BỘ
TÀI CHÍNH
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
11-TC/CNA
|
Hà
Nội, ngày 22 tháng 7 năm 1986
|
THÔNG TƯ
CỦA BỘ TÀI CHÍNH SỐ 11-TC/CNA NGÀY 22-7-1986 HƯỚNG
DẪN CHẾ ĐỘ PHÂN PHỐI LỢI NHUẬN VÀ TRÍCH LẬP QUỸ XÍ NGHIỆP TRONG
CÔNG NGHIỆP QUỐC DOANH
Thi hành Quyết định
số 76-HĐBT ngày 6-6-1986 của Hội đồng Bộ trưởng quy định tạm thời quyền tự chủ
tài chính của các đơn vị kinh tế cơ sở, Bộ Tài chính hướng dẫn chế độ phân phối
lợi nhuận và trích lập quỹ xí nghiệp trong công nghiệp quốc doanh như sau:
I- NHỮNG QUY
ĐỊNH CHUNG
1. Chế độ phân phối
lợi nhuận xí nghiệp được quy định dựa trên lợi nhuận thực sự làm ra của xí nghiệp,
khi phân phối có tính đến mức hoàn thành các chỉ tiêu pháp lệnh được duyệt; vận
dụng nguyên tắc phân phối theo lao động và sự công bằng xã hội giữa các đơn vị
xí nghiệp và giữa các ngành kinh tế, bảo đảm sự kết hợp hài hoà giữa ba lợi ích
là lợi ích Nhà nước, lợi ích tập thể xí nghiệp và lợi ích cá nhân người lao động,
sử dụng lợi nhuận như một đòn bẩy kinh tế quan trọng để không ngừng thúc đẩy sản
xuất phát triển và kinh doanh có hiệu quả.
2. Căn cứ để thực hiện chế độ
phân phối lợi nhuận là số lợi nhuận kế hoạch và lợi nhuận thực tế đạt được của
đơn vị xí nghiệp.
- Lợi nhuận kế hoạch hàng năm của
xí nghiệp được xác định trên cơ sở tổng doanh thu kế hoạch tính theo giá bán của
sản phẩm (sau khi đã trừ đi các khoản chênh lệch giá nếu có); trừ đi giá thành
kế hoạch và thu quốc doanh và thuế phải nộp.
Lợi nhuận sản xuất chính, sản xuất
phụ bằng phế liệu, phế phẩm và các khoản lợi nhuận khác (như lợi nhuận sản xuất
phụ trợ và cung cấp lao vụ cho bên ngoài, lợi nhuận kinh doanh ngoài cơ bản...)
phải được kế hoạch hoá trong một kế hoạch sản xuất - kỹ thuật - tài chính thống
nhất của xí nghiệp.
- Lợi nhuận thực hiện của xí
nghiệp bao gồm các khoản lợi nhuận của các phần sản xuất nói trên và được xác định
trên cơ sở tổng doanh thu thực hiện trừ đi giá thành thực tế được duyệt, trừ đi
thu quốc doanh (kể cả khoản thu quốc doanh bổ sung) hoặc thuế và khoản thu về
chênh lệch giá nếu có.
3. Ngoài khoản lợi nhuận sản xuất
phụ bằng phế liệu, phế phẩm được phân phối theo những tỷ lệ khuyến khích, các
khoản lợi nhuận còn lại được phân phối theo những tỷ lệ thống nhất.
Để khuyến khích xí nghiệp hoàn
thành vượt mức kế hoạch được duyệt, phần vượt kế hoạch về lợi nhuận được khuyến
khích với tỷ lệ phần trăm để lại xí nghiệp cao hơn.
Ngược lại nếu xí nghiệp không
hoàn thành các chỉ tiêu pháp lệnh chủ yếu của Nhà nước thì sẽ bị phạt trừ vào
phần lợi nhuận để lại xí nghiệp, nhằm tránh tình trạng xí nghiệp chỉ chạy theo
lợi nhuận, hạch toán tăng lợi nhuận trong khi không hoàn thành các chỉ tiêu sản
lượng và chất lượng sản phẩm.
4. Căn cứ để tính mức trích quỹ
xí nghiệp là lợi nhuận thực hiện của xí nghiệp. Còn điều kiện để được trích lập
quỹ xí nghiệp là lợi nhuận nộp ngân sách Nhà nước và các chỉ tiêu pháp lệnh chủ
yếu khác.
Xí nghiệp thực hiện việc trích lập
3 quỹ kịp thời ngay từng quý trong năm, sau khi hoàn thành nghĩa vụ thu nộp
ngân sách Nhà nước theo kế hoạch.
5. Mở rộng hơn phạm vi sử dụng lợi
nhuận, phạm vi sử dụng quỹ khuyến khích phát triển sản xuất, quỹ phúc lợi, quỹ
khen thưởng nhằm nâng cao quyền tự chủ của xí nghiệp trong việc sử dụng phần lợi
nhuận để lại xí nghiệp.
II-
PHÂN PHỐI LỢI NHUẬN VÀ TRÍCH LẬP QUỸ XÍ NGHIỆP
1. Kế hoạch hoá
phân phối lợi nhuận:
Tổng số lợi nhuận kế hoạch của
xí nghiệp được phân phối theo tỷ lệ để lại xí nghiệp 50% và nộp ngân sách Nhà
nước 50% .
Riêng đối với lợi nhuận kế hoạch
của sản phẩm sản xuất phụ bằng phế liệu phế phẩm, xí nghiệp được kế hoạch hoá để
lại xí nghiệp 70% và nộp ngân sách Nhà nước 30%.
Toàn bộ phần lợi nhuận để lại xí
nghiệp theo kế hoạch được phân cho 3 quỹ, theo tỷ lệ quy định như sau:
Cho quỹ khuyến khích phát triển
sản xuất từ 35% đến 50%. Mức cụ thể trong khoảng từ 35 đến 50% do Bộ, Sở chủ quản
quy định cho phù hợp với yêu cầu và đặc điểm sản xuất của từng xí nghiệp, từng
ngành.
Số còn lại trích vào 2 quỹ khen
thưởng và phúc lợi, trong đó 2/ 3 cho quỹ khen thưởng và khoảng 1/3 cho quỹ
phúc lợi. Mức trích cụ thể do giám đốc xí nghiệp quyết định sau khi có ý kiến
tham gia của công đoàn cơ sở.
Xí nghiệp không được lấy phần lợi
nhuận và phần khấu hao cơ bản phải nộp ngân sách Nhà nước, hoặc các khoản phải
nộp khác để trả nợ tiền vay ngân hàng về đầu tư mua sắm tài sản cố định.
2. Thực hiện phân phối lợi nhuận:
Trên cơ sở tổng số lợi nhuận kế
hoạch, số lợi nhuận phải nộp ngân sách của xí nghiệp nói trên được duyệt và trở
thành chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh của Nhà nước giao cho xí nghiệp.
Số lợi nhuận phải nộp ngân sách
Nhà nước theo kế hoạch được phân thành 4 quý và xí nghiệp có nhiệm vụ nộp đều
hàng tháng (hoặc theo định kỳ do đặc điểm chu kỳ sản xuất sản phẩm) vào ngân
sách Nhà nước.
Số được trích 3 quỹ theo kế hoạch
cả năm được phân ra làm 4 quý và xí nghiệp được tạm trích 70% hàng quý vào mỗi
quỹ sau khi đã hoàn thành việc nộp lợi nhuận và các khoản thu khác vào ngân
sách Nhà nước hàng quý theo kế hoạch được duyệt và có ý kiến xác nhận của cơ
quan tài chính (chi cục thu quốc doanh và quản lý tài chính xí nghiệp trung
ương - đối với các đơn vị xí nghiệp trung ương; hoặc tài chính địa phương - đối
với xí nghiệp địa phương).
Hết năm khi xét duyệt quyết toán
(bao gồm việc xét duyệt để trích lập chính thức các quỹ xí nghiệp), xí nghiệp sẽ
được tính toán đầy đủ số trích lập 3 quỹ theo thứ tự như sau:
- Tổng số lợi nhuận thực hiện
trong phạm vi của số kế hoạch lợi nhuận đã được duyệt thì phân phối như quy định
ở điểm 1, mục II nói trên: 50% nộp vào ngân sách Nhà nước, 50% để lại xí nghiệp
đối với sản xuất chính; đối với phần sản xuất phụ bằng phế liệu phế phẩm: 30% nộp
ngân sách, 70% để lại xí nghiệp. Trường hợp xí nghiệp không hoàn thành kế hoạch
nộp lợi nhuận của sản xuất chính (trên cơ sở của số lợi nhuận thực hiện) thì số
lợi nhuận sản xuất phụ phải nộp ngân sách 50%, để lại xí nghiệp 50%.
Tỷ lệ phân phối lợi nhuận của sản
xuất phụ được áp dụng chung cho cả phần trong kế hoạch và vượt kế hoạch.
- Lợi nhuận thực hiện vượt kế hoạch
của phần sản xuất chính (kể cả sản xuất phụ trợ hoặc lao vụ cho bên ngoài và
kinh doanh ngoài cơ bản nếu có) được phân phối như sau:
Đối với các ngành công nghiệp nhẹ,
công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm... (gọi chung là công nghiệp B): lợi
nhuận vượt kế hoạch nộp ngân sách Nhà nước 40%, để lại xí nghiệp 60%.
Đối với các ngành công nghiệp nặng,
khai thác gỗ, đánh cá biển... (gọi chung là công nghiệp A): nộp ngân sách Nhà
nước 20%, để lại xí nghiệp 80%.
Phần lợi nhuận để lại xí nghiệp
(kể cả trong kế hoạch và vượt kế hoạch) được phân phối cho 3 quỹ theo các tỷ lệ
quy định ở điểm 1, mục II sau khi trừ đi các khoản phải nộp phạt về vi phạm hợp
đồng kinh tế, phạt vi phạm kỷ luật tiền mặt, tín dụng, thanh toán... chi trả
các khoản bất hợp lý, bất hợp lệ không được hạch toán vào giá thành như các khoản
chi phí tiêu cực, lãng phí...
Nếu xí nghiệp không hoàn thành 3
(hoặc 2, hoặc 1 tuỳ theo loại xí nghiệp) chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh chủ yếu cả
năm nói sau đây:
- Giá trị sản lượng hàng hoá thực
hiện (trong đó ghi rõ kim ngạch xuất khẩu nếu có).
- Sản phẩm chủ yếu với quy cách
và chất lượng quy định theo kế hoạch và hợp đồng (trong đó ghi rõ phần cho quốc
phòng và cho xuất khẩu nếu có).
- Các khoản nộp ngân sách (gồm lợi
nhuận và các khoản nộp khác), thì cứ mỗi phần trăm, không hoàn thành về 1 trong
2 chỉ tiêu thứ nhất và thứ 2 phải trừ đi 2% số tiền được trích cho mỗi quỹ (3
quỹ) và mỗi phần trăm không hoàn thành chỉ tiêu thứ 3, phải trừ đi 3% số tiền
được trích cho mỗi quỹ.
Khi đánh giá mức độ hoàn thành kế
hoạch chỉ tiêu các khoản nộp ngân sách, cần phải so sánh tổng số các khoản nộp
thực tế với tổng số các khoản nộp theo kế hoạch, bao gồm số nộp lợi nhuận, thu
quốc doanh, hoặc thuế, khấu hao cơ bản phải nộp và các khoản phải nộp khác như
chênh lệch giá nếu có v.v... và các khoản nộp thực tế đó chỉ được xác nhận
trong phạm vi của số phát sinh phải nộp.
Ví dụ:
Các
khoản
phải
nộp
|
Theo
kế hoạch
|
Theo
thực tế
|
Số
đánh giá mức độ
hoàn
thành kế hoạch
nộp
|
Ngân
sách
|
Tổng
số
phát
sinh
|
Số
phải
nộp
|
Tổng
số
phát
sinh
|
Số
phải
nộp
|
Số
đã nộp
trong
năm
|
Tổng
số
|
%
|
Lợi nhuận
Thu quốc doanh
Khấu hao cơ bản
|
10
12
6
|
5
12
3
|
8
13
4
|
4
13
2
|
5
12
2
|
4
12
2
|
|
Cộng
|
28
|
20
|
25
|
19
|
19
|
18
|
18x100
---------= 90%
20
|
Ngoài ra, nếu xí nghiệp vi phạm
chế độ, chính sách quản lý kinh tế tài chính của Nhà nước như vi phạm các chế độ
báo cáo thống kê kế toán, nộp không đều đặn và kịp thời các khoản phải nộp vào
ngân sách Nhà nước, kể cả các khoản phải nộp vượt kế hoạch v.v... thì cứ mỗi vi
phạm sẽ tuỳ theo mức độ vi phạm mà giảm trừ từ 2 đến 5% số tiền được trích cho
mỗi quỹ (3 quỹ).
Các số phạt trừ nói trên vào 3
quỹ của xí nghiệp phải nộp vào ngân sách nhà nước.
Điều kiện về thời điểm xí nghiệp
được trích đủ (100%) số lợi nhuận để lại xí nghiệp lập 3 quỹ theo những quy định
nói trên là xí nghiệp phải hoàn thành 100% số lợi nhuận phải nộp vào ngân sách
Nhà nước theo quy định (có xác nhận của cơ quan tài chính cùng cấp) trên cơ sở
số liệu xét duyệt quyết toán hàng năm cho xí nghiệp.
3. Đối với những xí nghiệp có lỗ
theo chính sách :
Đối với những xí nghiệp có lỗ
theo chính sách giá cả của Nhà nước quy định và nằm trong danh mục những xí
nghiệp được nhà nước cho phép cấp bù lỗ, thì áp dụng phương thức phân phối lợi
nhuận như sau :
Xí nghiệp được hưởng mức trích
cơ bản vào 2 quỹ khen thưởng và phúc lợi là 2 tháng lương cơ bản thực hiện
trong năm, trong đó khoảng 2/3 cho quỹ khen thưởng và khoảng 1/3 cho quỹ phúc kợi.
Mức trích cơ bản vào quỹ khuyến
khích phát triển sản xuất của xí nghiệp được tính bằng 1% nguyên giá tài sản cố
định bình quân đang dùng trong năm và tài sản lưu động trong định mức.
Nếu xí nghiệp không hoàn thành 2
(hoặc 1 tuỳ theo loại xí nghiệp) chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh chủ yếu cả năm nói
dưới đây, thì cứ mỗi phần trăm không hoàn thành về một chỉ tiêu phải trừ đi 2%
số tiền được trích nói trên cho mỗi quỹ (3 quỹ) :
- Giá trị sản lượng hàng hoá thực
hiện (trong đó ghi rõ kim ngạch xuất khẩu nếu có).
Sản phẩm chủ yếu với quy cách và
chất lượng quy định theo kế hoạch và hợp đồng (trong đó ghi rõ phần cho quốc
phòng và cho xuất khẩu nếu có).
Đối với chỉ tiêu lỗ thực hiện (kể
cả các khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng kinh tế, phạt vi phạm kỷ luật tiền mặt,
tín dụng, thanh toán các khoản chi bất hợp lý, bất hợp lệ không được hạch toán
vào giá thành như các khoản chi phí tiêu cực lãng phí...), cứ mỗi phần trăm
tăng lỗ so với kế hoạch phải trừ đi 3% số tiền được trích cho mỗi quỹ (3 quỹ).
Khi đánh giá mức độ hoàn thành chỉ tiêu này, xí nghiệp được loại trừ khoản lỗ
tăng do tăng sản lượng tiêu thụ.
Nếu xí nghiệp vi phạm chế độ chính
sách quản lý kinh tế - tài chính của Nhà nước như vi phạm các chế độ báo cáo thống
kê kế toán, nộp không đầy đủ không đều đặn và kịp thời các khoản phải nộp vào
ngân sách nhà nước, kể cả các khoản phải nộp vượt kế hoạch, thì cứ mỗi vi phạm
sẽ tuỳ theo mức độ vi phạm mà giảm từ 2 đến 5% số tiền được trích cho mỗi quỹ
(3 quỹ).
Nếu xí nghiệp có giảm lỗ kế hoạch
do phấn đấu chủ quan làm hạ giá thành sản phẩm thì được coi số giảm lỗ như lãi
vượt kế hoạch và được trích thêm vào 3 quỹ với mức trích tổng số bằng 60% số đã
giảm lỗ so với kế hoạch. Mức phân bổ vào mỗi quỹ như quy định ở điểm 1 nói trên
đối với các xí nghiệp có lãi kế hoạch. Các xí nghiệp loại này cũng được tạm cấp
70% số trích vào 3 quỹ theo kế hoạch hàng quý, sau khi hoàn thành chỉ tiêu kế
hoạch lỗ và các khoản nộp ngân sách và có ý kiến xác nhận của cơ quan thu quốc
doanh hoặc tài chính địa phương.
Số chính thức được cấp để trích
lập ba quỹ theo những quy định nói trên sẽ dựa trên cơ sở số liệu xét duyệt quyết
toán hàng năm cho xí nghiệp.
4. Việc trích từ các quỹ khuyến
khích phát triển sản xuất, quỹ phúc lợi và quỹ khen thưởng của xí nghiệp để lập
các quỹ nghiên cứu khoa học kỹ thuật tập trung, quỹ dự trữ tài chính và quỹ Bộ
trưởng ở các cơ quan quản lý cấp trên được quy định như sau:
- Ngoài mục đích sử dụng quỹ
khuyến khích phát triển sản xuất để bổ sung cho nhu cầu tăng vốn lưu động, vốn
tự có về đầu tư xây dựng cơ bản theo chiều sâu, phát triển mặt hàng mới, mở rộng
sản xuất chính và sản xuất phụ, xí nghiệp nộp một phần lên cơ quan quản lý cấp trên
để lập quỹ nghiên cứu khoa học kỹ thuật tập trung theo kế hoạch hàng năm của xí
nghiệp (có chế độ quy định riêng về quỹ này); dành từ 1 đến 3% để lập quỹ dự trữ
tài chính tập trung ở các cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp như tổng công ty,
liên hiệp các xí nghiệp (không hạch toán kinh tế tập trung) hoặc bộ chủ quản. Mức
cụ thể (từ 1 đến 3%) do các cơ quan quản lý cấp trên đó quy định căn cứ vào nhu
cầu cụ thể của từng ngành. ở cấp bộ được lập quỹ dự trữ tài chính tập trung bằng
nguồn trích từ quỹ khuyến khích phát triển sản xuất của những đơn vị trực thuộc
hạch toán kinh tế độc lập (các tổng công ty, liên hiệp xí nghiệp không phải là
những đơn vị hạch toán kinh tế tập trung đã được trích lập quỹ dự trữ tài chính
thì không phải nộp lên bộ chủ quản để lập quỹ này ở cấp Bộ). Đối với các đơn vị
xí nghiệp địa phương, quỹ dự trữ tài chính chỉ được lập ở các liên hiệp xí nghiệp,
công ty không hạch toán kinh tế tập trung; không lập quỹ này ở các sở chủ quản.
Quỹ dự trữ tài chính tập trung ở
tổng công ty, liên hiệp xí nghiệp hoặc bộ chủ quản được sử dụng để hỗ trợ kịp
thời những khó khăn bất thường về tài chính cho các đơn vị xí nghiệp cơ sở trực
thuộc theo nguyên tắc cấp phát có hoàn lại hoặc không hoàn lại do cơ quan chủ
quản cấp trên có quỹ đó quyết định.
- Dành 1% quỹ phúc lợi và quỹ
khen thưởng của xí nghiệp để lập quỹ Bộ trưởng. Nếu cấp trên trực tiếp của xí
nghiệp là liên hiệp các xí nghiệp, tổng công ty không phải là những đơn vị hạch
toán kinh tế tập trung thì 1% đó được tách làm hai phần: 0,5% để lập quỹ tổng
giám đốc liên hiệp các xí nghiệp, tổng giám đốc công ty và 0,5% được chuyển lên
bộ để lập quỹ bộ trưởng. Trường hợp liên hiệp các xí nghiệp, tổng công ty là những
đơn vị hạch toán kinh tế tập trung thì phải dành 1% quỹ phúc lợi và quỹ khen
thưởng của mình để lập quỹ Bộ trưởng (có chế độ riêng về quỹ Bộ trưởng).
5. Không hạn chế mức tối đa quỹ
khen thưởng và quỹ phúc lợi, nhưng khi tổng số trích vào 2 quỹ đó vượt quá 50%
quỹ lương cơ bản thực hiện cả năm của công nhân viên chức các xí nghiệp thì số
trích vượt tính từ trên mức 50% quỹ lương cơ bản trở đi được phân phối như sau
:
- Từ trên 50 đến 70% quỹ lương
cơ bản thực hiện, xí nghiệp phải nộp ngân sách Nhà nước 50% và 10% nộp cơ quan
quản lý cấp trên để lập quỹ dự trữ tài chính; số còn lại 40% bổ sung vào các quỹ
xí nghiệp do Giám đốc xí nghiệp quyết định.
- Từ trên 70% quỹ lương cơ bản
thực hiện trở đi, xí nghiệp phải nộp ngân sách Nhà nước 70% và 10% nộp lên cơ
quan quản lý cấp trên để lập quỹ dự trữ tài chính ; số còn lại 20% bổ sung vào
các quỹ xí nghiệp do giám đốc xí nghiệp quyết định.
6. Mức trích quỹ khen thưởng và
quỹ phúc lợi bình quân trên đầu người của cơ quan liên hiệp xí nghiệp, tổng
công ty không phải là những đơn vị hạch toán kinh tế tập trung (không thuộc đối
tượng xét trích lập 3 quỹ xí nghiệp) bằng mức trích bình quân thực tế đạt được
2 quỹ đó trên đầu người tổng số công nhân viên của các đơn vị xí nghiệp trực
thuộc, liên hiệp các xí nghiệp và tổng công ty.
Nguồn trích lập 2 quỹ khen thưởng
và phúc lợi của cơ quan liên hiệp xí nghiệp và tổng công ty là quỹ khen thưởng
và quỹ phúc lợi của các đơn vị xí nghiệp trực thuộc trích nộp lên, mức phân bổ
cho từng đơn vị xí nghiệp trực thuộc do Giám đốc liên hiệp xí nghiệp, tổng công
ty quyết định tuỳ theo yêu cầu và khả năng cụ thể của từng đơn vị xí nghiệp.
III-
ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH.
1. Căn cứ vào nhiệm
vụ và chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước giao cho ngành chủ quản, ngay từ cuối năm trước
hoặc đầu năm kế hoạch, các cơ quan chủ quản cấp trên (Bộ, sở, tổng công ty,
liên hiệp xí nghiệp) phải giao kế hoạch tài chính cho các đơn vị cơ sở trực thuộc,
trong đó có kế hoạch phân phối lợi nhuận. Các cơ quan chủ quản cấp trên phải
giao kế hoạch lợi nhuận nộp ngân sách Nhà nước cho các xí nghiệp trực thuộc
mình không được thấp hơn kế hoạch Nhà nước giao và phải chịu trách nhiệm về việc
hoàn thành kế hoạch nộp lợi nhuận cho Nhà nước. Trường hợp nếu giao kế hoạch thấp
hơn thì cứ mỗi 1% giao hụt kế hoạch bị phạt trừ 2% tổng số quỹ Bộ trưởng (hoặc
quỹ Tổng giám đốc công ty, liên hiệp xí nghiệp) được trích trong năm. Số bị phạt
trừ này phải nộp vào ngân sách Nhà nước.
2. Các đơn vị cơ sở phải đăng ký
kế hoạch trích lập 3 quỹ, có phân bổ ra từng quý với cơ quan tài chính cùng cấp
và ngân hàng địa phương và được trích hàng quý như quy định ở mục II thông tư
này.
3. Khi duyệt quyết toán chính thức
hàng năm cho đơn vị cơ sở, cơ quan chủ quản và cơ quan tài chính cấp trên với sự
tham gia của cán bộ chuyên quản tài chính xí nghiệp tại địa phương duyệt số lợi
nhuận chính thức để lại xí nghiệp trích lập 3 quỹ và các nhu cầu khác như quy định
ở điểm 2, mục II thông tư này và xác định số lợi nhuận nộp ngân sách Nhà nước.
Nếu xí nghiệp sử dụng quá số lợi nhuận để lại được duyệt, thì phải trừ vào số
trích của năm sau và ngược lại, nếu thiếu được trích thêm.
4. Thông tư này có hiệu lực thi
hành kể từ ngày 1 tháng 7 năm 1986 và được áp dụng cho việc phân phối lợi nhuận
cả năm 1986 của các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh trung ương và địa phương
thuộc tất cả các ngành kinh tế.
Những quy định trước đây trái với
Thông tư này đều bãi bỏ.
Đối với xí nghiệp quốc doanh thuộc
các ngành kinh tế khác (thương nghiệp, vật tư, vận tải, nông trường quốc doanh,
v.v...), trên cơ sở những quy định chung nói trên, Bộ Tài chính sẽ có thông tư
hướng dẫn riêng cho phù hợp với đặc điểm từng ngành.