UỶ
BAN KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
1864-UB-TC
|
Hà
Nội, ngày 12 tháng 12 năm 1964
|
THÔNG TƯ
HƯỚNG DẪN THI HÀNH THÔNG TƯ SỐ 75-TTG-TN NGÀY 30-7-1964 CỦA
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ VỀ CÁCH HẠCH TOÁN ĐỐI VỚI MỘT SỐ KHOẢN CHI PHÍ PHÁT SINH
TRONG QUÁ TRÌNH SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA XÍ NGHIỆP
Kính
gửi:
|
- Ông Bộ trưởng
các Bộ,
-
Ông Tổng cục trưởng các Tổng cục;
-
Ông Chủ nhiệm các Ủy ban Nhà nước,
-
Ông Chủ tịch Ủy ban hành chính và
-
Ông Chủ nhiệm Ủy ban kế hoạch các khu, thành, tỉnh,
|
Tiếp theo thông tư số 191-UB-TC
ngày 19-12-1963, để bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh và đầy đủ thông tư số 115TTg
ngày 12-12-1963 và thông bổ sung số 75-TTg-TN ngày 30-07-1964 của Thủ tướng
Chính phủ quy định cụ thể cách hạch toán đối với một số khoản chi phí phát sinh
trong quá trình sản xuất kinh doanh của xí nghiệp, Ủy ban Kế hoạch Nhà nước ra
thông tư này giải thích và hướng dẫn thi hành các văn bản nói trên.
Để cho việc hạch toán giá thành
và phí lưu thông đi dần vào nề nếp; các chi phí không trực tiếp liên quan đến
hoạt động sản xuất kinh doanh của xí nghiệp không được hạch toán vào giá thành
và phí lưu thông mà do các nguồn vốn khác đài thọ (ngân sách Nhà nước, quỹ xí
nghiệp, quỹ công đoàn,…).
Việc sử dụng các quỹ này phải
theo đúng chức năng của từng quỹ thì việc quản lý tài chính mới được chặt chẽ.
Do đó, đối với một
số khoản chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh của xí nghiệp, cần
phân biệt do nguồn vốn nào chi.
1. Chi
về lương của cán bộ chuyên trách làm công tác văn hóa quần chúng, cán bộ chuyên
trách thể dục thể thao, giáo viên chuyên trách bổ túc văn hóa, xét về tính
chất hoạt động của các cán bộ này, nay quy định là quỹ công đoàn chi về lương
và Tổng công đoàn thống nhất quy định và xét duyệt biên chế loại cán bộ này.
Đối với giáo viên chuyên trách bổ
túc văn hóa, thông tư số 115-TTg đã quy định rõ khoản chi về lương của cán bộ
này do quỹ Công đoàn chi, thực hiện như thông tri số 65-TT-10 ngày 20-11-1964 của
Tổng công đoàn.
Thông tư số 75-TTg-TN đã nêu rõ
là nếu do phải chi thêm lương cho loại cán bộ chuyên trách nói trên mà quỹ Công
đoàn thiếu thì xin Chính phủ trợ cấp thêm, sau khi xét tình hình sử dụng quỹ
công đoàn, do vậy từ nay tổng công đoàn có trách nhiệm giải quyết kịp thời tiền
lương hàng tháng cho anh chị em.
Thủ tướng Chính phủ đã quyết định,
tạm thời năm 1964, lương của cán bộ này do ngân sách Nhà nước chi. Tổng công
đoàn sẽ có dự trù kinh phí để Bộ Tài chính xét cấp.
Từ năm 1965, khoản chi trên sẽ gộp
vào tiền trợ cấp của Nhà nước mà Tổng công đoàn đề nghị hàng năm để Bộ Tài
chính xét và trình Chính phủ duyệt.
2.
Chi về hoạt động văn hóa quần chúng và thể dục thể thao.
Hoạt động văn hóa quần chúng, thể
dục thể thao, phải giữ đúng tính chất nghiệp dư, nhưng để cho phong trào được
duy trì bình thường, cần dành một số thời gian nhất định lấy trong giờ sản xuất
để cho các đội hoạt động văn hóa quần chúng, thể dục thể thao luyện tập.
Số thời gian cần thiết này sẽ do
Liên Bộ Lao động, Văn hóa, Ủy ban Thể dục thể thao, Tổng công đoàn cùng Bộ chủ
quản xí nghiệp quy định.
Trong phạm vi thời gian được quy
định các chi phí về luyện tập văn hóa quần chúng, thể dục thể thao, tại xí nghiệp
giải quyết như sau:
- Tiền lương do xí nghiệp chịu
và hạch toán vào giá thành và phí lưu thông;
- Các chi phí khác: theo tiêu
chuẩn Tổng công đoàn quy định hoặc được Tổng công đoàn xét duyệt, thì do quỹ
Công đoàn đài thọ.
Trong thời gian đi biểu diễn và
thi đấu, thi hành đúng quy định trong thông tư số 115-TTg nghĩa là: nếu Công
đoàn tổ chức thì quỹ Công đoàn chi; nếu cơ quan Nhà nước tổ chức thì cơ quan
nào tổ chức cơ quan đó đài thọ mọi chi phí (lương, tiền tàu xe, tiền đi đường,
tiền bồi dưỡng và các phí tổn khác).
Nếu cần luyện tập thêm ngoài thời
gian quy định nói trên để chuẩn bị thi đấu, đi biểu diễn theo chương trình của
tỉnh, khu hay toàn quốc và theo kế hoạch của Bộ văn hóa hoặc của Ủy ban Thể dục
thể thao trung ương (kế hoạch cần ghi rõ thời gian cho phép luyện tập thêm lấy
trong giờ sản xuất) thì mọi chi phí kể cả lương và tiền bồi dưởng phải giải quyết
như sau:
- Xí nghiệp nào có quỹ xí nghiệp
thì quỹ xí nghiệp đài thọ;
- Nếu không có quỹ xí nghiệp hoặc
quỹ xí nghiệp thiếu thì đề nghị cơ quan nào tổ chức cơ quan ấy đài thọ hoặc cấp
thêm.
Tạm thời trong năm 1964, Ủy ban
Thể dục thể thao, Bộ Văn hóa, Tổng công đoàn có thể tổ chức các cuộc thi đấu,
biểu diễn văn nghệ thì lập dự trù kinh phí để Bộ Tài chính xét cấp. Từ năm
1965, các cơ quan này cần nắm tình hình quỹ xí nghiệp của các đơn vị thường
tham dự biểu diễn và thi đấu rồi dự trù kinh phí sự nghiệp xin ngân sách cấp
hàng năm.
Về đi học các lớp ngắn ngày, đi
họp về văn hóa quần chúng, thể dục thể thao, bổ túc văn hóa thì giải quyết như
sau:
- Nếu là cán bộ chuyên trách đi
học, đi họp thì mọi chi phí do quỹ Công đoàn chi;
- Nếu là cán bộ, công nhân viên
chức khác đi học, đi họp thì mọi chi phí (kể cả tiền lương trong thời gian đi học)
do quỹ xí nghiệp đài thọ, nơi nào không có quỹ xí nghiệp thì cơ quan nào tổ chức
cơ quan đó đài thọ.
3.
Chi về bảo hiểm xã hội.
Việc trích quỹ bảo hiểm xã hội
phải theo tỉ lệ % (phần trăm) quỹ tiền lương như quyết định số 62-CP ngày
10-4-1964 của Hội đồng Chính phủ nghĩa là trích 3,7% so với tổng quỹ lương giao
cho Tổng công đoàn quản lý và 1% so với quỹ lương giao cho Bộ Nội vụ quản lý.
Những điểm giải thích về cách
trích nộp quỹ bảo hiểm xã hội khi lập kế hoạch trong thông tư số 191-UBTC của Ủy
ban Kế hoạch Nhà nước nay hủy bỏ.
4.
Chi phí về trợ cấp khó khăn.
Phân biệt hai trường hợp:
- Trợ cấp khó khăn tạm thời do
quỹ xí nghiệp chi, nếu đơn vị không có quỹ xí nghiệp thì đề nghị ngân sách cấp.
- Trợ cấp khó khăn thường xuyên
theo chủ trương chung của Nhà nước từng thời kỳ, là khoản chi của ngân sách Nhà
nước, được trừ vào lãi nộp, nếu đơn vị không có lãi thì xin ngân sách cấp.
Tạm thời trong năm 1964, Thủ tướng
Chính phủ đồng ý cách chi về khoản trợ cấp khó khăn thường xuyên theo công văn
số 69-HC3a ngày 29-01-1964 của Tổng công đoàn tức là quỹ xí nghiệp chịu 1/5,
còn ngân sách chịu 4/5 (được trừ vào lãi phải nộp).
5.
Chi về y tế vệ sinh.
Đối với cán bộ, công nhân viên
thì giải quyết theo thông tư số 191-UBTC.
Đối với con của cán bộ, công
nhân viên có hai trường hợp:
- Tiền thuốc men thông thường,
tiền thuốc và tiền bồi dưỡng theo đơn của y bác sĩ đều không được tính vào giá
thành và phí lưu thông, mà chỉ được chi trong phạm vi 0đ25 theo tiêu chuẩn cho
một cháu một tháng do ngân sách chi, trừ vào lãi phải nộp.
- Trường hợp các cháu nằm bệnh
viện thì theo quy định của bệnh viện mà các chi phí không được hạch toán vào
giá thành và phí lưu thông cũng như không được trừ vào lãi nộp ngân sách.
Để đảm bảo quyền lợi cho cán bộ,
công nhân viên ở các bộ phận nhà ăn, nhà trẻ, bộ phận Đảng, đoàn thanh niên lao
động, Công đoàn cơ sở, các cán bộ chuyên trách văn hóa quần chúng, thể dục thể
thao, bổ túc văn hóa và trong khi chờ đợi quy định quỹ nào chi lương thì quỹ ấy
chi về y tế vệ sinh, tạm thời các đơn vị sản xuất kinh doanh được hạch toán khoản
chi về y tế vệ sinh cho các cán bộ, công nhân viên này theo chế độ áp dụng cho
công nhân sản xuất.
Các khoản chi về bảo hiểm xã hội,
trợ cấp khó khăn, phụ cấp con, y tế vệ sinh… đã được quy định cụ thể, vậy các
xí nghiệp cần tính toán lại để loại trừ phần nào do ngân sách Nhà nước chi ra
khỏi giá thành và phí lưu thông mà không được gộp lại ghi bằng tỉ lệ 10% so quỹ
tiền lương sản xuất như một số xí nghiệp đang còn làm.
6.
Thiệt hại về thiên tai, hỏa hoạn.
Do tình hình khách quan gây ra
mà xí nghiệp chưa có điều kiện khắc phục thì ghi vào lỗ lãi xí nghiệp, còn thiệt
hại do khuyết điểm của xí nghiệp gây ra phải hạch toán vào giá thành và phí lưu
thông.
Ngay sau khi bị thiên tai, hỏa
hoạn, kể cả dịch họa gây ra thiệt hại nặng, xí nghiệp có trách nhiệm báo cáo
cho Ủy ban hành chính tỉnh địa phương mình ở lập một hội đồng (thành phần theo
quy định trong thông tư số 75-TTg-TN) để lập biên bản và làm báo cáo lên cấp
trên xét.
Căn cứ báo cáo, Bộ Tài
chính và Bộ chủ quản thống nhất quyết định việc xử lý (nếu là xí nghiệp trung
ương) hoặc Ủy ban hành chính tỉnh địa phương quyết định (nếu là xí nghiệp địa
phương).
Để tiện cho việc xác nhận và xử
lý thiên tai, hỏa hoạn, đề nghị các Bộ, Tổng cục, căn cứ theo hoạt động của
ngành mình cùng Ủy ban Kế hoạch Nhà nước xây dựng điều lệ giá thành của ngành
nhằm quy định thế nào là thiên tai, hỏa hoạn.
Thiệt hại về mất cắp, mất trộm
cũng phải xét nguyên nhân, nếu do khuyết điểm của người có trách nhiệm, nguyên
tắc là phải bồi thường; trường hợp có chênh lệch thì báo cáo Bộ Tài chính và Bộ
chủ quản xét duyệt và ghi vào lỗ lãi nếu do nguyên nhân khách quan và ghi vào
giá thành và phí lưu thông nếu do nguyên nhân chủ quan.
Thiệt hại do chi phí về đơn đặt
hàng không có giá trị, do nguyên nhân chủ quan thì hạch toán vào giá thành và
phí lưu thông, do nguyên nhân khách quan thì ghi vào lỗ lãi.
Dưới đây, Ủy ban
Kế hoạch Nhà nước giải thích thêm về một số khoản chi mà các Bộ địa phương nêu
lên.
1.
Chi về đào tạo cán bộ.
- Đối với xí nghiệp mới xây dựng,
xây dựng mở rộng, hiện đại hóa bằng cách trang bị hàng loạt thiết bị mới, thì
toàn bộ khoản chi phí đào tạo công nhân sản xuất, cán bộ quản lý và nghiệp vụ
do vốn kiến thiết cơ bản chi.
- Đối với xí nghiệp đang sản xuất,
có ba trường hợp:
a) Đào tạo, bổ túc nghề nghiệp
chuyên môn và kỹ thuật cho cán bộ, công nhân viên chức đã được ghi vào chỉ tiêu
kế hoạch Nhà nước (ở trung ương cũng như ở địa phương) thì do kinh phí sự nghiệp
của ngành chủ quản chi kể cả lương của cán bộ, công nhân đi học.
b) Đào tạo hoặc nâng cao trình độ
kỹ thuật, nghiệp vụ cho công nhân viên chức trong quá trình sản xuất kinh doanh
để thay thế người già yếu mất sức lao động, đào tạo công nhân điều khiển thiết
bị lẻ, thì chi phí hạch toán vào giá thành và phí lưu thông.
Trường hợp thoát ly sản xuất, bổ
túc, đào tạo bất cứ dưới hình thức nào: tự mở lớp, gửi nhờ đơn vị bạn, hoặc
cùng phối hợp nhiều đơn vị để ngành chủ quản giúp đỡ, đều phải được Bộ chủ quản
xét duyệt và báo cáo cho Ủy ban Kế hoạch Nhà nước và Bộ Tài chính biết, mới được
hạch toán vào giá thành và phí lưu thông (chi phí ngoài sản xuất).
c) Bổ túc nghề nghiệp và chuyên
môn theo tính chất thường xuyên ngoài giờ cho cán bộ, công nhân viên chức thi
hành theo thông tư số 05-LĐ-TT ngày 22-04-1964 của Bộ Lao động, thì kinh phí do
quỹ xí nghiệp đài thọ; nếu đơn vị không có quỹ xí nghiệp thì dự trù xin kinh
phí sự nghiệp chi.
2.
Xí nghiệp ngừng sản xuất:
a) Do tình hình mới có
các trường hợp:
- Ngừng sản xuất do có lệnh báo
động chung;
- Ngừng sản xuất do có lệnh đi
lùng biệt kích ở một khu vực,
Cả hai trường hợp đều tính vào lỗ
lãi của xí nghiệp coi như do nguyên nhân khách quan.
b) Ngừng sản xuất theo mùa hoặc
vì thiếu nguyên vật liệu, hoặc do nguyên nhân khác;
- Ngừng sản xuất có ghi trước
trong kế hoạch, các chi phí ngừng sản xuất này được trích trước, tính vào giá
thành và phí lưu thông.
Trong thời gian ngừng sản xuất,
nếu điều động công nhân đi làm việc khác, thì tiền thu được về tiền công ghi giảm
giá thành.
- Ngừng sản xuất ngoài kế hoạch:
Nếu do khuyết điểm của xí nghiệp
thì các chi phí về thiệt hại hạch toán vào giá thành và phí lưu thông.
Trong thời gian ngừng sản xuất,
nếu điều động công nhân đi làm việc khác, thì tiền thu được về tiền công ghi giảm
thiệt hại.
Nếu do nguyên nhân khách quan, cần
phân biệt:
Cơ quan hoặc đơn vị nào bên
ngoài xí nghiệp gây ra thiệt hại ngừng sản xuất thì phải bồi thường, trường hợp
có chênh lệch thì ghi vào lỗ lãi xí nghiệp, sau khi được Bộ chủ quản và Bộ Tài
chính xét duyệt.
Ngừng sản xuất do các nguyên
nhân khách quan khác (thiên tai, hỏa hoạn,…) thì mọi chi phí về thiệt hại được
ghi vào lỗ lãi xí nghiệp.
Trong thời gian ngừng sản xuất của
hai trường hợp do nguyên nhân khách quan này, nếu có điều động công nhân đi làm
việc khác thì tiền thu được về tiền công ghi giảm số lỗ.
3.
Vấn đề canh gác ngoài giờ ở xí nghiệp.
Do tình hình mới, nếu xí nghiệp
có tổ chức các đội tự vệ luân phiên canh gác ngoài giờ làm việc, phải xem đây
là nghĩa vụ của mọi công nhân viên chức trong thời kỳ “sẳn sàng chiến đấu”.
Riêng phần mua sắm để trang bị
cho đội tự vệ như: áo mưa, mũ, ủng, đèn pin (không kể vũ khí) thì được tính vào
giá thành và phí lưu thông. Chỉ cần mua sắm đủ cho những tự vệ làm nhiệm vụ đứng
gác hoặc đi tuần, khi thay phiên thì chuyển cho người khác. Những quân trang đó
là của công, cần có sổ sách theo dõi và bảo quản tại xí nghiệp.
4. Lương
và chi phí khác về các cán bộ đi tham gia các cuộc vận động quản lý hợp tác xã
hoặc “3 xây 3 chống”.
Thông tư số 115-TTg đã quy định
cơ quan nào điều động cơ quan ấy chi, kể cả các cơ quan hành chính sự nghiệp
- Đối với các cán bộ đang làm
công tác này, thì xí nghiệp liên hệ với các cơ quan điều động để cơ quan này trả
lương và các chi phí khác kể từ đầu năm 1965 trở đi.
Vậy những cơ quan điều động cán
bộ của các ngành sản xuất kinh doanh đi công tác “3 xây 3 chống”, quản lý hợp
tác xã , v.v…, cần lập dự trù xin kinh phí để trả lương và các chi phí khác cho
các cán bộ được điều động.
Thông tư này hướng dẫn cách hạch
toán đối với số khoản chi phí theo quy định của thông tư 75-TTg-TN, nhưng thực
tế hiện nay, xí nghiệp đã hạch toán mỗi nơi một cách, vấn đề điều chỉnh kế toán
cho cả năm 1964 rất phức tạp, do đó để đơn giản sổ sách, Ủy ban Kế hoạch Nhà nước
thống nhất với Bộ Tài chính và các ngành liên quan, là các xí nghiệp nào đã trả
lương cho cán bộ chuyên trách (đến hết tháng 9 -1964 theo thông tri số 57-TT-10
ngày 19-10-1964 của Tổng công đoàn), đã trả các chi phí về hoạt động văn hóa quần
chúng, thể dục thể thao, đã trả các chi phí về y tế vệ sinh, đã trả lương của
các cán bộ được điều đi công tác đột xuất, quỹ nào chi thì giữ nguyên, nếu tạm
chi chờ giải quyết (tài khoản 101) thì được chuyển vào giá thành, phí lưu
thông, không phải đòi lại người nợ và không phải điều chỉnh kế toán.
Nhưng để có cơ sở chính xác lập
kế hoạch năm 1965 và kế hoạch 5 năm lần thứ hai, đề nghị các Bộ, Tổng cục căn cứ
vào công văn số 1195-UB-TC ngày 11-8-1964 của Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, thống
kê những khoản chi phí phải gạt ra ngoài giá thành hoặc ghi thêm vào giá thành
và phí lưu thông; trả lời xin gửi Ủy ban Kế hoạch Nhà nước đồng thời sao gửi Bộ
Tài chính.
Từ năm 1965, cần thi hành nghiêm
chỉnh thông tư số 115-TTg và thông tư số 75-TTg-TN ngay từ đầu năm. Nếu khi lập
kế hoạch năm 1965 chưa kịp thống kê và loại ra thì nay cần tiếp tục làm để vào
giữa năm 1965 thì điều chỉnh kế hoạch.
Việc hạch toán và thống kê giá
thành cũng cần đưa vào chế độ từ đầu năm.
Nhận được thông tư này, đề nghị
các Bộ, Tổng cục và các Ủy ban hành chính, các Ủy ban Kế hoạch các khu, tỉnh,
thành hướng dẫn cho các ngành, các xí nghiệp thi hành, nếu có mắc mứu gì thì phản
ảnh cho Ủy ban Kế hoạch Nhà nước để tiếp tục giải quyết.
|
KT. CHỦ NHIỆM
ỦY BAN KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC
PHÓ CHỦ NHIỆM
Lê Viết Lượng
|