VĂN
PHÒNG CHÍNH PHỦ
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số:
25/TB-VPCP
|
Hà
Nội, ngày 20 tháng 01 năm 2020
|
THÔNG BÁO
PHÁT BIỂU CHỈ ĐẠO CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ NGUYỄN XUÂN PHÚC TẠI HỘI NGHỊ
TỔNG KẾT THỰC HIỆN KẾ HOẠCH NĂM 2019 VÀ TRIỂN KHAI NHIỆM VỤ NĂM 2020 CỦA TẬP
ĐOÀN ĐIỆN LỰC VIỆT NAM
Ngày 25 tháng 12 năm 2019, tại trụ sở
Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã tới dự Hội nghị
Tổng kết thực hiện kế hoạch năm 2019 và triển khai nhiệm vụ năm 2020 của EVN.
Sau khi nghe lãnh đạo EVN báo cáo, ý kiến phát biểu của các đại biểu tham dự Hội
nghị, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã có phát biểu chỉ đạo như sau:
I. ĐÁNH GIÁ CHUNG
1. Năm 2019, mặc dù tình hình trên thế
giới có nhiều biến động song kinh tế - xã hội nước ta tiếp tục phát triển toàn
diện trên các lĩnh vực; là năm thứ hai liên tiếp đạt và vượt toàn bộ 12 chỉ
tiêu cơ bản về kinh tế - xã hội được Quốc hội giao (trong đó 5 chỉ tiêu vượt);
tăng trưởng GDP đạt trên 7,0% thuộc nhóm những nước có tăng trưởng cao nhất thế giới và khu vực (tiếp tục duy trì được đà tăng cao của
năm 2018), tăng trưởng đều trên cả 3 lĩnh vực (nông nghiệp, công nghiệp và dịch
vụ); kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát ở mức thấp và được kiểm soát; nhiều kỷ lục được xác lập như kim ngạch xuất nhập khẩu ghi nhận đạt mức trên 500 tỷ USD (khoảng 517 tỷ USD), xuất siêu đạt gần 10 tỷ USD, khách quốc tế đến Việt Nam
dự kiến trên 18 triệu, đăng ký thành lập mới doanh nghiệp, dự trữ ngoại hối.
Năng suất lao động và chất lượng tăng trưởng tiếp tục được cải thiện. Môi trường
kinh doanh tiếp tục được cải thiện, số lượng doanh nghiệp thành lập mới tăng
nhanh và huy động được nhiều nguồn lực đầu tư xã hội, nhất là đầu tư tư nhân.
Khoa học công nghệ và hệ sinh thái khởi
nghiệp đổi mới sáng tạo được chú trọng phát triển. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn
cầu tăng tiếp 3 bậc, xếp thứ 42/129 quốc gia, vùng lãnh thổ. Chất lượng nguồn
nhân lực được nâng lên; kết cấu hạ tầng phát triển theo hướng đồng bộ, hiện đại.
Cải cách hành chính được đẩy mạnh; phòng, chống tham nhũng và lãng phí được triển
khai quyết liệt, đạt nhiều kết quả. Quốc phòng, an ninh được tăng cường. Giảm
nghèo bền vững đạt kết quả tích cực (giảm khoảng 1,5%, còn
dưới 4%). Trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Văn hóa, xã hội được chú trọng,
thể dục thể thao phát triển. Chất lượng cuộc sống của nhân dân ở khắp mọi vùng
miền tiếp tục được cải thiện rõ rệt; số lượng người dân có thu nhập cao, trung
lưu ngày một tăng. Hoạt động đối ngoại đạt nhiều thành tựu. Uy tín và vị thế nước
ta trên trường quốc tế được nâng cao.
Kết quả trên tiếp tục tạo đà và động
lực mới, khí thế mới để tiếp tục phấn đấu hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ đề
ra cho năm 2020 và 5 năm 2016 - 2020. Trong thành công chung của cả nước, có sự
đóng góp hết sức quan trọng của ngành điện lực Việt Nam, đặc biệt là Tập đoàn
Điện lực Việt Nam.
2. Biểu dương, khen ngợi cán bộ, công
nhân viên và người lao động toàn Tập đoàn và ngành Điện đã đoàn kết, nỗ lực lao
động, khắc phục khó khăn, hoàn thành tốt các nhiệm vụ, trọng
trách được giao, cụ thể là:
- Tập đoàn đã cơ bản đảm bảo cung ứng
đủ điện cho nền kinh tế và đời sống của nhân dân. Đến nay, tổng công suất nguồn
điện toàn hệ thống điện quốc gia đã đạt gần 55.000 MW, trong đó tổng công suất
nguồn điện của EVN và các đơn vị thành viên đạt gần 29.500 MW, chiếm 54% công
suất đặt của toàn hệ thống. Điện thương phẩm năm 2019 đạt khoảng 209,5 tỷ kWh,
tăng gần 9% so với năm 2018. Hệ thống điện quốc gia Việt Nam đã có quy mô lớn
thứ 2 khu vực Đông Nam Á và thứ 23 trên thế giới. Để đạt
được kết quả này đã có sự cố gắng rất lớn của các cấp các ngành, đồng thời khẳng
định chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong phát triển kinh tế - xã hội đất nước, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa.
- Sản xuất kinh doanh có hiệu quả, nhất
là trong bối cảnh khó khăn thiếu nguồn điện phải huy động các nguồn điện chạy dầu
nhiều có giá thành cao. Nộp ngân sách khoảng 27.000 tỷ đồng, tăng 2.089 tỷ đồng
so với năm 2018; hệ số nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu là 2,25 lần, tỷ lệ tự đầu
tư 30,7% đạt yêu cầu của Bộ Tài chính.
- Hoàn thành các nhiệm vụ chính trị,
xã hội được giao, nhất là cung cấp điện cho nông thôn, miền núi, hải đảo. Trong
tình hình tài chính còn nhiều khó khăn, nhưng Tập đoàn đã thực hiện đưa điện đến
100% số xã và 99,25% số hộ dân nông thôn; nhiều vị trí chiến lược trên biển có
điện. Với thành tích đã đạt được, EVN đã được Nhà nước trao tặng Huân chương
Lao động hạng nhất vào tháng 10 năm 2019.
- Tích cực thực hiện các nhiệm vụ, giải
pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc
gia. Chỉ số tiếp cận điện năng đạt kết quả rất ấn tượng, tiến bộ vượt bậc trong
giai đoạn qua, được đánh giá đạt thứ hạng 27/190 quốc gia trên thế giới và thứ
4 khu vực ASEAN, vượt trước 2 năm so với mục tiêu Chính phủ đặt ra.
Thời điểm khai trương Cổng dịch vụ
công quốc gia vào đầu tháng 12 vừa qua, EVN đã tham gia ngay 4 nội dung tiếp nhận,
giải quyết qua mạng, đến nay đã tham gia 12 nội dung. Đây là cố gắng rất lớn, là dấu ấn mạnh mẽ của Tập đoàn trong công tác dịch vụ
khách hàng, hướng tới việc giải quyết cung cấp dịch vụ không cần gặp gỡ giữa
khách hàng và cán bộ nhân viên, nâng cao tính minh bạch trong các giao dịch. Tập
đoàn đã tích cực tham gia công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới
trong quản lý vận hành nhà máy điện và các trạm biến áp; có đến 620 trạm biến
áp 110 - 220 kV không có người trực...
- Đã cơ bản hoàn thành một số chỉ
tiêu được giao trong kế hoạch 5 năm như tổn thất điện năng đạt 6,5% thấp hơn kế
hoạch; chỉ tiêu độ tin cậy cung cấp điện được cải thiện một cách rõ nét; tổng
thời gian mất điện của khách hàng giảm 11% so với năm 2018 (một số tổng công ty
điện lực về đích sớm từ 01 - 02 năm so với kế hoạch 5 năm).
- Đã thực hiện tốt hơn công tác bảo vệ môi trường trong phát triển điện lực. EVN đã có nhiều cố
gắng thực hiện giải pháp nhằm tăng cường bảo vệ môi trường. Đến cuối năm 2019, tỷ lệ tiêu thụ tro xỉ đạt 70% cao
hơn nhiều so với các năm trước. Nhiều đơn vị trong ngành
có nhiều sáng kiến, sáng tạo nhằm ngăn chặn phát tán bụi
và “xanh hóa” khu vực bãi xỉ, xử lý tro, xỉ nhiễm dầu... Đây là tín hiệu tích cực
cần được tiếp tục quan tâm.
- Là tập đoàn nhà nước gương mẫu,
tiên phong bước đầu quan trọng đối với các yêu cầu công khai, minh bạch trong
hoạt động sản xuất kinh doanh và đầu tư xây dựng, đi đầu trong thực hiện đấu thầu
qua mạng.
- Tích cực quan tâm đến an sinh xã hội,
quan tâm đến vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn; chủ động, tích cực thực hiện tốt
công tác khắc phục thiên tai.
- Đoàn kết, thống nhất trong lãnh đạo
và trong cả Tập đoàn; dân chủ trong nhân sự bước đầu được phát huy; cán bộ công
nhân viên ngành Điện nói chung, nhất là EVN quyết tâm cao thực hiện nhiệm vụ
chính trị; công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực, lợi
ích nhóm được tăng cường.
3. Bên cạnh các kết quả đạt được, EVN
và ngành Điện nước ta hiện nay vẫn còn một số tồn tại, hạn chế:
- Nhiều dự án nguồn và lưới điện chậm
tiến độ dẫn đến nguy cơ thiếu điện trong những năm tới là hiện hữu. Nhiều báo
cáo cho thấy có đến 35 dự án nguồn điện đang triển khai với
tổng công suất 39.000 MW hiện đang chậm tiến độ trên 01 năm (mới tính các nguồn
điện có quy mô công suất trên 200 MW), trong đó, EVN có 07 dự án chậm tiến độ.
Đây là tồn tại chung cho cả ngành Điện và có trách nhiệm của Bộ Công Thương, Ủy
ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp; EVN với vai trò nòng cốt có trách
nhiệm cao nhất và có trách nhiệm nêu gương tìm biện pháp tháo gỡ.
- Phát triển lưới điện truyền tải
chưa đáp ứng yêu cầu đấu nối, truyền tải, giải tỏa công suất nguồn điện vào hệ
thống điện quốc gia, nhiều dự án chậm tiến độ. Năm 2019, Tập đoàn đã rất cố gắng
trong đầu tư xây dựng lưới điện truyền tải song vẫn còn tình trạng chưa đáp ứng
yêu cầu đấu nối, nhất là khi phát triển nhanh nguồn điện mặt trời trên địa bàn
các tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận, phát triển nguồn thủy
điện vừa và nhỏ khu vực Tây Bắc.
Về tồn tại này, Tập đoàn cần rà soát
và báo cáo cấp có thẩm quyền tháo gỡ, kể cả việc thí điểm xã hội hóa đầu tư lưới
điện truyền tải để không lãng phí mọi nguồn lực đầu tư vào ngành Điện. Đây là nội
dung được xã hội rất quan tâm thời gian qua và cũng được Chính phủ quan tâm biện
pháp tháo gỡ nhằm phát huy hiệu quả chung, đảm bảo cung ứng điện.
- Năng suất lao động ngành Điện mặc
dù tiếp tục được cải thiện song nhìn chung còn thấp. Năm 2019, năng suất suất
lao động của EVN tiếp tục tăng trưởng cao 10%, cao hơn mức tăng chung của nền
kinh tế song đánh giá chung vẫn thấp hơn so với nhiều công ty cùng chuyên ngành
trong khu vực (TNB - Malaysia, EGAT - Thái Lan...). Tập đoàn cần tiếp tục quan
tâm khắc phục để nâng cao hơn nữa năng suất lao động thông qua các giải pháp
nâng cao hiệu quả vận hành hệ thống điện quốc gia, sử dụng lưới điện thông
minh, đo đếm điện thông minh v.v...
- Thực hiện lộ trình tăng giá điện thời
gian qua còn gây phản ứng của người dân. Điều này do nhiều nguyên nhân song trước
hết là công tác truyền thông, thông tin trong ngành Điện còn chậm đổi mới. Sự
phối hợp để tạo sự đồng thuận giữa các cấp các ngành còn chưa tốt.
- Một số việc vẫn còn lãng phí, nhất
là tiết kiệm điện chưa thành phong trào được nhân dân hưởng ứng mạnh mẽ. Tập
đoàn cần thực hiện các biện pháp mạnh mẽ hơn có sức lôi cuối
mọi tầng lớp nhân dân có hành động thiết thực tiết kiệm điện
trong sử dụng điện.
II. NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP
Ngành điện là ngành hạ tầng quan trọng
thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đảng, Nhà nước
luôn quan tâm tạo điều kiện về cơ chế, chính sách, nguồn lực để đầu tư thích
đáng cho phát triển ngành Điện với mục tiêu phát triển điện phải đi trước một
bước để phục vụ yêu cầu phát triển toàn diện kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh
năng lượng quốc gia. Do vậy, EVN phải nhận thức đầy đủ trách nhiệm của mình,
tích cực tham gia vào xây dựng định hướng chiến lược phát triển năng lượng, chiến
lược phát triển ngành điện, quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ tới.
Năm 2020, là năm có ý nghĩa rất quan
trọng; năm diễn ra Đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ XIII; bầu cử Hội đồng nhân dân, kiện toàn bộ máy chính quyền địa phương
các cấp; năm về đích của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 -
2020 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 -
2020. Trên phương diện quốc tế, là năm Việt Nam là chủ tịch ASEAN và là ủy viên
không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc... Trong điều kiện thuận lợi
và khó khăn đan xen, dự báo ngành Điện sẽ phải đối mặt với rất nhiều khó khăn,
thách thức trong đảm bảo cung ứng đủ điện cho phát triển kinh tế - xã hội. EVN
phải nỗ lực, cố gắng cao nhất để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị được
giao.
Cơ bản nhất trí với các mục tiêu, nhiệm
vụ và giải pháp EVN đề ra cho năm 2020; tinh thần chung lớn nhất là phải đảm bảo
chủ động cung ứng điện cho nền kinh tế với chất lượng tốt, không được để thiếu
điện - đây là mệnh lệnh của Thủ tướng Chính phủ. EVN với vai trò trụ cột trong
ngành Điện cần tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ trọng tâm sau:
1. Trong điều kiện khó khăn về cung ứng
diện do chậm tiến độ nhiều nguồn điện, cộng thêm điều kiện hạn hán, nước về các
hồ thủy điện thấp, EVN phải phát huy hơn nữa vai trò chủ đạo trong ngành điện,
tính toán các biện pháp thích hợp để điều hành hệ thống tốt nhất, đảm bảo cung ứng
điện; kịp thời báo cáo cấp có thẩm quyền giải quyết những vấn đề vượt thẩm quyền.
Để xử lý một số việc còn chưa có sự
thống nhất và thông suốt trong thời gian qua, yêu cầu Bộ Công Thương và Ủy ban
Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp phải phối hợp điều hành tốt về cung cấp
than và khí cho phát điện với quan điểm là nếu thiếu khí phải ưu tiên cho phát
điện.
2. Tập trung nguồn lực để đẩy nhanh
tiến độ thực hiện các dự án điện được giao đúng tiến độ, nhất là đối với các dự
án trọng điểm, cấp bách. EVN và các Bộ, cơ quan liên quan cần tập trung, phối hợp
chặt chẽ thực hiện:
- EVN đẩy nhanh tiến độ thực hiện 10
dự án nguồn điện đang triển khai hiện nay, gồm các nhà máy nhiệt điện Quảng Trạch
1, Quảng Trạch 2, Dung Quất 1, Dung Quất 3, Ô Môn 3, Ô Môn 4; các dự án nhà máy
thủy điện Hòa Bình mở rộng, Yaly mở rộng, Trị An mở rộng; dự án thủy điện tích
năng Bác Ái, đặc biệt là các dự án trong chuỗi dự án khí - điện Lô B và Cá Voi
Xanh.
- Bộ Công Thương, Ủy ban Quản lý vốn
nhà nước tại doanh nghiệp phải giải quyết nhanh các kiến nghị của EVN và Tập
đoàn Dầu Khí Việt Nam để thúc đẩy, đảm bảo tiến độ các dự án điện, không để
tình trạng trì trệ kéo dài như trường hợp các dự án nhà máy nhiệt điện Long Phú
1, Thái Bình 2 v.v... Yêu cầu các cấp, các ngành liên quan thường xuyên giao
ban, đôn đốc kiểm tra tiến độ để giải quyết khó khăn, vướng mắc, thúc đẩy tiến
độ các dự án.
- Đẩy nhanh tiến độ đầu tư lưới điện
truyền tải đồng bộ để giải tỏa công suất các nhà máy điện BOT Hải Dương, Nghi
Sơn 2, Vân Phong 1, các nhà máy điện năng lượng tái tạo, đặc biệt là các khu vực
có bức xạ mặt trời cao như tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận.
- Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với
các Bộ, ngành liên quan khẩn trương hoàn thiện Cơ chế đặc thù áp dụng đối với
các dự án điện cấp bách; báo cáo Thủ tướng Chính phủ trong
tháng 01 năm 2020 để xem xét, ban hành tạo điều kiện triển khai nhanh các dự án
cấp bách, góp phần đảm bảo cung ứng điện trong giai đoạn tới.
- Các dự án nguồn điện đầu tư theo
hình thức Hợp đồng BOT có quy mô lớn trong giai đoạn tới và giữ vai trò quan trọng
trong cung ứng điện giai đoạn tới. Yêu cầu Bộ Công Thương đôn đốc tiến độ các dự
án BOT đã ký Hợp đồng và đang thực hiện đầu tư xây dựng, đẩy nhanh tiến độ đàm
phán Hợp đồng BOT và GGU đối với các dự án đã có chủ trương.
- Các địa phương liên quan như Nghệ
An, Thanh Hóa, Khánh Hòa, Sơn La, Yên Bái, Phú Thọ v.v...,
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tạo điều kiện, giải quyết nhanh các thủ tục, vướng mắc về bồi thường giải phóng mặt bằng, chuyển
mục đích sử dụng đất rừng để thực hiện các dự án lưới điện truyền tải, không để
chậm trễ, ách tắc việc này; kịp thời báo cáo Thủ tướng Chính phủ những vướng mắc
và những vấn đề vượt thẩm quyền.
3. Đẩy mạnh thực hiện cơ cấu, sắp xếp
lại Tập đoàn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả, năng lực cạnh tranh để phát triển bền
vững, hướng tới mục tiêu tự cường trong bối cảnh hội nhập
quốc tế sâu rộng. Tiếp tục tiết kiệm chi phí sản xuất, đầu tư xây dựng các dự
án bảo đảm hiệu quả; đẩy mạnh công tác nghiên cứu, ứng dụng và phát triển khoa
học công nghệ để phát triển tốt hơn.
4. Đẩy mạnh hoạt động tiết kiệm điện,
phải đưa tiết kiệm điện thành phong trào sâu rộng, có sức lôi cuối mọi tầng lớp
nhân dân hưởng ứng thực hiện. Giao Bộ Công Thương chủ trì,
phối hợp cùng các Bộ, cơ quan liên quan và EVN xây dựng Chỉ thị của Thủ tướng
Chính phủ về tiết kiệm điện, báo cáo Thủ tướng Chính phủ
ban hành trong tháng 02 năm 2020 để triển khai mạnh mẽ ngay từ đầu năm 2020 và
các năm tiếp theo.
5. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành
chính, phục vụ tốt nhất người dân, nâng cao hiệu quả phòng, chống tham nhũng,
chống lợi ích nhóm, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Tiếp tục nghiên cứu,
thực hiện các biện pháp để thực hiện tốt hơn nữa chỉ số tiết kiệm điện năng, phấn
đấu nhóm đầu các nước ASEAN và hướng tới mục tiêu các nước OECD.
6. Tiếp tục thực hiện các biện pháp bảo
vệ môi trường trong phát triển điện lực và sử dụng điện. EVN phải gương mẫu
trong thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường đối với các nhà máy nhiệt điện
than để tạo sự đồng thuận của nhân dân, khai thác hiệu quả các nhà máy điện
than gắn với bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương có
nhà máy. Bộ Công Thương có trách nhiệm rà soát, nghiên cứu, cân nhắc kỹ quy mô
phát triển nhiệt điện than trong quá
trình lập, hoàn thiện Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021 -
2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Quy hoạch điện VIII).
7. Xây dựng Đảng bộ, Chi bộ vững mạnh;
chú trọng đến công tác cán bộ, tuyển chọn người tài, người có năng lực trong bộ
máy để phát triển bền vững, mạnh mẽ Tập đoàn và ngành Điện
Việt Nam.
Văn phòng Chính phủ thông báo để Tập
đoàn Điện lực Việt Nam, các Bộ, ngành, cơ quan, địa phương liên quan biết, triển
khai thực hiện./.
Nơi nhận:
- Thủ tướng, các Phó Thủ
tướng;
- Các Bộ: CT, KHĐT, TC, XD, TNMT, NNPTNT;
- UBND các tỉnh, TP trực thuộc Trung ương;
- UBQL vốn nhà nước tại doanh nghiệp;
- Các Tập đoàn: EVN, PVN, TKV;
- VPCP: BTCN, các PCN, Trợ lý TTg, TGĐ Cổng
TTĐT, các Vụ: TKBT, TH, KTTH,
NN, ĐMDN;
- Lưu: VT, CN (2) nvq.
|
KT.
BỘ TRƯỞNG, CHỦ NHIỆM
PHÓ CHỦ NHIỆM
Nguyễn Cao Lục
|