BỘ
GIAO THÔNG VẬN TẢI
******
|
VIỆT NAM
DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
Độc lập - Tự do - Hạnh
phúc
********
|
Số:
228-VT/ĐP
|
Hà
Nội, ngày 04 tháng 11 năm 1974
|
THÔNG
TƯ
VỀ VIỆC HƯỚNG DẪN THI HÀNH ĐIỀU LỆ ĐĂNG KÝ KINH DOANH
CÔNG
THƯƠNG NGHIỆP VÀ PHỤC VỤ, VẬN DỤNG TRONG KHU VỰC VẬN TẢI, ĐÓNG, SỬA CHỮA
PHƯƠNG TIỆN VẬN TẢI, XẾP DỠ TẬP THỂ NHÂN DÂN
Thi hành nghị định số 76-CP của
Hội đồng Chính phủ, Bộ Giao thông vận tải hướng dẫn một số điểm để Ủy ban hành
chính các tỉnh, thành, các Sở, Ty giao thông vận tải, các ngành hữu quan và Ủy
ban hành chính các huyện thị, vận dụng, thi hành Điều lệ đăng ký kinh doanh
trong khu vực vận tải, đóng, sửa chữa phương tiện vận tải và xếp dỡ.
I. XÁC ĐỊNH
TÍNH CHẤT CỦA NGÀNH VẬN TẢI VÀ MỐI QUAN HỆ ĐỐI VỚI CÁC NGÀNH KINH TẾ KHÁC.
1. Ngành vận tải là một ngành sản
xuất vật chất đặc biệt; quá trình sản xuất kinh doanh của vận tải không những nằm
trong phạm vi địa phương mà còn mở rộng ngoài phạm vi huyện thị, tỉnh; mọi hoạt
động sản xuất kinh doanh của vận tải đều có tác động đến việc kích thích sản xuất,
giá thành sản phẩm của các ngành kinh tế, xây dựng kiến thiết cơ bản, lưu thông
phân phối, phục vụ đời sống nhân dân.
Từ tính chất đó, việc tổ chức quản
lý lực lượng vận tải và cho phép đăng ký hoạt động kinh doanh đối với khu vực vận
tải tập thể, cần được quán triệt về nội dung chính sách; về tổ chức quản lý
theo hệ thống chuyên ngành, mới phát huy đầy đủ năng lực vận tải, nhằm phục vụ
lợi ích Nhà nước và xã hội một cách tích cực. Mặt khác, trên cơ sở thi hành Điều
lệ đăng ký kinh doanh của Nhà nước mà cải tạo vận tải cá thể và tăng cường củng
cố quan hệ sản xuất mới, xây dựng và phát triển lực lượng vận tải tập thể xã hội
chủ nghĩa.
2. Sự phát triển và quản lý các
lực lượng vận tải tập thể và cá thể:
Năm 1960-1961 ngành giao thông vận
tải đã căn bản hoàn thành tổ chức hợp tác hóa, vận tải, xếp dỡ nhân dân trên
toàn miền Bắc. Từ đó, toàn bộ lực lượng hợp tác xã vận tải được tiếp tục củng cố
và phát triển, sản xuất kinh doanh dưới sự chỉ đạo trực tiếp của các sở,
ty giao thông vận tải thông qua chính sách quản lý ba thống: thống nhất quản lý
luồng hàng, thống nhất điều động và thống nhất giá cước.
Lực lượng hợp tác xã vận tải ở mỗi
địa phương được phát huy tác dụng tích cực trong vận chuyển theo kế hoạch Nhà
nước, phục vụ xây dựng kinh tế, phục vụ nhân dân, hàng năm chiếm tỷ trọng từ
50% đến 80% kế hoạch vận chuyển hàng hóa trong tỉnh. Trong những năm chống chiến
tranh phá hoại, lực lượng này cũng được phát huy tác dụng phục vụ chiến đấu, phục
vụ chi viện cho tiền tuyến rất tích cực.
Trong quá trình xây dựng, tổ chức
hợp tác xã đã khắc phục vượt qua được nhiều khó khăn, nhưng cũng còn những tồn
tại về nhiều mặt cần được tiếp tục giải quyết. Song được sự giáo dục chính trị,
nâng cao một bước giác ngộ xã hội chủ nghĩa, nhiều đơn vị hợp tác xã được phát
triển và củng cố quan hệ sản xuất mới, xây dựng được cơ sở vật chất cho tập thể
hợp tác xã; giá trị tài sản tập thể tăng từ mười đến bốn năm mươi lần so với thời
kỳ đầu mới thành lập hợp tác xã (1960).
Hiện nay toàn miền Bắc có trên
400 hợp tác xã với trên ba vạn xã viên làm vận tải, xếp dỡ chuyên nghiệp, ngoài
ra còn có 1 vạn người làm vận tải cá thể tự tổ chức dưới hình thức tổ, đoàn
chưa được quản lý, trong đó có những tổ vận tải chủ lực của các cơ quan, các
ngành kinh tế Nhà nước tự tổ chức để vận chuyển cho nội bộ đơn vị mình, nhưng
thường lợi dụng kinh doanh vận tải ngoài. Việc hoạt động kinh doanh vận tải tự
do của các lực lượng này có tác động không tốt cho việc quản lý thị trường, trật
tự xã hội, nhất là ảnh hưởng đến những người xã viên đang hoạt động trong tổ chức
hợp tác xã.
3. Đặc điểm về cấu tạo tổ chức hợp
tác xã vận tải
Hợp tác xã vận tải là một số đơn
vị sản xuất kinh doanh độc lập, dưới sự chỉ đạo thống nhất của cơ quan giao
thông vận tải, nhưng hiện nay còn nhiều hợp tác xã chưa quy hoạch vị trí sản xuất
cố định; số xã viên trong một hợp tác xã đang cư trú ở nhiều nơi, chịu sự quản
lý hành chính của nhiều xã, khu phố, thị xã (do tình hình trước đây trong khi hợp
tác hoá , hợp tác xã tập hợp những người làm vận chuyển nhiều nơi, thành một
đơn vị tại một địa điểm để thuận tiện cho việc quản lý chỉ đạo hoạt động vận tải,
phục vụ kế hoạch Nhà nước.Mặt khác trong quá trình phát triển nhân lực vận tải,
được chỉ tiêu Nhà nước giao thì hợp tác xã phải vận động những người đủ tiêu
chuẩn làm vận tải từ nông nghiệp và các nghề khác ra, nhưng hộ khẩu cư trú vẫn ở
xã cũ).
Trong một đơn vị hợp tác xã, có
xã viên trực tiếp làm vận tải, có xã viên đóng sửa chữa phương tiện, có xã viên
đánh dây, đan mui thuyền, đóng móng súc vật, cắt cỏ v.v...; có đơn vị hợp tác
xã, tổ thuyền, chuyên đóng và sửa chữa phương tiện cho nội bộ khu vực vận tải,
trực thuộc ngành giao thông vận tải quản lý. Ngoài ra còn có hợp tác xã,
tổ, tập đoàn đóng thuyền, sửa chữa phương tiện vận tải, có đơn vị có quy mô thiết
bị cơ khí sửa chữa ôtô, máy móc vận tải (lực lượng này phần lớn ở Hà Nội,
Hải Phòng, Nam
Định) do ngành công nghiệp quản lý.
Trong một tỉnh, có những hợp tác
xã thuyền do Sở, Ty giao thông vận tải trực tiếp quản lý, đều phối kế hoạch
và chỉ đạo nghiệp vụ, còn lại nhiều hợp tác xã thuyền và hợp tác xã thô sơ thì
phân công cho huyện, thị, khu phố quản lý, nhưng ít được quan tâm giúp đỡ về
nghiệp vụ sản xuất kinh doanh và quản lý, việc phát triển lực lượng cân đối với
yêu cầu phục vụ vận chuyển kế hoạch. Từ đó dẫn đến có nhiều sơ hở, phát sinh
nhiều mặt tiêu cực trong vận tải, sự hoạt động của hợp tác xã nhiều nơi có phần
bấp bênh, thiếu phương hướng. Ngược lại, có nơi thiếu lực lượng vận tải làm chủ
lực cho việc vận chuyển kế hoạch phát triển kinh tế cấp huyện; lực lượng vận tải
cá thể phát triển một cách tự do không tổ chức.
Trong khu vực kinh tế vận tải tập
thể hiện nay bao gồm: vận tải thuyền sông, thuyền biển, xe bò, xe trâu, xe ngựa,
ba gác, xích lô ngựa thồ, sửa chữa, sản xuất phương tiện vận tải, công cụ bốc xếp
cơ giới và thô sơ. Mỗi đơn vị hợp tác xã tổ, tập đoàn, tuy có khác nhau về hình
thức, quy mô, trình độ tổ chức và cơ sở vật chất kỹ thuật, thủ công
hoặc nửa cơ giới, xong tất cả đều trực tiếp phục vụ cho vận tải.
III. PHƯƠNG
HƯỚNG VÀ TRÁCH NHIỆM PHỐI HỢP THỰC HIỆN VIỆC ĐĂNG KÝ KINH DOANH NGÀNH VẬN TẢI,
XẾP DỠ
A.XÁC ĐỊNH PHƯƠNG HƯỚNG VÀ VỊ
TRÍ LỰC LƯỢNG HỢP TÁC XÃ NGÀNH VẬN TẢI.
Lực lượng vận tải thuộc khu vực
tập thể trên toàn miền Bắc có một vai trò tích cực trong việc đảm nhiệm nhu cầu
vận chuyển trong kế hoạch Nhà nước, phục vụ phát triển kinh tế văn hoá và phục
vụ đời sống nhân dân nói chung ở mỗi địa phương nói riêng, chẳng những trước mắt
mà còn lâu dài. Do đó, các địa phương thông qua việc tổ chức đăng ký kinh doanh
theo điều lệ của Nhà nước đã ban hành mà cũng cố lực lượng này, để phát huy
tích cực tác dụng của nó.
B.TRÁCH NHIỆM VÀ QUYỀN HẠN CỦA
NGÀNH GIAO THÔNG VẬN TẢI:
Các Sở, Ty giao thông vận tải có
trách nhiệm thực hiện Điều lệ đăng ký kinh doanh ban hành theo Nghị định số
76-CP ngày 8-4-1974 của Hội đồng Chính phủ, tham gia xét duyệt, cho phép đăng
ký kinh doanh đối với các cơ sở vận tải ở địa phương như sau:
1. Nắm vững mục đích và yêu cầu
của việc đăng ký kinh doanh được xác định trong điều lệ của Chính phủ đã ban
hành và Thông tư số 08 ngày 29-5-1974 của Bộ Tài chính đã hướng dẫn.
2. Trên cơ sở cân đối nhu cầu vận
chuyển và tình hình thực tế của lực lượng vận tải ở địa phương, các Sở, Ty giao
thông vận tải giúp Ủy ban hành chính tỉnh, thành xác định quy hoạch và mạng
lưới vận tải, đề xuất việc phân cấp quản lý các lực lượng vận tải, đóng, sửa chữa
phương tiện vận tải và xếp dỡ thuộc khu vực tập thể, xây dựng trách nhiệm, chức
năng quản lý theo hệ thống toàn ngành, nhằm phát huy triệt để khả năng lực lượng
vận tải sẵn có phục vụ cho sự nghiệp xây dựng, phát triển kinh tế và đời sống
nhân dân địa phương.
3. Trong khi tiến hành đăng ký
kinh doanh ngành vận tải, các Sở, Ty và Phòng giao thông vận tải có trách
nhiệm chính trong việc giúp Hội đồng đăng ký, hướng dẫn lập các hồ sơ và xét
duyệt từng đơn vị, cá nhân có đủ tiêu chuẩn, điều kiện được phép hoạt động kinh
doanh vận tải và tự nguyện tham gia kinh doanh trong tổ chức hợp tác xã theo
đúng Điều lệ hợp tác xã vận tải đã được Nhà nước ban hành.
Khi xét duyệt danh sách cán bộ,
xã viên, tổ, đoàn viên làm vận tải, cần tranh thủ sự phối hợp chặt chẽ của
ngành công an.
Phòng giao thông vận tải huyện,khu
phố, thị xã cử cán bộ có đủ thẩm quyền tham gia Hội đồng, vừa làm chức năng
tham mưu giúp Ủy ban hành chính huyện, thị, khu phố trong việc tổ chức đăng ký
lực lượng vận tải chuyên nghiệp, vừa chịu trách nhiệm trước Sở, Ty giao
thông vận tải theo hệ thống quản lý chuyên ngành trong việc thực hiện
nguyên tắc đã ghi trong khoản 4 điều 3 chương I của Điều lệ. Đồng thời có trách
nhiệm giúp Ủy ban hành chính cùng cùng cấp và các Sở, Ty giao thông vận tải
quản lý việc thi hành điều lệ sau khi được cấp giấy phép đăng ký kinh doanh đối
với đơn vị, cơ sở vận tải.
4. Trong quá trình tiến hành việc
đăng ký kinh doanh ngành vận tải trong tỉnh, thành, Sở, Ty giao thông vận
tải phải cử cán bộ chuyên trách theo dõi, kiểm tra, đôn đốc và hướng dẫn giúp đỡ
các Phòng giao thông vận tải huyện, thị, khu phố trong công tác và phản
ánh tình hình cho lãnh đạo Sở, Ty giao thông vận tải biết .Các Sở, Ty phải
kịp thời tham gia góp ý kiến với Hội đồng các huyện, thị, khu phố giải quyết những
khó khăn mắc mứu trong khi xét thủ tục và quyết định cấp giấy phép đăng ký kinh
doanh vận tải.
Để thi hành đúng khoản 4 điều 3
chương I của Điều lệ đã quy định, trước khi Hội đồng cấp huyện, thị, khu phố
quyết định cấp giấy phép đăng ký kinh doanh đối với ngành vận tải, phải có sự
thoả thuận của Sở, Ty giao thông vận tải theo quy hoạch thống nhất của
ngành.
5. Đối với các đơn vị đã kinh
doanh vận tải, cơ sở xét cấp giấy phép kinh doanh vận tải phải lấy đơn vị hợp
tác xã, tổ, đoàn, tập đoàn và danh sách xã viên, tổ viên, đoàn viên chính thức
đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép kinh doanh trước khi có điều lệ
mới này và thực hiện đúng với tinh thần khoản 1 điều 3 chương I của điều lệ đã
quy định.
Đối với các đơn vị đoàn, tổ vận
tải, bốc dỡ sửa chữa phương tiện, cần kết hợp với việc xét cho phép đăng ký
kinh doanh để củng cố lại tổ chức, xây dựng thành đơn vị hợp tác xã theo đúng
điều lệ hợp tác xã vận tải.
Đối với cá nhân hiện đang kinh
doanh vận tải và tự nguyện tiếp tục xin đăng ký kinh doanh, nếu xét đủ tiêu chuẩn
ngành nghề và điều kiện kinh doanh phù hợp với nhu cầu phát triển lực lượng vận
tải ở từng khu vực, từng địa phương theo quy hoạch mạng lưới vận tải đã được Ủy
ban hành chính tỉnh, thành duyệt y, thì xét cho phép họ được tham gia kinh
doanh trong một đơn vị hợp tác xã gần, thuận tiện nhất. Nói chung không chấp nhận
và cho phép kinh doanh cá thể vì trái với nguyên tắc của ngành giao thông
vận tải đề ra từ trước đến nay.
6. Đối với lực lượng vận tải thô
sơ đường bộ như: xe bò, trâu, ba gác, xích lô, xe ngựa (kể cả vận chuyển hành
khách) ngựa thồ đối với miền núi, nói chung còn khả năng phát huy tác dụng
trong phục vụ xây dựng kinh tế và đời sống nhân dân trong mỗi vùng, cần được củng
cố trên cơ sở cũ , phát triển mở rộng quy mô đối với những nơi cần thiết và chú
trọng đối với khu vực trung du, miền núi. Ở mỗi huyện cần phát triển lực lượng
này để đáp ứng với yêu cầu xây dựng kinh tế cấp huyện hiện nay.
Riêng đối với thành phố Hà Nội,
Hải Phòng, hướng chung với xe súc vật kéo là hạn chế dần, không thu hút
phát triển thêm mà chỉ xét cho phép đăng ký trên cơ sở hợp tác xã đã có từ trước,
và từng bước có thể thay thế dần bằng cơ giới. Đối với lực lượng xích lô, cần
xét tình hình cụ thể từng địa phương, khu vực theo nhu cầu cần thiết xét cho
phép tiếp tục kinh doanh trên cơ sở củng cố quản lý tổ chức, các Sở, Ty giao
thông vận tải cần nghiên cứu có quy hoạch cụ thể đối với lực lượng này
trình Ủy ban hành chính tỉnh, thành quyết định để làm cơ sở trong việc xét duyệt
cho phép đăng ký kinh doanh.
7. Đối với lực lượng vận tải thô
sơ, chủ lực của các cơ quan, các ngành kinh tế Nhà nước, hoặc các tổ vận tải của
các tổ chức kinh tế tập thể khác. Cần kiểm tra xác định lại nếu là tổ chức thuộc
nội bộ cơ quan, xí nghiệp, thì người làm vận tải phải là cán bộ, công nhân viên
của cơ quan xí nghiệp ấy, nếu thuộc hợp tác xã thì người làm vận tải phải là xã
viên thuộc hợp tác xã ấy. Lực lượng vận tải thô sơ chủ lực này chỉ vận chuyển
trong khâu phục vụ sản xuất nội bộ, không kinh doanh vận tải, nếu lực lượng chủ
lực của các cơ quan có kinh doanh vận tải ngoài thì phải củng cố và sắp xếp lại
theo đúng chức năng, phân đôi ra nếu có đủ điều kiện sẽ thu nộp vào hợp tác xã
vận tải nào thuận tiện nhất.
8. Đối với lực lượng vận tải
trong nông nghiệp, vẫn thi hành đúng nội dung tinh thần thông tư số 5 ngày
17-3-1973 của Bộ Giao thông vận tải đã quy định, chủ yếu là vận chuyển
trong khâu phục vụ sản xuất nội bộ nông nghiệp, không kinh doanh vận tải, do đó
không xét cho phép kinh doanh vận tải chuyên nghiệp trong hợp tác xã nông nghiệp.
9. Trong việc phân cấp quản lý kết
hợp với việc xét cho phép hành nghề và cấp giấy phép đăng ký kinh doanh nên giải
quyết theo hướng sau đây:
a) Đối với tổ chức hợp tác xã vận
tải thuyền, mặc dù vị trí cư trú hay địa bàn hoạt động ở đâu, ở huyện, ở thành
phố hay ở đâu đều chịu sự lãnh đạo và chỉ đạo của Sở, Ty giao thông vận tải
, thống nhất quản lý điều phối kế hoạch và các mặt nghiệp vụ, nhiệm vụ phục vụ
cho kế hoạch địa phương huyện, thị thì Sở, Ty giao thông vận tải phân bố
nhiệm vụ, giao cho hợp tác xã gần nhất ở địa phương, hay thuận tiện luồng đường
để trực tiếp phục vụ.
Do đó khi xét duyệt cho phép
đăng ký kinh doanh lực lượng này, Sở, Ty giao thông vận tải có trách nhiệm
chính đề nghị với Hội đồng quyết định cấp giấy cho phép kinh doanh.
b) Đối với các huyện hiện nay cần
củng cố và phát triển các hợp tác xã xe súc vật kéo, làm lực lượng chủ lực
chuyên phục vụ trực tiếp cho kế hoạch lưu thông phân phối, phục vụ cho sản xuất
nông nghiệp, và xây dựng cơ bản trong nội bộ huyện. Các Sở, Ty giao thông
vận tải cần giúp đỡ huyện, xác định mạng lưới quy hoạch vận tải và quy mô tổ chức
lực lượng vận tải chuyên nghiệp kể cả phát triển xe ngựa chở khách đường ngắn
phục vụ nhân dân trong huyện.
c) Trên cơ sở quy hoạch được xác
định mà tiến hành phân bố lực lượng vận tải, kết hợp trong việc cho phép đăng
ký kinh doanh, trong phạm vi huyện, thị, thành phố và thống nhất quản lý, các
phòng giao thông vận tải giúp Ủy ban hành chính huyện, thị, khu phố trực
tiếp quản lý tổ chức, điều độ kế hoạch theo hệ thống chuyên ngành, theo đúng thể
lệ, chế độ Nhà nước đã quy định.
d) Đối với các đơn vị hợp tác
xã, tổ sản xuất, tập đoàn đóng và sửa chữa phương tiện vận tải chuyên phục vụ
cho ngành vận tải (kể cả các cơ sở có quy mô cơ giới) trước đây do ngành công
nghiệp quản lý, nay chuyển sang ngành giao thông vận tải thống nhất quản
lý theo quy hoạch ngành nghề. Các Sở, Ty giao thông vận tải có trách nhiệm
giúp Hội đồng xét duyệt cho phép hành nghề để Hội đồng xét và quyết định việc cấp
giấy đăng ký kinh doanh.
Thông tư này Bộ Giao thông
vận tải chỉ hướng dẫn một số điểm thuộc phạm vi quan hệ ngành nghề để Ủy ban
hành chính các tỉnh, thành lãnh đạo các Sở, Ty giao thông vận tải các
ngành hữu quan và các huyện, thị, khu phố phối hợp trong việc thực hiện Nghị định
số 76-CP của Hội đồng Chính phủ và vận dụng thi hành điều lệ đăng ký kinh doanh
trong ngành giao thông vận tải được thống nhất, đồng thời để các Sở, Ty
giao thông vận tải, các liên xã ngành vận tải các tỉnh có trách nhiệm
tham gia tích cực trong phạm vi chức năng của mình giúp các Hội đồng, trong việc
xem xét và cho phép hành nghề và cấp giấy đăng ký kinh doanh đối với ngành vận
tải đúng với đường lối và tinh thần Nghị định số 76-CP của Hội đồng Chính phủ
đã quy định và tăng cường quản lý sau khi được cấp giấy phép kinh doanh trong
ngành vận tải.
Trong khi nghiên cứu thi hành nếu
gặp những khó khăn, các Sở, Ty giao thông vận tải báo cáo với Ủy ban hành
chính tỉnh, thành và báo cáo Bộ để có sự tham gia ý kiến hoặc giải thích thêm.
|
K.T.
BỘ TRƯỞNG BỘ GIAO THÔNG VẬN TẢI
THỨ TRƯỞNG
Vũ Quang
|