BỘ
THƯƠNG MẠI
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
0875/TM-XNK
|
Hà
Nội, ngày 14 tháng 4 năm 2003
|
TỜ TRÌNH VỀ NÂNG CAO VAI TRÒ VÀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA HIỆP HỘI
DOANH NGHIỆP NGÀNH HÀNG
Kính
gửi: Thủ tướng Chính phủ
Nâng cao vai trò và hiệu quả hoạt động
của các hiệp hội doanh nghiệp là một nhiệm vụ quan trọng được Chính phủ, các Bộ,
ngành và các doanh nghiệp hết sức quan tâm. Vấn đề này đã được đề cập tại Chỉ
thị số 08/2003/CT-TTg ngày 04 tháng 04 năm 003 của Thủ tướng Chính phủ về nâng
cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Để góp phần thực hiện nhiệm vụ trên,
trên cơ sở ý kiến đại biểu tại Hội nghị Thương mại toàn quốc 2003 do Bộ Thương
mại tổ chức và qua thực tiễn theo dõi hoạt động của một số Hiệp hội doanh nghiệp,
Bộ Thương mại xin báo cáo Thủ tướng Chính phủ về tình hình hoạt động và nêu một
số kiến nghị nhằm nâng cao via trò và hiệu quả của các Hiệp hội doanh nghiệp
ngành hàng xuất khẩu như sau:
I. ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG
CỦA MỘT SỐ HIỆP HỘI DOANH NGHIỆP NGÀNH HÀNG XUẤT KHẨU Ở NƯỚC TA:
Nhìn chung, quá trình phát triển của
các Hiệp hội doanh nghiệp, trong đó có các Hiệp hội ngành hàng xuất khẩu, còn mới
mẻ và chỉ thực sự bắt đầu khi đất nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, Tới
nay, nước ta có khoảng gần 30 Hiệp hội doanh nghiệp ngành hàng, trong đó hầu hết
các ngành hàng xuất khẩu quan trọng đều đã hình thành được các Hiệp hội như:
Tên Hiệp hội
Năm thành lập
1. Hiệp hội Lương thực Việt
Nam
1998
2. Hiệp hội Chè Việt Nam
1998
3. Hiệp hội Cà phê Cacao Việt Nam
1990
4. Hiệp hội Nhựa Việt Nam
1990
5. Hiệp hội Da giày Việt Nam
1990
6. Hiệp hội Điều Việt Nam
1990
7. Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu Thủy
sản
1998
8. Hiệp hội Dệt may Việt Nam
1999
9. Hiệp hội doanh nghiệp điện tử Việt
Nam
2000
10. Hiệp hội Gỗ Việt Nam
2000
11. Hiệp hội Rau quả Việt Nam
2001
12. Hiệp hội Hạt tiêu Việt Nam
2002
Qua đánh giá sơ bộ, các Hiệp hội
doanh nghiệp ngành hàng đã thực hiện được một số chức năng và nhiệm vụ chủ yếu
sau:
Thứ nhất, hầu hết các Hiệp hội đã tập
hợp được các nhà sản xuất, xuất khẩu lớn của cả nước theo từng ngành hàng. Hiệp
hội Dệt may đến hết năm 2002 đã có 451 hội viên, Hiệp hội Lương thực có 71 hội
viên, Hiệp hội Cà phê - Cacao có 110 hội viên. Hiệp hội Gỗ có gần 2000 hội
viên. Một số Hiệp hội đã xây dựng được những tổ chức trực thuộc như các chi hội,
chi nhánh hoặc câu lạc bộ trực thuộc tại một số địa phương. Kim ngạch xuất khẩu
của các hội viên một số hiệp hội đã chiếm tỷ trọng lớn (trên 90%) trong tổng
kim ngạch của cả ngành.
Thứ hai, Hiệp hội đã thực hiện chức
năng cầu nối giữa doanh nghiệp với Nhà nước. Các Hiệp hội đã tích cực tổng hợp
những kiến nghị của các hội viên về cơ chế, chính sách của Nhà nước để từ đó kiến
nghị lên Chính phủ và các Bộ, ngành, góp phần tháo gỡ khó khăn cho ngành hoặc để
xây dựng các chính sách quản lý phù hợp.
Thứ ba, Hiệp hội đã quan tâm đến công
tác xúc tiến thương mại, nhất là các hiệp hội lớn như dệt may, thuỷ sản, lương
thực, cà phê, giày dép. Công tác khuyến nông, khuyến ngư (đối với hiệp hội
ngành hàng nông sản, thuỷ sản) cũng được chú ý. Hầu hết các hiệp hội đã xây dựng
trang web riêng, một số hiệp hội đã ra được bản tin định kỳ để phổ biến thông
tin tới các doanh nghiệp hội viên.
Thứ tư, một số Hiệp hội đã thực hiện
khá tích cực vai trò đối ngoại của ngành trong việc hợp tác với các tổ chức quốc
tế và tham gia tranh tụng quốc tế nhằm bảo vệ lợi ích hội viên1.
Bên cạnh những mặt đã làm được, hoạt
động của các hiệp hội ngành hàng cũng còn khá nhiều hạn chế, do vậy chưa phát
huy được hết vai trò và tác dụng của Hiệp hội đối với sự phát triển của ngành
hàng.
Thứ nhất, tuy tập hợp được đông đảo
các hội viên, thậm chí có những hiệp hội chiếm tỷ trọng chi phối trong xuất khẩu,
nhưng nhìn chung các Hiệp hội chưa tạo ra sức mạnh tổng hợp và sự liên kết chặt
chẽ trong ngành. Cá biệt với một số Hiệp hội, hiện tượng cạnh tranh không lành
mạnh giữa các hội viên (tranh mua, tranh bán) vẫn xảy ra, ảnh hưởng lớn đến hiệu
quả kinh doanh của toàn ngành. Hiện tượng vi phạm Nghị quyết của hiệp hội là
khá phổ biến nhưng chưa được ngăn chặn và xử lý do thiếu chế tài đủ mạnh quy định
tại Điều lệ Hiệp hội. Do một số nguyên nhân, đa số các Hiệp hội chưa chú trọng
phát triển các hội viên là doanh nghiệp ngoài quốc doanh, nhất là các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (các hội viên
---
1 Hiệp hội Da giày Việt
Nam đã tích cực phối hợp với các Bộ hữu quan giải quyết thành công vụ việc
Canada tiến hành điều tra bán phá đối với mặt hàng giày và đế giày không thám
nước vào thị trường này.
Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản
Việt Nam đang tích cực đấu tranh với phía Hoa kỳ trong các vụ việc tranh chấp
thương hiệu cá tra, cá basa và vụ kiến chống bán phá giá của Hoa kỳ đối với các
sản phẩm của Việt Nam.
---
là doanh nghiệp nhà nước vẫn chiếm tỷ
trọng lớn). Điều này hạn chế thông tin học hỏi lẫn nhau giữa các hội viên, nhất
là đối với những kinh nghiệm quản lý, xúc tiến thương mại của các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài.
Thứ hai, tuy tích cực phản ảnh những
kiến nghị của các hội viên lên các cơ quan nhà nước nhưng sự phản ánh này chưa
mang tính chọn lọc và định hướng. Chính vì vậy, trong điều kiện nước ta đang chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế, nhiều kiến nghị của hiệp hội lại tập trung vào
các giải pháp hỗ trợ tài chính trực tiếp như bù lỗ..., thậm chí có hiệp hội đề
nghị áp dụng các công cụ hành chính như đầu mối, ấn định giá tối thiểu..., là
những công cụ không phù hợp với thông lệ quốc tế và quy định của WTO. Nhìn
chung, còn thiếu những kiến nghị có ý nghĩa sâu sắc, có tầm chiến lược lược đối
với sự phát triển của ngành, kể cả về số lượng và chất lượng.
Thứ ba là chưa có sự phát triển đồng
đều giữa các lĩnh vực hoạt động trong từng Hiệp hội. Trong khi một số Hiệp hội
rất nỗ lực trong hoạt động thì cũng có những hiệp hội hoạt động rất mờ nhạt, cả
về bề rộng lẫn chiều sâu. Theo kết quả khảo sát của Chương trình Phát triển Dự
án Mê kông tiến hành năm 2002, đa số các Hiệp hội doanh nghiệp hiện nay còn yếu
ở các hoạt động cung cấp thông tin thị trường, giá các và hỗ trợ tiếp cận thị
trường trong nước và thị trường xuất khẩu.
II. NGUYÊN NHÂN VÀ
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ VÀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC HIỆP HỘI NGÀNH
HÀNG
Những hạn chế trong hoạt động của các
hiệp hội ngành hàng bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trong đó có cả nguyên nhân
khách quan và chủ quan.
Về khách quan, việc chưa ban hành được
một khung pháp lý đồng bộ, phù hợp với bối cảnh phát triển mới của hiệp hội là
một nguyên nhân quan trọng hạn chế sự phát triển của các hiệp hội. Mặc dù văn bản
pháp lý đầu tiên về hội đã được ban hành từ năm 1957 (Sắc luật 102-SL/L004 ngày
20 tháng 05 năm 19957 ban hành Luật quy định quyền lập Hội) nhưng tới nay cơ sở
pháp lý cho hoạt động của hiệp hội còn khá chồng chéo, không nêu bật được vai
trò của các Bộ, ngành hữu quan đối với từng loại hình hiệp hội, nhất là đối với
việc thành lập, phát triển các hiệp hội ngành hàng có tham gia vào xuất khẩu,
nhập khẩu, chưa khuyến khích kết nạp các hội viên là doanh nghiệp tư nhân và
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Mặt khác do hiệu quả hoạt động của hiệp
hội còn thấp nên bàn đầu hiệp hội chưa có sức thu hút, lôi cuốn các doanh nghiệp
tham gia hiệp hội.
Thứ hai là hạn chế về bộ máy và cơ sở
vật chất của hiệp hội. Do cơ chế, nhiều Hiệp hội trước đây phải hoạt động theo
nguyên tắc kiêm nhiệm, không có trụ sở và nhân sự chuyên trách nên đã hạn chế
nhiều tới hiệu quả hoạt động. Hiện nay, tuy cơ chế đã thoáng hơn nhưng nhìn
chung các hiệp hội vẫn còn thiếu về nhân sự, nhất là cán bộ trẻ có trình độ ngoại
ngữ, có hiểu biết chuyên sâu về ngành.
Thứ ba là hạn chế về kinh phí hoạt động.
Hiện nay, các hiệp hội dựa vào bốn nguồn thu nhập: ngân sách nhà nước, hội phí,
phí thu từ cung cấp dịch vụ và các khoản tài trợ (từ hội viên cũng như những tổ
chức, cá nhân ngoài hội). Tuy nhiên, những nguồn này chưa đủ lớn, không ổn định
và không thường xuyên nên hạn chế các hoạt động của hiệp hội. Do vậy, hiệp hội
khó có thể xây dựng và phát triển hoạt động của mình theo một ngân quỹ được xác
định trước. Nhìn chung, hạn chế về nguồn kinh phí, kết hợp với hạn chế về nguồn
nhân sự đặt nhiều hiệp hội vào thế “lực bất tòng tâm”.
Về chủ quan, quá trình phát triển của
Hiệp hội nói chung còn rất mới mẻ nên còn bỡ ngỡ và chưa tích luỹ đủ kinh nghiệm
hoạt động hiệp hội. Trong khi đó, môi trường kinh doanh quốc tế ngày càng mang
tính cạnh tranh, xuất hiện nhiều rào cản và tình huống phức tạp, nếu không có
kinh nghiệm và bố trí đủ các nguồn lực thì không thể thực hiện tốt các nhiệm vụ
về xúc tiến thương mại, phát hiện và đấu tranh với các rào cản phi thuế mới, bảo
vệ được quyền lợi của các hội viên.
Mặt khác, phải thừa nhận tính kỷ luật
và ý thức tự giác chấp hành Nghị quyết của không ít hội viên là chưa cao. Do vậy,
mặc dù tập hợp được đông đảo hội viên, chiếm thị phần lớn trong xuất khẩu nhưng
vẫn không tạo được sức mạnh tổng thể của ngành, nhất là việc thực hiện các nghị
quyết có liên quan đến vấn đề về xuất khẩu.
Để nâng cao vai trò và hiệu quả hoạt
động của các Hiệp hội doanh nghiệp nói chung và hiệp hội ngành hàng xuất khẩu
nói riêng, cần có các giải pháp khắc phục những mặt hạn chế chủ quan và khách
quan nêu trên. Trên cơ sở đó, Bộ Thương mại xin kiến nghị với Thủ tướng Chính
phủ như sau:
1. Nhanh chóng
ban hành cơ sở pháp lý mới đối với hoạt động của các hiệp hội doanh nghiệp.
Việc ban hành hệ thống cơ sở pháp lý
mới đối với hoạt động của hội, hiệp hội nói chung và hoạt động của các hiệp hội
doanh nghiệp ngành hàng nói riêng là hết sức cần thiết. Vừa qua, tại Chỉ thị số
08/003/CT-TTg ngày 04 tháng 04 năm 2003 về nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh
của các doanh nghiệp, Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Nội vụ chủ trì dự thảo Nghị
định về tổ chức hoạt động của Hội, trong đó có các hiệp hội doanh nghiệp, hiệp
hội ngành hàng trình Chính phủ trong quý II/2003. Theo Bộ Thương mại, dự thảo
Nghị định mới cần làm rõ vai trò, chức năng và nhiệm vụ cũng như tính đặc thù của
các hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng so với các hội, hiệp hội là các
tổ chức chính trị, xã hội thuần tuý. Theo tinh thần đó, đối với các hiệp hội
doanh nghiệp và hiệp hội ngành hàng, Bộ Thương mại xin kiến nghị một số điểm
như sau:
(a) Về chức năng và nhiệm vụ:
Theo Bộ Thương mại, chức năng và nhiệm
vụ chủ yếu của các hiệp hội doanh nghiệp ngành hàng bao gồm:
- Hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển
xuất khẩu và mở rộng thị trường nội địa; cung cấp thông tin thị trường và khách
hàng trong các doanh nghiệp hội viên phổ biến cho các thành viên những tiến bộ
khoa học - công nghệ trong sản xuất kinh doanh.
- Xác định phương hướng phát triển sản
xuất kinh doanh của ngành hàng, các nội dung liên kết và hợp tác trong sản xuất
và tiêu thụ sản phẩm trên cơ sở tự nguyện của các thành viên.
- Bảo vệ quyền lợi của các hội viên
trong hoạt động thương mại quốc tế và trong nước, thay mặt các hội viên trong
các tranh tụng quốc tế.
- Phản ánh chọn lọc ý kiến của các hội
viên về quy hoạch và các chính sách phát triển sản xuất - kinh doanh ngành hàng
lên các cơ quan Chính phủ.
- Hợp tác với các tổ chức, các hiệp hội
ngành hàng quốc tế nhằm nâng cao vị thế và uy tín của ngành trong cộng đồng quốc
tế.
(b) Về cơ chế quản lý hiệp hội, Bộ
Thương mại kiến nghị như sau:
- Bộ Nội vụ là cơ quan chủ trì xây dựng
các quy định pháp luật về hội, hiệp hội nói chung, bao gồm cả các hiệp hội
doanh nghiệp và hiệp hội ngành hàng.
- Các Bộ quản lý ngành và quyết định
thành lập, phê duyệt Điều lệ và theo dõi hoạt động của các Hiệp hội doanh nghiệp,
Hiệp hội ngành hàng có phạm vi hoạt động trong cả nước hoặc nhiều tỉnh.
- UBND tỉnh ra Quyết định thành lập,
phê duyệt Điều lệ và theo dõi hoạt động của các Hiệp hội có phạm vi hoạt động
trong tỉnh.
(c) Về quyền tham gia hiệp hội của các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài (Công ty liên doanh và 100% vốn nước ngoài) chưa được
tham gia vào Hiệp hội với tư cách là hội viên chính thức như các Công ty 100% vốn
Việt Nam, chỉ được là hội viên liên kết. Theo Bộ Thương mại, quy định này là
chưa phù hợp vì các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng là các pháp nhân
của Việt Nam, có sự đóng góp ngày càng lớn vào sự phát triển kinh tế đất nước
nói chung và xuất khẩu nói riêng. Các chính sách của Đảng và Nhà nước cũng đang
hướng tới sự bình đẳng giữa khu vực FDI và khu vực 100% vốn trong nước. Ngoài
ra, trong bối cảnh ta đang hội nhập, quy định này là chưa phù hợp với nguyên tắc
Đãi ngộ quốc gia (NT) (ta đã ban hành Pháp lệnh về tối huệ quốc và đỗi xử quốc
gia trong thương mại quốc tế). Vì vậy, Bộ Thương mại kiến Nghị quyết mới sẽ cho
phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả DN 100% vốn nước ngoài)
được tham gia bình đẳng vào Hiệp hội như các doanh nghiệp 100% vốn trong nước.
(d) Để hỗ trợ cho quá trình xây dựng
hệ thống cơ sở pháp lý mới về Hiệp hội, Bộ Thương mại kiến nghị Thủ tướng Chính
phủ tổ chức hoặc giao Bộ Nội vụ tổ chức Hội nghị chuyên đề về hiệp hội doanh
nghiệp trong quý II/2003 với sự tham gia của các Bộ, ngành hữu quan, các địa
phương, các Hiệp hội và các doanh nghiệp.
2. Nâng cao
tính tổ chức kỷ luật và hiệu quả hoạt động của Hiệp hội:
Trong thời gian trước mắt, để nâng
cao hiệu quả hoạt động đề nghị các Hiệp hội:
(a) Rà soát lại cơ cấu hội viên, xem
xét kết nạp thâm những hội viên mới thuộc khu vực ngoài quốc doanh (kể cả các
doanh nghiệp FDI) phù hợp với quy định của Điều lệ hiệp hội. Các Hiệp hội cũng
cần khuyến khích các doanh nghiệp thuộc trong các lĩnh vực khác nhưng có liên
quan đến ngành hàng xuất khẩu cùng tham gia Hiệp hội (có thể là hội viên danh dự),
ví dụ một số doanh nghiệp về giao nhận, giám định chất lượng, bảo hiểm, ngân
hàng...) để tạo ra sự phối hợp giữa các ngành trong việc nâng cao hiệu quả xuất
khẩu.
(b) Để tăng cường hiệu quả của công
tác xúc tiến thương mại, mỗi Hiệp hội nên có một bộ phần chuyên trách về công
tác này. Bộ phần này nghiên cứu sâu về thị trường xuất khẩu, phát hiện các rào
cản mới và đề xuất hướng giải quyết, nghiên cứu các hình thức xúc tiến mới như
phát triển thương hiệu, tiếp cận giao dịch hiện đại... Ngoài ra, các Hiệp hội cần
ra soát tại trạng web của hội viên. Tăng cường khuếch trương những hội viên hoạt
động tốt, có uý tín trên các trang web và trên các bản tin của Hiệp hội.
(c) Hiệp hội sớm thành lập Quỹ Bảo hiểm
xuất khẩu ngành hàng theo Quyết định 110/2002/QĐ-TTg ngày 21 tháng 8 năm 2002 của
Thủ tướng Chính phủ. Quỹ sẽ do Hiệp hội trực tiếp quản lý với mục tiêu hỗ trợ lẫn
nhau giữa các hội viên hiệp hội, góp phần khắc phục và hạn chế rủi ro, ổn định
sản xuất, tăng cường xúc tiến thương mại.
(d) Rà soát lại kết quả xuất khẩu của
các hội viên, trên cơ sở đó mỗi hiệp hội nên chọn ra các hội viên lớn (15-25
doanh nghiệp lớn nhất tuỳ theo từng ngành) để thành lập Câu lạc bộ các doanh
nghiệp hàng đầu và xây dựng một quy chế hoạt động riêng cho Câu lạc bộ nhằm
tăng cường sự liên kết, tính định hướng và dẫn dắt trong ngành.
3. Phát triển
thêm một số Hiệp hội mới:
Bên cạnh việc nâng cao vai trò và hiệu
quả hoạt động của các hiệp hội hiện có, thời gian tới cần xúc tiến việc thành lập
một số hiệp hội mới để tạo cơ sở cho liên kết ngành, Bộ Thương mại kiến nghị Thủ
tướng Chính phủ giao các Bộ, ngành hữu quan nghiên cứu, phát hiện ra những mặt
hàng xuất khẩu mới có tiềm năng để định hướng, tư vấn cho các doanh nghiệp
thành lập hiệp hội. Trước mắt, cần nghiên cứu khả năng thành lập hiệp hội đối với
ngành hàng cao su, một số ngành hàng thủ công mỹ nghệ như mây tre đan, gốm sứ.
Trên đây là Trờ trình của Bộ Thương mại
về việc nâng cao vai trò và hiệu quả hoạt động của các hiệp hội doanh nghiệp
ngành hàng. Kính trình Thủ tướng Chính phủ xem xét và cho ý kiến chỉ đạo.
|
KT.
BỘ TRƯỞNG BỘ THƯƠNG MẠI
THỨ TRƯỞNG
Mai Văn Dâu
|