BỘ
TÀI CHÍNH
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
31-TC/NLTL
|
Hà
Nội, ngày 14 tháng 10 năm 1986
|
THÔNG TƯ
CỦA BỘ TÀI CHÍNH SỐ 31-TC/NLTL NGÀY 14-10-1986 HƯỚNG
DẪN CHẾ ĐỘ PHÂN PHỐI LỢI NHUẬN VÀ TRÍCH LẬP QUỸ XÍ NGHIỆP TRONG
CÁC XÍ NGHIỆP NÔNG NGHIỆP QUỐC DOANH
Thi hành Quyết định
của Hội đồng Bộ trưởng số 76-HĐBT ngày 26-6-1986 quy định tạm thời về quyền tự
chủ tài chính của các đơn vị kinh tế cơ sở, sau khi trao đổi với Bộ Nông nghiệp,
Bộ Tài chính hướng dẫn chế độ phân phối lợi nhuận và trích quỹ xí nghiệp trong
các đơn vị thực hiện hạch toán kinh tế độc lập như nông trường, trung tâm, viện,
trạm, trại nông nghiệp quốc doanh (dưới đây gọi tắt là xí nghiệp nông nghiệp)
như sau:
I- NHỮNG QUY
ĐỊNH CHUNG
1. Chế độ phân phối
lợi nhuận xí nghiệp nông nghiệp quy định dựa trên số lợi nhuận thực sự làm ra của
đơn vị, có xem xét các yếu tố khách quan trong sản xuất nông nghiệp như thời tiết,
điều kiện canh tác, độ phì của đất đai và mức độ hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch
pháp lệnh, nguyên tắc phân phối theo lao động và sự công bằng giữa các xí nghiệp,
giữa trồng trọt và chăn nuôi, kết hợp hài hoà ba mặt là lợi ích Nhà nước, lợi
ích tập thể xí nghiệp và lợi ích cá nhân người lao động.
Thông qua chế độ phân phối lợi
nhuận xí nghiệp nông nghiệp, phải khuyến khích các đơn vị khai thác đầy đủ năng
lực của vườn cây, đàn gia súc, gia cầm trong năm kế hoạch, nhưng đồng thời phải
chú ý đến việc thâm canh cho lợi ích lâu dài.
2. Căn cứ để thực hiện chế độ
phân phối lợi nhuận là số lợi nhuận kế hoạch và lợi nhuận thực tế đạt được của
xí nghiệp nông nghiệp:
- Lợi nhuận kế hoạch hàng năm của
xí nghiệm được xác định trên cơ sở tổng doanh thu kế hoạch tính theo giá bán sản
phẩm (sau khi đã trừ đi các khoản chênh lệch giá nếu có) trừ đi tổng giá thành
kế hoạch và thu quốc doanh (hoặc thuế) phải nộp.
Lợi nhuận kế hoạch của xí nghiệp
nông nghiệp bao gồm toàn bộ lợi nhuận của các phần sản xuất kinh doanh như sản
xuất chính, sản xuất phụ, lợi nhuận do xây dựng cơ bản tự làm như khai hoang,
trồng mới, chăm sóc thời kỳ kiến thiết cơ bản... phải được kế hoạch hoá trong một
kế hoạch sản xuất - kỹ thuật - tài chính thống nhất của đơn vị.
- Lợi nhuận thực hiện của xí
nghiệp bao gồm các khoản lợi nhuận nói trên và được xác định trên cơ sở tổng
doanh thu thực hiện trừ đi tổng giá thành thực tế được duyệt, trừ đi thu quốc
doanh (kể cả khoản thu quốc doanh bổ sung) hoặc thuế và khoản thu về chênh lệch
giá (giữa giá bán kế hoạch và giá bán thực tế) nếu có.
3. Lợi nhuận của sản xuất phụ bằng
phế liệu phế phẩm, bằng tận dụng đất đai trồng xen các loại cây trồng để cải tạo
đất... được phân phối theo tỷ lệ khuyến khích, các khoản lợi nhuận còn lại được
phân phối theo những tỷ lệ thống nhất.
Phần lợi nhuận vượt kế hoạch được
khuyến khích với tỷ lệ phần trăm để lại xí nghiệp cao hơn.
Ngược lại nếu xí nghiệp không
hoàn thành các chỉ tiêu pháp lệnh thì sẽ phạt trừ vào phần lợi nhuận để lại xí
nghiệp nhằm tránh tình trạng xí nghiệp chỉ chạy theo lợi nhuận, hạch toán tăng
lợi nhuận không chú ý thực hiện đầy đủ quy trình thâm canh nên không hoàn thành
chỉ tiêu số lượng và chất lượng sản phẩm gây tác hại lâu dài đến vườn cây và
đàn gia súc.
4. Căn cứ để tính mức trích quỹ
xí nghiệp là lợi nhuận thực hiện của xí nghiệp, còn điều kiện để được trích lập
quỹ xí nghiệp là lợi nhuận nộp ngân sách Nhà nước và các chỉ tiêu pháp lệnh chủ
yếu khác.
Xí nghiệp được thực hiện việc
trích lập 3 quỹ kịp thời ngay từng quý trong năm, sau khi hoàn thành nghĩa vụ
thu nộp ngân sách Nhà nước theo kế hoạch.
5. Mở rộng hơn phạm vi sử dụng lợi
nhuận, phạm vi sử dụng quỹ khuyến khích phát triển sản xuất, quỹ phúc lợi, quỹ
khen thưởng, nhằm nâng cao quyền tự chủ của xí nghiệp trong phần sử dụng lợi
nhuận để lại cho xí nghiệp.
II-
PHÂN PHỐI LỢI NHUẬN VÀ TRÍCH LẬP QUỸ XÍ NGHIỆP
1. Kế hoạch hoá
phân phối lợi nhuận:
Tổng số lợi nhuận kế hoạch của
xí nghiệp (trừ lợi nhuận sản xuất phụ) được phân phối theo tỷ lệ: để lại xí
nghiệp 50% và nộp ngân sách Nhà nước 50%.
Riêng đối với lợi nhuận kế hoạch
của sản phẩm sản xuất phụ được kế hoạch hoá để lại xí nghiệp 70% và nộp ngân
sách Nhà nước 30%.
Toàn bộ phần lợi nhuận để lại xí
nghiệp theo kế hoạch được phân phối cho 3 quỹ theo tỷ lệ quy định như sau:
- Cho quỹ khuyến khích phát triển
sản xuất từ 35 đến 50% mức cụ thể trong khoảng từ 35 đến 50% do Bộ, Sở chủ quản
quy định cho phù hợp với yêu cầu và đặc điểm sản xuất của từng xí nghiệp, từng
ngành (trồng trọt, chăn nuôi).
- Số lợi nhuận trích vào 2 quỹ
khen thưởng và phúc lợi trong đó khoảng 2/3 cho quỹ khen thưởng và khoảng 1/ 3
cho quỹ phúc lợi do Giám đốc xí nghiệp quyết định sau khi có ý kiến tham gia của
công đoàn cơ sở.
Xí nghiệp không được lấy phần lợi
nhuận và phần khấu hao cơ bản phải nộp ngân sách Nhà nước hoặc các khoản phải nộp
khác để trả nợ tiền vay Ngân hàng về đầu tư mua sắm tài sản cố định.
2. Thực hiện phân phối lợi nhuận.
Trên cơ sở tổng số lợi nhuận kế
hoạch, số lợi nhuận phải nộp ngân sách của xí nghiệp nói trên được duyệt và trở
thành chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh của Nhà nước giao cho xí nghiệp.
Số lợi nhuận phải nộp ngân sách
Nhà nước theo kế hoạch được phân thành các quỹ căn cứ vào thời vụ thu hoạch và
tiêu thụ sản phẩm của xí nghiệp. Xí nghiệp có nhiệm vụ nộp đầy đủ kịp thời vào
ngân sách Nhà nước theo kế hoạch và phần lợi nhuận vượt kế hoạch.
Số được trích 3 quỹ theo kế hoạch
cả năm nói trên được phân ra các quý và xí nghiệp được tạm trích 70% vào mỗi quỹ
trong các quý, sau khi đã hoàn thành việc nộp lợi nhuận và các khoản thu khác
vào ngân sách Nhà nước theo kế hoạch được duyệt của quý đó và có ý kiến xác nhận
của cơ quan tài chính (Chi cục thu quốc doanh và quản lý xí nghiệp Trung ương đối
với các đơn vị xí nghiệp Trung ương, hoặc tài chính địa phương đối với các xí
nghiệp địa phương).
Hết năm khi xét duyệt quyết toán
(bao gồm việc xét duyệt để trích lập chính thức các quỹ xí nghiệp) xí nghiệp sẽ
được tính toán đầy đủ số trích lập 3 quỹ theo thứ tự như sau:
- Tổng số lợi nhuận thực hiện
trong phạm vi của số kế hoạch lợi nhuận đã được duyệt thì phân phối như quy định
ở mục 1 phần II nói trên, 50% nộp ngân sách Nhà nước, 50% để lại xí nghiệp đối
với sản xuất chính, đối với lợi nhuận của phần sản xuất phụ, 30% nộp ngân sách
Nhà nước, 70% để lại xí nghiệp. Trường hợp xí nghiệp không hoàn thành kế hoạch
nộp lợi nhuận của sản xuất chính (trên cơ sở lợi nhuận thực hiện) thì số lợi
nhuận của sản xuất phụ thuộc phải nộp ngân sách 50%, để lại xí nghiệp 50%.
Tỷ lệ phân phối lợi nhuận của sản
xuất phụ được áp dụng chung cho cả phần trong kế hoạch và vượt kế hoạch.
Lợi nhuận thực hiện vượt kế hoạch
của kế hoạch sản xuất chính được phân phối như sau: nộp ngân sách Nhà nước 20%,
để lại xí nghiệp 80%.
Phần lợi nhuận để lại xí nghiệp
(kể cả trong kế hoạch và vượt kế hoạch) được phân phối cho 3 quỹ theo tỷ lệ quy
định như ở điểm 1 mục II, sau khi trừ đi các khoản phải nộp phạt về vi phạm hợp
đồng kinh tế, phạt vi phạm kỷ luật tiền mặt, tín dụng thanh toán, chi trả các
khoản bất hợp lý, bất hợp lệ không được hạch toán vào giá thành như các khoản
chi phí tiêu cực, lãng phí, v.v...
Nếu xí nghiệp không hoàn thành 3
(hoặc 2, hoặc 1 tuỳ theo loại xí nghiệp) chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh chủ yếu
nói sau đây:
- Giá trị sản lượng hàng hoá thực
hiện (trong đó ghi rõ kim ngạch xuất khẩu nếu có).
- Sản phẩm chủ yếu với quy cách
và chất lượng quy định tiêu thụ theo kế hoạch và hợp đồng (trong đó ghi rõ phần
cho quốc phòng và cho xuất khẩu nếu có).
- Các khoản nộp ngân sách (phần
lợi nhuận nộp và các khoản nộp khác).
Thì cứ mỗi phần trăm không hoàn
thành về 1 trong 2 chỉ tiêu thứ nhất và thứ hai phải trừ đi 2% số tiền được
trích cho mỗi quỹ (3 quỹ), và mỗi phần trăm không hoàn thành chỉ tiêu thứ 3, phải
trừ đi 3% số tiền được trích cho mỗi quỹ.
Khi đánh giá mức độ hoàn thành kế
hoạch chỉ tiêu " các khoản nộp ngân sách" cần phải so sánh tổng số
các khoản nộp thực tế với tổng số các khoản nộp theo kế hoạch và phần tương ứng
vượt kế hoạch nộp bao gồm số nộp lợi nhuận thu quốc doanh (hoặc thuế), khấu hao
cơ bản phải nộp và các khoản phải nộp khác như chênh lệch giá nếu có... và các
khoản nộp thực tế đó chỉ được xác nhận trong phạm vi của số phát sinh phải nộp.
Ví dụ :
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ
tiêu
|
Theo
kế hoạch
|
Theo
thực tế
|
Số
đánh giá mức độ hoàn thành kế hoạch nộp ngân sách
|
|
Tổng
số phát sinh
|
Số
phải nộp
|
Tổng
số phát sinh
|
Số
phải nộp
|
Số
đã nộp trong năm
|
Tổng
số
|
Tỷ
lệ hoàn thành
|
Lợi nhuận
Thu quốc doanh
Khấu hao cơ bản
|
18
10
6
|
9
10
3
|
16
15
4
|
8
15
2
|
10
11
2
|
8
11
2
|
|
Các
khoản nộp ngân sách
|
34
|
22
|
35
|
25
|
23
|
21
|
21x100
22
=
95,45%
|
Nếu xí nghiệp vi phạm
chế độ chính sách quản lý kinh tế tài chính của Nhà nước như vi phạm chế độ báo
cáo thống kê kế toán, nộp không kịp thời khoản phải nộp vào ngân sách Nhà nước,
kể cả các khoản phải nộp vượt kế hoạch, v.v... thì cứ mỗi vi phạm sẽ tuỳ theo mức
độ vi phạm mà giảm trừ từ 2 đến 5% số tiền được trích cho mỗi quỹ (3 quỹ).
Các số phạt trừ nói trên vào 3
quỹ của xí nghiệp phải nộp vào ngân sách Nhà nước.
Điều kiện về thời điểm xí nghiệp
được trích đủ (100%) số lợi nhuận để lại xí nghiệp lập 3 quỹ theo những quy định
nói trên là xí nghiệp phải hoàn thành 100% số lợi nhuận phải nộp vào ngân sách
Nhà nước theo quy định (có xác nhận của cơ quan tài chính cùng cấp) trên cơ sở
số liệu xét duyệt quyết toán hàng năm cho xí nghiệp.
3. Đối với những đơn vị có lỗ
theo chính sách giá cả của Nhà nước và nằm trong danh mục những xí nghiệp được
Nhà nước cho phép cấp bù lỗ thì áp dụng phương thức phân phối lợi nhuận như
sau:
Xí nghiệp được hưởng mức trích
cơ bản vào 2 quỹ khen thưởng và phúc lợi là 2 tháng lương cơ bản thực hiện
trong năm, trong đó khoảng 2/3 cho quỹ khen thưởng và 1/3 cho quỹ phúc lợi.
Mức trích cơ bản vào quỹ khuyến
khích phát triển sản xuất của xí nghiệp được tính bằng 1% nguyên giá tài sản cố
định bình quân dùng trong năm và tài sản lưu động trong định mức.
Nếu xí nghiệp không hoàn thành 2
(hoặc 1 tuỳ theo loại xí nghiệp) chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh chủ yếu cả năm nói
sau đây thì cứ mỗi phần trăm không hoàn thành về 1 chỉ tiêu phải trừ đi 2% vào
mức trích cơ bản của mỗi quỹ (3 quỹ):
- Giá trị sản lượng hàng hoá thực
hiện (trong đó nói rõ kim ngạch xuất khẩu, nếu có).
- Sản phẩm chủ yếu với quy cách
và chất lượng quy định theo kế hoạch và hợp đồng (trong đó ghi rõ phần cho quốc
phòng và xuất khẩu, nếu có).
Riêng chỉ tiêu lỗ thực hiện (kể
cả các khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng kinh tế, phạt vi phạm kỷ luật tiền mặt
tín dụng, thanh toán, các khoản chi bất hợp lý, bất hợp lệ không được hạch toán
vào giá thành như các khoản chi phí tiêu cực, lãng phí) cứ mỗi phần trăm tăng lỗ
so với kế hoạch phải trừ đi 3% số tiền được trích cho mỗi quỹ (3 quỹ). Khi đánh
giá mức độ hoàn thành chỉ tiêu này, xí nghiệp được loại trừ khoản lỗ tăng do
Nhà nước tăng giá vật tư và tăng sản lượng tiêu thụ.
Nếu xí nghiệp vi phạm chế độ
chính sách quản lý kinh tế tài chính của Nhà nước như vi phạm các chế độ báo
cáo thống kê - kế toán nộp không đầy đủ, không kịp thời các khoản nộp vào ngân
sách Nhà nước kể cả các khoản phải nộp vượt kế hoạch, thì cứ mỗi vi phạm tuỳ
theo mức độ vi phạm mà giảm trừ từ 2 đến 5% số tiền được trích của mỗi quỹ (3
quỹ).
Nếu xí nghiệp có giảm lỗ kế hoạch
do đã phấn đấu chủ quan làm hạ giá thành sản phẩm thì được coi số giảm lỗ như
lãi vượt kế hoạch và được trích thêm vào 3 quỹ với mức trích tổng số bằng 80% số
đã giảm lỗ so với kế hoạch. Mức phân bổ vào mỗi quỹ cũng như quy định ở điểm 1,
mục II của Thông tư này.
Các xí nghiệp loại này cũng được
tạm cấp 70% số trích vào 3 quỹ theo kế hoạch hàng quý, sau khi hoàn thành chỉ
tiêu kế hoạch lỗ và các khoản phải nộp ngân sách và có ý kiến xác nhận của cơ
quan thu quốc doanh hoặc tài chính địa phương.
Số chính thức được cấp để trích
lập 3 quỹ theo những quy định nói trên sẽ dựa trên cơ sở số liệu xét duyệt quyết
toán hàng năm của xí nghiệp.
4. Việc trích lập và sử dụng các
quỹ dự trữ tài chính và quỹ Bộ trưởng ở các cơ quan quản lý cấp trên được quy định
như sau:
a) Xí nghiệp sử dụng quỹ khuyến
khích phát triển sản xuất để bổ sung cho nhu cầu tăng vốn lưu động, vốn tự có về
đầu tư xây dựng cơ bản theo chiều sâu, phát triển mặt hàng mới, mở rộng sản xuất
chính và sản xuất phụ, nộp lên cơ quan quản lý cấp trên để lập quỹ nghiên cứu
khoa học kỹ thuật tập trung theo kế hoạch hàng năm của xí nghiệp.
Trích từ 1 đến 3% quỹ khuyến
khích phát triển sản xuất của các xí nghiệp để lập quỹ dự trữ tài chính tập
trung ở các cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp như Tổng công ty, Liên hiệp các
xí nghiệp (không hạch toán kinh tế tập trung) hoặc Bộ chủ quản. Mức cụ thể (từ
1 - 3%) do các cơ quan quản lý cấp trên đó quy định căn cứ vào nhu cầu cụ thể của
từng ngành. ở cấp Bộ được lập quỹ dự trữ tài chính tập trung bằng nguồn trích từ
quỹ khuyến khích phát triển sản xuất của những đơn vị trực thuộc hạch toán kinh
tế độc lập.
b) Các tổng công ty, liên hiệp
xí nghiệp không phải là những đơn vị hạch toán kinh tế tập trung đã được trích
lập quỹ dự trữ tài chính thì không phải nộp lên Bộ chủ quản để lập quỹ này ở cấp
Bộ.
Đối với các đơn vị cơ sở kinh tế
địa phương, quỹ dự trữ tài chính chỉ được lập ở các Liên hiệp xí nghiệp, Tổng
công ty không hạch toán kinh tế tập trung, không lập quỹ này ở các cơ sở chủ quản.
Quỹ dự trữ tài chính tập trung ở
Tổng công ty, Liên hiệp xí nghiệp hoặc Bộ chủ quản được sử dụng để hỗ trợ kịp
thời những khó khăn bất thường về tài chính cho các đơn vị xí nghiệp cơ sở trực
thuộc theo những nguyên tắc cấp phát có hoàn lại hoặc không hoàn lại do cơ quan
chủ quản cấp trên có quỹ đó quyết định.
c) Dành 1% quỹ phúc lợi và quỹ
khen thưởng của xí nghiệp để lập quỹ Bộ trưởng. Nếu cấp trên trực thuộc của xí
nghiệp là Liên hiệp các xí nghiệp, Tổng công ty không phải là những đơn vị hạch
toán kinh tế tập trung thì 1% đó được trích làm 2 phần: 0,5% để lập quỹ Tổng
giám đốc Liên hiệp các xí nghiệp, Tổng giám đốc Công ty và 0,5% được chuyển lên
Bộ để lập quỹ Bộ trưởng. Trường hợp Liên hiệp các xí nghiệp, Tổng công ty là những
đơn vị hạch toán kinh tế tập trung thì phải dành 1% quỹ phúc lợi và khen thưởng
của mình để lập quỹ Bộ trưởng (có chế độ riêng quy định sử dụng quỹ Bộ trưởng).
5. Không hạn chế mức tối đa quỹ
khen thưởng và quỹ phúc lợi nhưng khi tổng số trích vào 2 quỹ đó vượt quá 50%
quỹ lương cơ bản thực hiện cả năm của công nhân viên chức xí nghiệp, thì xí
nghiệp phải nộp một khoản điều tiết theo tỷ lệ luỹ tiến như sau:
- Từ 51 đến 70% quỹ lương cơ bản
thực hiện, xí nghiệp phải nộp vào ngân sách Nhà nước 50% và 10% nộp cơ quan quản
lý cấp trên để lập quỹ dự trữ tài chính, số còn lại 40% bổ sung vào các quỹ xí
nghiệp, vào quỹ nào, bao nhiêu do giám đốc xí nghiệp quyết định.
- Từ 71% quỹ lương cơ bản thực
hiện trở đi, xí nghiệp phải nộp vào ngân sách Nhà nước 70% và 10% nộp lên cơ
quan quản lý cấp trên để lập quỹ dự trữ tài chính, số còn lại 20% để bổ sung
vào các quỹ xí nghiệp do Giám đốc xí nghiệp quyết định.
6. Đối với các cơ quan Liên hiệp
xí nghiệp, Tổng công ty không phải là những đơn vị hạch toán kinh tế độc lập
(không thuộc đối tượng xét trích lập 3 quỹ xí nghiệp) được trích lập quỹ khen
thưởng và quỹ phúc lợi bằng mức trích bình quân thực tế đạt được 2 quỹ đó trên
đầu người tổng số công nhân viên chức các đơn vị trực thuộc xí nghiệp và Tổng
công ty. Nguồn trích lập hai quỹ khen thưởng và phúc lợi của cơ quan Liên hiệp
xí nghiệp và Tổng công ty là phần lợi nhuận để lại xí nghiệp của các đơn vị xí
nghiệp trực thuộc. Mức phân bổ cho từng đơn vị xí nghiệp trực thuộc do Giám đốc
Liên hiệp xí nghiệp, Tổng Công ty quyết định tuỳ theo yêu cầu và khả năng cụ thể
của từng đơn vị xí nghiệp.
III-
ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
1. Căn cứ vào nhiệm
vụ và chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước giao cho ngành chủ quản, ngay từ cuối năm trước
hoặc đầu năm kế hoạch, các cơ quan chủ quản cấp trên phải giao kế hoạch tài
chính cho các đơn vị cơ sở trực thuộc, trong đó có kế hoạch phân phối lợi nhuận.
Các cơ quan chủ quản cấp trên phải giao kế hoạch lợi nhuận nộp Ngân sách Nhà nước
cho các xí nghiệp trực thuộc mình, không được thấp hơn kế hoạch Nhà nước giao
và phải chịu trách nhiệm về hoàn thành kế hoạch nộp lợi nhuận cho Nhà nước. Trường
hợp nếu giao kế hoạch thấp hơn thì cứ mỗi phần trăm giao hụt kế hoạch thì phạt
trừ 2% tổng số quỹ Bộ trưởng (hoặc quỹ Tổng giám đốc Tổng công ty, Liên hiệp xí
nghiệp) được trích trong năm. Số bị phạt trừ này phải nộp vào ngân sách Nhà nước.
2. Các đơn vị cơ sở phải đăng ký
kế hoạch trích lập 3 quỹ có phân bổ ra từng quý với cơ quan tài chính cùng cấp
và ngân hàng địa phương và được trích hàng quý như quy định ở mục II Thông tư
này.
3. Khi duyệt quyết toán chính thức
hàng năm cho đơn vị cơ sở, cơ quan chủ quản và cơ quan tài chính cấp trên với sự
tham gia của các cán bộ chuyên quản tài chính xí nghiệp tại địa phương duyệt số
lợi nhuận chính thức để lại xí nghiệp trích lập 3 quỹ và các nhu cầu khác như
quy định ở điểm 2, mục II Thông tư này và xác định số lợi nhuận nộp ngân sách
Nhà nước. Nếu xí nghiệp sử dụng quá số lợi nhuận để lại được duyệt, thì phải trừ
vào số trích của năm sau và ngược lại nếu thiếu được trích thêm.
4. Thông tư này có hiệu lực thi
hành kể từ ngày 1-7-1986 và được áp dụng cho việc phân phối lợi nhuận cả năm
1986 của các xí nghiệp nông nghiệp quốc doanh Trung ương và địa phương thuộc tất
cả các ngành kinh tế. Những quy định trước đây trái với Thông tư này đều bị bãi
bỏ.