghiệm.
Đây là đánh giá
của Hội Cựu giáo chức Việt Nam, Hội Khuyến học Việt Nam và 34% Sở Giáo dục và
Đào tạo.
3/ Cách trình bày
của sách giáo khoa đã giúp giáo viên dễ dàng xác định trọng tâm bài giảng, lựa
chọn phương pháp dạy học phù hợp với đặc điểm bài học. Sách giáo khoa không chỉ
nêu nội dung kiến thức mà đã chú trọng đến việc thiết kế các hoạt động học tập,
nên thực sự trở thành tài liệu định hướng giúp giáo viên đổi mới phương pháp dạy
học và hỗ trợ học sinh tự học, tự phát hiện, chiếm lĩnh tri thức mới. Qua đó
hình thành dần phương pháp học tập cho các em.
Đây là đánh giá
của Hội Cựu giáo chức Việt Nam, Hội Khuyến học Việt Nam, Liên hiệp các Hội KHKT
Việt Nam và 61,7% Sở Giáo dục và Đào tạo.
4/ Cấu trúc sách
nhìn chung hợp lí với bố cục thống nhất, mục tiêu bài học rõ ràng, ngôn ngữ
trong sáng theo chuẩn phổ thông, phù hợp với tâm sinh lí học sinh. Hình thức của
nhiều cuốn sách có giá trị thẩm mĩ cao, thể hiện ở sự kết hợp hài hoà kênh
hình, kênh chữ, cỡ chữ, ở việc lựa chọn màu sắc sinh động phù hợp với tâm sinh
lí học sinh. Chất lượng giấy in tốt, khổ sách rộng, cách trình bày đẹp giúp cho
học sinh dễ sử dụng, thích thú.
Đây là đánh giá
của Hội Cựu giáo chức Việt Nam, Hội Khuyến học Việt Nam, Liên hiệp các Hội KHKT
Việt Nam và 63,8% Sở Giáo dục và Đào tạo.
b. Bốn thiếu
sót, hạn chế
1/ Nhiều thuật ngữ
khoa học trình bày trong một số cuốn sách giáo khoa còn khó, trừu tượng hoặc
chưa chuẩn xác, chưa nhất quán trong một lớp, giữa các lớp, giữa các cấp học.
Ví dụ: Toán, Vật lí, Sinh học, Ngoại ngữ cấp THPT. Cách trình bày của một số
sách giáo khoa có đôi chỗ khá rườm rà, khó hiểu, như ở sách giáo khoa môn Giáo
dục Công dân và môn Sinh học THPT. Ở một số môn học, việc sắp xếp các chủ đề kiến
thức có phần lạm dụng nguyên tắc “đồng tâm”, lặp lại không cần thiết.
Đây là đánh giá
của Hội Khuyến học Việt Nam, Liên hiệp các Hội KHKT Việt Nam và 44,7% Sở Giáo dục
và Đào tạo.
2/ Cách dùng từ,
thuật ngữ, khái niệm, kí hiệu, cách tiếp cận giữa sách giáo khoa theo chương
trình chuẩn và sách giáo khoa nâng cao ở một số môn học cấp THPT có chỗ chưa thống
nhất, gây khó khăn nhiều cho giáo viên, học sinh như sách giáo khoa các môn Vật
lí, Toán, Ngữ văn. Rải rác trong một số sách giáo khoa còn có những sai sót về
kiến thức, khái niệm hoặc thuật ngữ khoa học. Kiến thức ở một số cuốn sách giáo
khoa chưa cập nhật. Một số nội dung, bài tập trong sách giáo khoa cao hơn so với
yêu cầu của chương trình.
Đây là đánh giá
của Hội Cựu giáo chức Việt Nam, Hội Khuyến học Việt Nam, Liên hiệp các Hội KHKT
Việt Nam và 44,7% Sở Giáo dục và Đào tạo.
3/ Một số phần
trong một số cuốn sách giáo khoa thiếu sự cân đối cần thiết giữa lí thuyết và
thực hành, giữa ôn tập và kiểm tra; chưa chú ý đúng mức đến yêu cầu vận dụng kiến
thức vào giải quyết các vấn đề thực tiễn.
Đây là đánh giá
của Hội Cựu giáo chức Việt Nam, Hội Khuyến học Việt Nam, Liên hiệp các Hội KHKT
Việt Nam và 25,5% Sở Giáo dục và Đào tạo.
4/ Ngoài ra, còn
có một số ý kiến trong dư luận xã hội cho rằng sách giáo khoa lớp 1 có khổ
tương đối to và nặng so với học sinh.
2.2.2. Về mức
độ đảm bảo thống nhất với chương trình của sách giáo khoa
a. Ưu điểm
Hầu hết các nội
dung trong sách giáo khoa đã thể hiện đầy đủ các nội dung, đảm bảo hệ thống chuẩn
kiến thức và kĩ năng được qui định trong chương trình môn học.
Đây là nhận định,
đánh giá của 42,6% Sở Giáo dục và Đào tạo.
b. Hai thiếu
sót, hạn chế
1/ Có những nội
dung đưa vào một số sách giáo khoa vượt quá qui định về mức độ cần đạt của chuẩn
kiến thức, kĩ năng trong chương trình. Điều đó làm cho một số sách giáo khoa mới
ít nhiều có biểu hiện gây “quá tải”.
Đây là nhận định,
đánh giá của Hội Cựu giáo chức Việt Nam, Liên hiệp các Hội KHKT Việt Nam và
31,9% Sở Giáo dục và Đào tạo.
2/ Ở cấp THPT, có
kiến thức viết trong sách giáo khoa một số môn thuộc chương trình nâng cao lại
yêu cầu thấp hơn sách giáo khoa thuộc chương trình chuẩn như Toán, Vật lý.
Đây là nhận định,
đánh giá của 17% Sở Giáo dục và Đào tạo.
2.2.3. Về mức độ đảm bảo tính khả thi
a. Ưu điểm
Nội dung kiến thức
trong sách phù hợp với trình độ chuyên môn và khả năng nghiệp vụ của những giáo
viên được đào tạo chính qui và được giảng dạy đúng những chuyên ngành đào tạo,
đặc biệt phát huy hiệu quả tốt với những địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội
thuận lợi.
Đây là nhận định,
đánh giá của 17% Sở Giáo dục và Đào tạo.
b. Hai thiếu
sót, hạn chế
1/ Có một số bài
yêu cầu kiến thức còn nặng, dài dòng, yêu cầu ghi nhớ máy móc nhiều, chưa phù hợp
với phần đông học sinh mà chỉ phù hợp với những học sinh tự giác và học lực
khá, giỏi. Có sự không phù hợp giữa nội dung một số bài với thời lượng học tập,
khiến cho giáo viên khó đổi mới phương pháp dạy học và tổ chức hoạt động học tập
cho học sinh.
Đây là nhận
xét, đánh giá của Hội Cựu giáo chức Việt Nam, Liên hiệp các Hội KHKT Việt Nam
và 70,2% Sở Giáo dục và Đào tạo.
2/ Nhìn chung, nội
dung sách giáo khoa chưa tính đến điều kiện vùng miền, do đó chưa phù hợp với học
sinh ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Đây là đánh giá
của Hội Cựu giáo chức Việt Nam, Hội Khuyến học Việt Nam và 55,3% Sở Giáo dục và
Đào tạo.
3. Một số giải pháp cơ bản nhằm khắc phục các hạn chế, thiếu sót của
chương trình giáo dục và sách giáo khoa phổ thông
Tiếp thu các ý kiến
đóng góp từ đợt đánh giá chương trình, sách giáo khoa lần này, lãnh đạo Bộ Giáo
dục và Đào tạo và các cơ quan liên quan đã bàn bạc và thống nhất một số giải
pháp cơ bản sau:
3.1. Giải pháp lâu dài
Bộ Giáo dục và Đào
tạo sẽ tiếp tục chỉ đạo tổ chức các đánh giá toàn diện về chương trình và sách
giáo khoa ở các năm học tiếp theo (2008-2009, 2009-2010, có thể 2010-2011 cho lớp
12) để tiếp tục thu thập các ý kiến về chương trình và sách giáo khoa sau một số
năm triển khai, từ đó có hướng dẫn điều chỉnh nội dung và cách dạy từng môn một
cách phù hợp. Căn cứ kết quả đánh giá một số năm với từng sách giáo khoa, nếu
có đầy đủ các thông tin về chất lượng kém của một số sách giáo khoa cụ thể, có
thể sẽ quyết định viết lại một số cuốn sách giáo khoa.
Đồng thời, ngay từ
bây giờ bắt đầu triển khai các nghiên cứu để xây dựng một chương trình giáo dục
phổ thông mới, triển khai sau năm 2010. Chương trình giáo dục phổ thông sẽ được
đổi mới một cách cơ bản theo hướng tích hợp các môn học, tạo cơ hội lựa chọn nội
dung học tập nhiều hơn, biến quá trình dạy học thành quá trình tự học có hướng
dẫn và hỗ trợ tối ưu của giáo viên ngay trong học tập ở phổ thông, tăng cường
hoạt động xã hội của học sinh. Dựa trên chuẩn chương trình quốc gia, hướng dẫn
thực hiện phù hợp với các vùng, miền khác nhau, xây dựng các nội dung giáo dục
địa phương phù hợp với nhu cầu và điều kiện của các vùng, miền, đặc biệt với học
sinh dân tộc thiểu số. Tổ chức biên soạn một số bộ sách giáo khoa dựa trên
chương trình quốc gia. Các bộ sách giáo khoa này sẽ do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ
chức thẩm định và trao quyền lựa chọn sử dụng cho các địa phương.
3.2. Các giải pháp trước mắt
Ngay trước khi bắt
đầu năm học 2008-2009 và trong năm 2008, nhằm khắc phục các sai sót, giảm mức độ
quá tải và nâng cao hiệu quả của chương trình và sách giáo khoa phổ thông, Bộ
Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo thực hiện ngay 11 hoạt động sau đây:
(1). Đưa lên trang
tin điện tử của Bộ Giáo dục và Đào tạo toàn bộ văn bản chương trình giáo dục phổ
thông để giáo viên, học sinh, cán bộ quản lý có thể tiếp cận dễ dàng, phục vụ tốt
hơn cho quá trình giảng dạy học tập, nghiên cứu. Đồng thời, tổ chức hướng dẫn
thực hiện chuẩn kiến thức, kỹ năng của chương trình cụ thể hơn để giúp giáo
viên chủ động đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới đánh giá kết quả học tập của
học sinh và dạy học theo đúng chuẩn.
(2). Điều chỉnh lại
kế hoạch dạy học, rút bớt thời lượng học tập ở mỗi tuần, đảm bảo tối đa ở Tiểu
học là 25 tiết/tuần, THCS là 28 tiết/tuần và THPT là 29 tiết/tuần để không gây
quá tải cho cả giáo viên và học sinh. Để làm được như vậy, Bộ sẽ chỉ đạo xem
xét điều chỉnh thời gian nghỉ hè của học sinh, nhất là ở THPT và chuyển một số
môn từ bắt buộc sang tự chọn bắt buộc trong một nhóm các môn nhằm làm giảm tổng
số môn học với một học sinh.
(3). Xem xét, điều
chỉnh một số môn học từ bắt buộc sang tự chọn bắt buộc trong một nhóm các môn
như Mỹ thuật, Thủ công/Kỹ thuật và Âm nhạc ở tiểu học, Giáo dục hướng nghiệp và
Nghề phổ thông ở trung học. Tích hợp tốt hơn môn Giáo dục công dân và Giáo dục
ngoài giờ lên lớp để nâng cao hiệu quả giáo dục và góp phần vào phát triển văn
hoá địa phương bằng các hoạt động thiết thực của học sinh. Không bắt buộc học
sinh phải học tất cả các môn trong một nhóm nói trên. Nhà trường và học sinh được
lựa chọn dạy và học các môn này trên cơ sở điều kiện dạy học thực tế và điều kiện
giáo viên ở địa phương cũng như sở thích và năng lực học tập của mỗi học sinh. Ở
trường nào có điều kiện về giáo viên và cơ sở vật chất thực hành cho tất cả các
môn và học sinh có nguyện vọng học tất cả các môn thì tổ chức dạy tất cả các
môn cho các học sinh đó.
(4). Tới ngày
20/8/2008, biên soạn xong các tài liệu hướng dẫn dạy học theo chuẩn kiến thức,
kỹ năng của chương trình, xác định rõ ở từng bài các nội dung cần dạy và học
cho mỗi loại đối tượng: học sinh khá giỏi, học sinh trung bình, học sinh kém, học
sinh các vùng dân tộc, vùng khó khăn.
(5). Tổ chức tiếp
thu nghiêm túc và sửa chữa tất cả các sai sót, các lỗi kỹ thuật ở mỗi cuốn sách
giáo khoa.
(6). Từ ngày
1/7/2008 khai trương mục “Góp ý sách giáo khoa" trên trang tin điện
tử của Bộ Giáo dục và Đào tạo để mọi người dân có thể đóng góp trực tiếp
cho các vấn đề của sách giáo khoa. Trang tin này cũng sẽ chuyển tải các ý kiến
tiếp thu, trao đổi lại của các cán bộ có trách nhiệm, các tác giả sách giáo
khoa.
(7). Đổi mới mạnh
mẽ cách thức kiểm tra, thi. Kiên quyết giảm tình trạng kiểm tra, thi với yêu cầu
học sinh phải thuộc lòng nhiều sự kiện, các bài văn mẫu; tăng cường các câu hỏi
đòi hỏi học sinh suy nghĩ, trả lời theo cách hiểu và vận dụng của riêng mình.
Trong năm học 2008-2009, tập trung đổi mới kiểm tra, thi theo hướng này ở 3
môn: Ngữ Văn (Tiếng Việt), Lịch sử và Địa lý.
(8). Đối với các
môn năng khiếu như Âm nhạc, Mỹ thuật và Thể dục ở cả Tiểu học và Trung học đều
đánh giá theo mức “đạt” hoặc “không đạt”. Mặt khác, môn Thể dục cần nghiên cứu
chuyển từ việc đòi hỏi học sinh đạt các chuẩn kĩ thuật và thực hành (theo hướng
thể thao chuyên nghiệp) thống nhất trong toàn quốc sang hướng khuyến khích học
sinh luyện tập thể thao có hệ thống, có cơ sở khoa học và phấn đấu nâng cao thể
lực phù hợp với đặc điểm của mỗi học sinh.
(9). Chỉ đạo các
Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo phải quyết định các nội dung giáo dục địa
phương trong chương trình dạy học. Các nội dung giáo dục địa phương phải được
xác định và thông báo cho các trường trước ngày 30/7/2008.
(10). Bộ Giáo dục
và Đào tạo sẽ hoàn thiện và ban hành trước ngày 31/12/2008 các văn bản quy định
quy trình biên soạn, thẩm định, phát hành sách giáo khoa.
(11). Bộ Giáo dục
và Đào tạo chỉ đạo đánh giá sâu về tính sư phạm, tính khả thi và tính hiệu quả
của 2 môn học Thủ công (Tiểu học) và Giáo dục công dân (Trung học) để có giải
pháp xử lý phù hợp (xong trước tháng 5/2009).
Trên đây là kết quả
đánh giá chương trình giáo dục và sách giáo khoa phổ thông năm học 2008 và những
giải pháp cơ bản nhằm khắc phục các hạn chế, thiếu sót của chương trình giáo dục
và sách giáo khoa phổ thông.
Bộ Giáo dục và Đào
tạo trân trọng báo cáo và mong tiếp tục nhận được sự quan tâm và đóng góp của
các Đại biểu Quốc hội.
Nơi nhận:
- Các đại biểu Quốc hội khóa XII;
- VPTW Đảng, Ban tổ chức TW, Ban Tuyên giáo TW;
- VP Chủ tịch nước, VP Quốc hội, VP Chính phủ;
- Uỷ ban VHGDTNTN&NĐ của Quốc hội;
- Ban Dân nguyện thuộc UBTVQH;
- Ban công tác đại biểu thuộc UBTVQH;
- Hội Khuyến học VN, Hội Cựu giáo chức;
- Bộ trưởng và các Thứ trưởng;
- Website Bộ GD&ĐT;
- Các đơn vị thuộc cơ quan Bộ;
- Lưu: VT, TH.
|
KT.
BỘ TRƯỞNG
THỨ TRƯỞNG
Nguyễn Vinh Hiển
|
(*) Là tỷ lệ các Sở GD&ĐT có ý kiến khẳng định vấn đề
được đề cập, còn các Sở GD&ĐT khác không có ý kiến