|
Bản dịch này thuộc quyền sở hữu của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Mọi hành vi sao chép, đăng tải lại mà không có sự đồng ý của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT là vi phạm pháp luật về Sở hữu trí tuệ.
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT has the copyright on this translation. Copying or reposting it without the consent of
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT is a violation against the Law on Intellectual Property.
X
CÁC NỘI DUNG ĐƯỢC SỬA ĐỔI, HƯỚNG DẪN
Các nội dung của VB này được VB khác thay đổi, hướng dẫn sẽ được làm nổi bật bằng
các màu sắc:
: Sửa đổi, thay thế,
hủy bỏ
Click vào phần bôi vàng để xem chi tiết.
|
|
|
Đang tải văn bản...
Số hiệu:
|
51-HĐBT
|
|
Loại văn bản:
|
Quyết định
|
Nơi ban hành:
|
Hội đồng Bộ trưởng
|
|
Người ký:
|
Tố Hữu
|
Ngày ban hành:
|
22/03/1984
|
|
Ngày hiệu lực:
|
Đã biết
|
Ngày công báo:
|
Đã biết
|
|
Số công báo:
|
Đã biết
|
|
Tình trạng:
|
Đã biết
|
HỘI
ĐỒNG BỘ TRƯỞNG
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
51-HĐBT
|
Hà
Nội, ngày 22 tháng 3 năm 1984
|
QUYẾT ĐỊNH
CỦA HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG SỐ 51-HĐBT NGÀY 22-3-1984 VỀ SẮP XẾP
LẠI SẢN XUẤT, CẢI TẠO VÀ XÂY DỰNG MỘT SỐ NGÀNH CÔNG NGHIỆP THỰC PHẨM.
Thực hiện Nghị quyết của Hội nghị
Trung ương Đảng lần thứ V (khoá V) về phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch kinh tế -
xã hội năm 1984 và mức phấn đấu năm 1985, Nghị quyết của Bộ Chính trị số 14
ngày 13-9-1983 và Nghị quyết của Hội đồng bộ trưởng số 127-HĐBT ngày 1-10-1983
về kế hoạch tổ chức thực hiện nghị quyết của Bộ Chính trị về tình hình và nhiệm
vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư doanh, Thường vụ Hội
đồng bộ trưởng, sau khi nghe đồng chí Bộ trưởng Bộ Công nghiệp thực phẩm báo
cáo các phương án về sắp xếp lại sản xuất, cải tạo và xây dựng một số ngành mía
đường, dầu thực vật, thuốc lá, chè và rau, quả hộp, quyết định.
I. VỀ CHƯƠNG
TRÌNH PHÁT TRIỂN ĐẾN NĂM 1985 VÀ 1990
A. NGÀNH MÍA
ĐƯỜNG
1. Mục tiêu phấn đấu đến năm
1985 phải đạt từ 40 đến 50 vạn tấn đường mật, trong đó có 10 vạn tấn đường
kính; năm 1990 đạt 80 vạn đến một triệu tấn đường mật, trong đó có 20 vạn tấn
đường kính.
Bộ công nghiệp thực phẩm cùng Bộ
Nông nghiệp, Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước và các tỉnh xây dựng quy hoạch và kế hoạch
phát triển mạnh sản xuất mía đường ở miền Nam, mở rộng sản xuất ở miền Bắc đến
năm 1985, năm 1990. Cùng với việc xây dựng các vùng tập trung chuyên canh cung ứng
nguyên liệu cho các nhà máy đường lớn, cần chú trọng phát triển rộng rãi sản xuất
mía trên địa bàn huyện với quy mô diện tích từ 300 héc ta đến 500 hécta để đáp ứng
tại chỗ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân.
Củng cố và phát triển sản xuất
mía trong khu vực nông trường, đồng thời rất coi trọng phát triển sản xuất mía
trong khu vực hợp tác xã để tạo nguồn cung ứng nguyên liệu chủ yếu cho các nhà
máy chế biến đường. Việc mở rộng diện tích mía chủ yếu phải hướng vào đất đồi,
bãi không được thu hẹp diện tích đất trồng lúa.
Trước mắt, cần quy hoạch cụ thể
vùng sản xuất và thu mua mía cho các nhà máy đường hiện có và một số nhà máy lớn
mới xây dựng sắp đưa vào sản xuất nhằm sử dụng hết công suất thiết bị.
2. Bộ Công nghiệp thực phẩm cùng
Bộ Cơ khí và luyện kim và các tỉnh có lực lượng cơ khí mạnh tổ chức sự hiệp tác
và phân công chế tạo các loại thiết bị chế biến với quy mô vừa và nhỏ để trang
bị cho tỉnh, huyện và cơ sở.
Cần chế tạo ngay các loại thiết
bị quy mô vừa và nhỏ trang bị cho huyện để sớm thay thế các lò đường thủ công của
tư nhân, tránh lãng phí lớn về mía và không bảo đảm tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm.
Cơ sở chế biến quy mô từ 300 đến
500 tấn mía/ngày trở nên phải có dây chuyền thiết bị luyện đường kính để sử dụng
hợp lý năng lực sản xuất, năng lượng và bớt vận chuyển đường thô đến các nhà
máy lớn tinh luyện.
Gắn liền với sản xuất đường, các
cơ sở sản xuất có quy mô từ 300 tấn mía/ ngày trở lên cần có thiết bị sử dụng tổng
hợp các nguyên liệu phụ của mía để sản xuất cồn, rượu các loại, bột giấy hoặc
giấy.
3. Việc xây dựng các nhà máy đường
có công suất lớn từ 1000 tấn mía/ngày trở lên phải chú trọng tính toán đồng bộ
các khâu quy hoạch vùng nguyên liệu, giao thông vận tải, thuỷ lợi, điện lực, đội
ngũ cán bộ quản lý.
4. Về phân công, phân cấp quản
lý sản xuất, xí nghiệp có quy mô 1000 tấn mía/ngày trở lên do Bộ Công nghiệp thực
phẩm quản lý, xí nghiệp có quy mô dưới 1000 tấn mía/ngày trở xuống do tỉnh quản
lý, và xí nghiệp có quy mô 100 tấn mía/ngày trở xuống do huyện quản lý. Phải đặc
biệt chú trọng liên kết việc sản xuất, thu mua nguyên liệu với chế biến ở cơ sở
sản xuất. Bộ Công nghiệp thực phẩm cần phối hợp chặt chẽ với Uỷ ban nhân dân
các địa phương để tổ chức sản xuất, thu mua và quản lý, nghiên cứu chính sách cụ
thể nhằm điều hoà hợp lý các quan hệ kinh tế trong việc liên kết sản xuất nông
nghiệp với công nghiệp trong việc phân công, phân cấp quản lý giữa trung ương
và địa phương, để trình Hội đồng Bộ trưởng quyết định.
5. Các xí nghiệp sản xuất đường
quốc doanh, công tư hợp doanh phải giao nộp đẩy đủ sản phẩm cho Nhà nước. Đối với
đường, mật sản xuất trong khu vực hợp tác xã, ngành thương nghiệp cần tổ chức
thu mua (theo hợp đồng kinh tế hai chiều) và đưa về các nhà máy lớn luyện đường
kính. Việc phân phối đường cho tiêu dùng trong nước do ngành nội thương đảm nhiệm.
Việc xuất khẩu đường do các tổ chức được Hội đồng bộ trưởng phân công thực hiện,
dưới sự hướng dẫn và quản lý của Bộ Ngoại thương.
6. Cần xây dựng kế hoạch đẩy mạnh
xuất khẩu đường để tạo điều kiện tái sản xuất mở rộng, phát triển nhanh ngành
mía đường và tự cung một phần vật tư kỹ thuật, nhiên liệu.
B. NGÀNH DẦU
THỰC VẬT VÀ TINH DẦU
1. Mục tiêu phấn đấu đến năm
1985 phải đạt 3 vạn tấn dầu, trong đó dành cho xuất khẩu 1 vạn tấn. Đến năm
1990 đạt 6 vạn tấn dầu, trong đó dành cho xuất khẩu 3 vạn tấn.
2. Bộ Công nghiệp thực phẩm cùng
Bộ Nông nghiệp, Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước và các tỉnh xây dựng quy hoạch và kế
hoạch phát triển ngành dầu thực vật ở phía Nam, vùng Tây Nguyên, miền Trung và
miền núi phía Bắc. Chú trọng quy hoạch các vùng sản xuất tập trung chuyên canh
cho một số loại cây có giá trị kinh tế lớn như trẩu, dừa, thầu dầu, cọ dầu, lạc,
đỗ tương, điều...
3. Phát triển sản xuất các cây
có dầu chủ yếu phải dựa vào khu vực kinh tế tập thể và gia đình nông dân; các
nông trường quốc doanh sản xuất cây có dầu có nhiệm vụ chủ yếu tạo giống có
năng suất, chất lượng cao và hướng dẫn kỹ thuật cho hợp tác xã và nhân dân trồng
trọt, chăm sóc, thu hái.
4. Tại các vùng sản xuất nguyên
liệu, cần xây dựng cơ sở sản xuất dầu thô hoặc cơm dừa, chế biến xơ dừa. Việc
tinh luyện dừa do các cơ sở của trung ương phụ trách, để bảo đảm tiêu chuẩn chất
lượng sản phẩm.
5. Nghiên cứu sản xuất các loại
tinh dầu phục vụ việc chế biến thực phẩm và sản xuất các mặt hàng mỹ phẩm (xà
phòng thơm, nước hoa, sáp môi...) 6. Hợp tác với các nước đã trồng nhiều dừa, cọ
dầu... có năng suất chất lượng cao nhằm học tập kinh nghiệm và kỹ thuật để ứng
dụng vào sản xuất trong nước.
C. NGÀNH THUỐC
LÁ
1. Mục tiêu phấn đấu đến năm
1985 đạt 1,4 tỷ bao thuốc lá, trong đó xuất khẩu 1 tỷ bao. Năm 1990 đạt từ 4 đến
5 tỷ bao, trong đó xuất khẩu từ 3 đến 4 tỷ bao và từ 1 đến 2 vạn tấn thuốc lá
lá.
2. Bộ Công nghiệp thực phẩm cùng
Bộ Nông nghiệp, Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước và các tỉnh xây dựng quy hoạch và kế
hoạch phát triển mạnh ngành thuốc lá. Bộ Công nghiệp thực phẩm quản lý thống nhất
việc thu mua thuốc lá ở các vùng tập trung chuyên canh. Chú trọng hướng dẫn các
hợp tác xã về kỹ thuật sấy thuốc lá. Nhà nước cần phấn đấu quản lý hoàn toàn
khâu giống, bỏ loại giống lai tạp, chất lượng xấu, năng suất kém.
3. Cải tạo và mở rộng các nhà
máy thuốc lá hiện có, xây dựng mới một số nhà máy thuốc lá có công suất lớn. Thực
hiện Nhà nước thống nhất quản lý sản xuất và kinh doanh thuốc lá, cấm tư nhân sản
xuất, kinh doanh thuốc lá chế biến. Ngoài những vùng do trung ương tổ chức sản
xuất và chế biến theo quy hoạch kế hoạch, địa phương nào muốn tổ chức chế biến
thuốc lá thì phải được Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng cho phép.
4. Nhập thiết bị để xây dựng nhà
máy sản xuất giấy cuốn thuốc lá, giấy đầu lọc để chủ động trong việc sản xuất
thuốc lá điếu. Trước mắt, nghiên cứu sản xuất giấy cuốn thuốc lá điếu tiêu thụ
trong nước. Bộ Công nghiệp thực phẩm cùng Bộ Công nghiệp nhẹ nghiên cứu sản xuất
giấy làm bao bì. Tiến tới tự giải quyết thiết bị sơ chế, phụ tùng thay thế và
phụ liệu cho sản xuất thuốc lá.
5. Hợp tác với Bun-ga-ri, Cu-ba
về kỹ thuật trồng và sơ chế thuốc lá. Hợp tác kinh tế - kỹ thuật với các nước
khác để có thuốc lá chế biến phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng nước
ngoài (về khẩu vị và bao bì...).
D. NGÀNH CHÈ
1. Mục tiêu phấn đấu đến năm
1985 đạt 3,5 vạn tấn chè khô, trong đó dành cho xuất khẩu 1,8 vạn tấn. Đến năm
1990 đạt 7 vạn tấn chè khô, trong đó dành cho xuất khẩu 4,5 vạn tấn.
2. Bộ Công nghiệp thực phẩm cùng
Bộ Nông nghiệp, Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước xây dựng quy hoạch và kế hoạch phát
triển rộng rãi, trồng chè ở cả 3 miền Bắc, Trung, Nam, hướng chủ yếu phát triển
sản xuất chè là khu vực hợp tác xã. Cần phấn đấu có sản lượng chè, bình quân đầu
người 2 kg/năm, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân và tạo mặt hàng chủ lực
xuất khẩu.
Hợp tác với Liên Xô để xây dựng
các vùng tập trung, chuyên canh kết hợp với cơ sở chế biến hiện đại để có sản
phẩm đạt chất lượng cao xuất khẩu.
3. Tổ chức chế tạo thiết bị chế
biến chè với quy mô sản xuất vừa và nhỏ để trang bị cho các địa phương.
4. Vùng chè chuyên canh lớn phần
nhiều tập trung ở miền núi và trung du; những nơi có điều kiện, cần phát triển
mạnh thuỷ điện quy mô vừa nhỏ để giải quyết khó khăn về năng lượng (điện).
E. NGÀNH RAU
QUẢ CHẾ BIẾN, ĐỒ HỘP VÀ ĐÔNG LẠNH
1. Mục tiêu phấn đấu đến năm
1985 phải đạt 40.000 tấn đồ hộp, đông lạnh và các loại rau quả chế biến khác; đến
năm 1990 phải đạt 66.000 tấn.
Bộ Nông nghiệp, Bộ Công nghiệp
thực phẩm, Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước, Bộ Ngoại thương và các tỉnh xây dựng quy
hoạch, kế hoạch phát triển mạnh các loại rau, quả thích hợp với đất đai, khí hậu
từng vùng nhằm bảo đảm cung ứng nguyên liệu chế biến và xuất tươi theo chỉ tiêu
kế hoạch Nhà nước.
Để đạt mục tiêu trên, cần khẩn
trương đầu tư cải tạo giống, thâm canh tăng năng suất cây ăn quả ở các nông trường
quốc doanh, và mở rộng sản xuất theo quy hoạch định hình đối với từng nông trường.
Đồng thời phát triển mạnh các loại rau quả trong khu vực kinh tế tập thể và vườn
cây ăn quả của gia đình nông dân.
Trước mắt, cần khẩn trương tăng
cường đầu tư thâm canh, mở rộng diện tích, cung cấp đủ nguyên liệu cho các nhà
máy hiện có và đang xây dựng.
2. Có kế hoạch tích cực thực hiện
chương trình hợp tác với Liên Xô về rau, quả nhằm nhanh chóng mở rộng 4 nhà máy
chế biến rau quả, xây dựng xưởng cơ khí ngành rau quả hộp, xưởng tráng véc-ni,
xưởng các-tông bao bì, 4 xưởng sấy rau quả và hai cụm công - nông nghiệp trồng
và chế biến rau, quả với diện tích 10.000 hécta, theo chương trình hợp tác đã
ký với Liên Xô.
3. Đối với những vùng tập trung
chuyên canh được quy hoạch cho các cơ sở chế biến rau quả, Bộ Công nghiệp thực
phẩm có trách nhiệm tổ chức liên kết sản xuất công - nông nghiệp từ cơ sở và trực
tiếp quản lý từ khâu đầu tư phát triển cây trồng, đến sản phẩm cuối cùng và
tiêu thụ theo quy định của Nhà nước.
II - CẢI TẠO
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
A - NGÀNH MÍA
ĐƯỜNG
1. Cải tạo các lò đường tư nhân.
Tại các vùng sản xuất nguyên liệu
đã được quy hoạch, phục vụ nhà máy chế biến quốc doanh trung ương và địa
phương, các lò đường thủ công, nửa cơ giới của tư nhân, hoặc tổ hợp phải chuyển
sang vùng khác, theo quy hoạch sắp xếp của địa phương. Cần tiến hành cải tạo xã
hội chủ nghĩa các lò đường tư nhân theo các hình thức sau đây:
Cơ sở sản xuất nửa cơ giới có
công suất 10 tấn mía/ngày trở lên được Uỷ ban nhân dân tỉnh hoặc huyện mua lại
hoặc trưng mua trên cơ sở trị giá thiết bị, máy móc còn lại và tổ chức thành xí
nghiệp quốc doanh hoặc công tư hợp doanh do tỉnh hoặc huyện quản lý.
Các chủ lò đường có khả năng kỹ
thuật, có kinh nghiệm quản lý, có thái độ tiếp thu cải tạo tốt, được sử dụng
làm trong các cơ sở quốc doanh hoặc công tư hợp doanh để phát huy khả năng của
họ.
Các cơ sở sản xuất mà thiết bị
đã quá cũ (giá trị sử dụng còn lại dưới 30 - 40%) hiệu suất thu hồi đường mật
quá thấp, thì không cho tiếp tục sản xuất.
Việc trả dần tiền mua thiết bị,
máy móc cho chủ lò được thực thực hiện như sau:
- Đối với cơ sở mua lại hoặc
trưng mua để cơ sở quốc doanh sử dụng, thì trả tiền cho chủ qua Ngân hàng Nhà
nước, Ngân hàng nhà nước có trách nhiệm quản lý số tiền này theo chính sách của
Nhà nước đã quy định.
- Đối với xí nghiệp công tư hợp
doanh thì áp dụng chính sách định lãi (mức lãi hàng năm là 8% trên số vốn của
chủ lò đưa vào công tư hợp doanh).
- Các cơ sở sản xuất nửa cơ giới
hoặc ép thủ công có công suất từ 5 đến 10 tấn mía/ngày thì giao cho hợp tác xã
nông nghiệp hoặc tập đoàn sản xuất nông nghiệp quản lý. Đường thô hoặc mật làm
ra, ngoài phần để lại cho gia đình xã viên tiêu dùng với mức hợp lý, hợp tác xã
hoặc tập đoàn sản xuất bán số sản phẩm còn lại cho công ty chuyên doanh đường mật
hoặc tổ chức thương nghiệp quốc doanh địa phương. Sản phẩm bán ra phải nộp thuế
hàng hoá cho Nhà nước.
Căn cứ vào các định mức kinh tế
kỹ thuật về thu hồi đường mật trên một tấn mía, công ty mía đường hoặc công ty
thương nghiệp huyện bán dầu chạy máy và vật tư cần thiết cho sản xuất theo giá
của Nhà nước quy định.
Nơi nào chưa tổ chức hợp tác xã
hoặc tập đoàn sản xuất nông nghiệp và vùng mía không nằm trong vùng quy hoạch
cho các nhà máy đường quốc doanh thì Uỷ ban nhân dân huyện đứng ra tổ chức các
lò đường của tư nhân thành hợp tác xã thủ công nghiệp và cho được mua nguyên liệu
trong vùng mía quy định. Toàn bộ sản phẩm phải bán cho Nhà nước.
- Các cơ sở sản xuất đường đặc sản
(đường phèn, đường phổi), tuỳ tình hình cụ thể của địa phương, có thể thành lập
hợp tác xã thủ công nghiệp hoặc để gia đình làm, nếu xét thấy tổ chức vào hợp
tác chưa có lợi. Cơ sở đó phải đăng ký kinh doanh, đăng ký tiêu chuẩn chất lượng
sản phẩm, giá cả, nộp thuế, bán sản phẩm cho công ty chuyên doanh mía đường hoặc
cho thương nghiệp quốc doanh. Cơ quan quản lý sản xuất ở địa phương có nhiệm vụ
cung ứng nguyên liệu cho các cơ sở chế biến này.
- Các cối kết tinh, ly tâm đường
của tư nhân cũng cần được sắp xếp lại hợp lý và cải tạo đồng thời với việc cải
tạo các lò đường tư nhân. Tuỳ theo chủ cơ sở là tư sản hay tiểu chủ mà áp dụng
các chính sách Nhà nước đã quy định, có sự phân biệt rõ ràng, mua lại hoặc
trưng mua để chuyển thành cơ sở quốc doanh, công tư hợp doanh, hay tổ chức tiểu
chủ lại thành hợp tác xã làm gia công cho Nhà nước.
2. Cải tạo những người buôn bán
mía đường.
Trên cơ sở đẩy mạnh sản xuất
phát triển và tập trung sản phẩm đường vào tay Nhà nước, cần xoá bỏ kinh doanh
của các chủ vựa đường, mật (tư sản thương nghiệp), chuyển họ sang sản xuất; có
chính sách sử dụng vốn liếng, các phương tiện kinh doanh và nghiệp vụ của họ.
Đối với tiểu thương buôn bán đường,
mật, cần tổ chức, sắp xếp, lựa chọn sử dụng một bộ phận vào làm trong mạng lưới
thương nghiệp xã hội chủ nghĩa, chuyển những người thừa trong lĩnh vực lưu
thông sang sản xuất, chế biến.
Đối với lái mía, thì chuyển họ
sang sản xuất nông nghiệp nếu họ có ruộng vườn, hoặc chuyển sang sản xuất tiểu,
thủ công nghiệp, chế biến các mặt hàng nông sản của địa phương. Có thể lựa chọn
sử dụng một số người tiến bộ và có nghiệp vụ vào tổ chức thu mua của xí nghiệp
quốc doanh hoặc công tư hợp doanh, nhưng phải quản lý họ một cách chặt chẽ.
Tăng cường quản lý vận tải và vật
tư chủ yếu của ngành mía đường... không để thẩm lậu ra ngoài trở thành món hàng
đầu cơ, mua đi bán lại trên thị trường tự do.
B. NGÀNH DẦU
THỰC VẬT
1. Cải tạo các cơ sở tư nhân chế
biến dầu thực vật.
Đi đôi với việc củng cố và phát
triển lực lượng quốc doanh chế biến dầu, cần tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa
đối với các cơ sở tư nhân chế biến dầu theo các hình thức và chính sách như
sau:
a. Các cơ sở nhỏ, công suất trên
dưới 1 tấn sản phẩm/ngày được tổ chức thành các hợp tác xã tiểu, thủ công nghiệp,
làm gia công cho Nhà nước hoặc được phép đi thu mua nguyên liệu ở những vùng sản
xuất phân tán về sản xuất và bán toàn bộ sản phẩm cho Nhà nước.
b. Các cơ sở có công suất trên
dưới 2 tấn sản phẩm/ngày trở lên thì tuỳ theo đối tượng Nhà nước mua lại hoặc
trưng mua để tổ chức thành quốc doanh hoặc công tư hợp doanh.
Cơ sở có công suất 500 tấn sản
phẩm/năm do huyện, quận quản lý, cơ sở trên 500 tấn sản phẩm/năm trở lên do tỉnh,
thành phố quản lý.
c. ở những vùng tập trung nhiều
cơ sở ép dầu nhỏ có thể tổ chức lại thành xí nghiệp công tư hợp doanh hay hợp
tác xã ngành ép dầu và do cơ quan quản lý sản xuất cây có dầu ở địa phương quản
lý.
d. ở thành phố Hồ Chí Minh các
cơ sở ép dầu thiết bị còn tương đối tốt, Nhà nước cần căn cứ vào tình hình cụ thể
của từng cơ sở để chuyển thành quốc doanh hoặc công tư hợp doanh và có thể bổ
sung thêm thiết bị để nâng cao khả năng sản xuất và nâng cao hiệu suất thu hồi
dầu.
Các cơ sở ép dầu lâu nay vẫn dựa
vào nguyên liệu của các địa phương khác, thì tuỳ từng đối tượng cụ thể Nhà nước
mua lại hoặc trưng mua thiết bị và giao cho các địa phương quản lý theo quy hoạch,
người chủ của các cơ sở ấy có thể được sử dụng vào việc tổ chức thu mua, cung ứng
nguyên liệu hoặc chuyển họ vào các cơ sở công nghiệp khác.
e. Các cơ sở sản xuất xà phòng
tư nhân cũng cần được tổ chức thành các xí nghiệp công tư hợp doanh hoặc quốc
doanh. Không cho phép tư nhân và hợp tác xã sản xuất xà phòng đánh răng và xà
phòng thơm, để bảo đảm tốt tiêu chuẩn vệ sinh cho người tiêu dùng.
g. Đối với các cơ sở sản xuất
các mặt hàng mỹ phẩm truyền thống được tiếp tục sản xuất, phải đăng ký kinh
doanh, nhận hợp đồng gia công cho cơ quan kinh tế của Nhà nước, hoặc hợp đồng
mua nguyên liệu, bán sản phẩm cho Nhà nước.
2. Cải tạo những người buôn bán
nguyên liệu dầu thực vật và dầu ăn.
a. Về thu mua dừa, cơm dừa.
Tập trung việc thu mua vào cơ
quan chuyên doanh dừa của tỉnh, huyện; xoá bỏ tình trạng nhiều ngành; nhiều tổ
chức tranh nhau thu mua, đẩy giá lên cao. ở những nơi có sản lượng dừa lớn, có
thể phân vùng cho liên hiệp các xí nghiệp dầu thực vật trực tiếp tổ chức thu
mua nguyên liệu theo phương thức hợp đồng kinh tế hai chiều với hợp tác xã, tập
đoàn sản xuất và hộ nông dân cá thể.
b. Đối với thương lái (tư sản)
chuyên mua các nguyên liệu ép dầu thì không được tiếp tục kinh doanh. Cần sử dụng
vốn, phương tiện kinh doanh và khả năng nghiệp vụ của họ vào việc thu mua cho
Nhà nước. Đối với tiểu thương, thì tổ chức sắp xếp, sử dụng họ vào mạng lưới
thu mua cho Nhà nước (dưới hình thức uỷ thác thu mua) hay chuyển sang các
ngành, nghề sản xuất hoặc dịch vụ.
Thương nghiệp xã hội chủ nghĩa tổ
chức mạng lưới bán lẻ dầu ăn cho nhân dân và một số nhu cầu cần thiết như các
nhà tu hành, những người có bệnh không ăn được mỡ động vật.
c. Đối với những người buôn bán
nhỏ các loại dầu ăn, thương nghiệp xã hội chủ nghĩa sử dụng một số làm đại lý
bán lẻ, chuyển số người còn lại sang các ngành sản xuất chế biến hoặc dịch vụ;
C. NGÀNH THUỐC
LÁ
1. Nhà nước thống nhất quản lý sản
xuất và thu mua toàn bộ thuốc lá nguyên liệu, kể cả trong và ngoài vùng quy hoạch.
Các nông trường quốc doanh được
giao nhiệm vụ trồng thuốc lá có nghĩa vụ giao nộp toàn bộ sản phẩm cho các nhà
máy trung ương (sau khi đã sơ chế).
Các hợp tác xã và tập đoàn sản
xuất nông nghiệp trồng thuốc lá phải bán toàn bộ sản phẩm cho Nhà nước theo hợp
đồng kinh tế hai chiều và nộp thuế nông nghiệp bằng hiện vật.
Những hộ nông dân trồng thuốc lá
được phép để lại một phần sản phẩm để tiêu dùng (mức để lại do chủ tịch Uỷ ban
nhân dân tỉnh, thành phố quy định, sau khi thống nhất với Bộ Công nghiệp thực
phẩm), phần còn lại phải bán toàn bộ cho Nhà nước.
2. Việc phân phối thuốc lá do
thương nghiệp quốc doanh đảm nhiệm. Thuốc lá bao là loại sản phẩm không dự trữ
được lâu, các xí nghiệp sản xuất thuốc lá được phép giao thẳng cho thương nghiệp
cấp II theo chỉ tiêu kế hoạch phân phối của Bộ Nội thương. Ngành thương nghiệp
cần chấn chỉnh hệ thống kinh doanh bán lẻ thuốc lá để phục vụ thuận tiện cho
người tiêu dùng. 3. Nghiêm cấm mọi cá nhân và tổ chức buôn bán lậu, thuốc lá và
phụ liệu giấy cuốn, đầu lọc, hương liệu... để sản xuất và kinh doanh thuốc lá.
4. Việc xuất khẩu thuốc lá được
thống nhất vào cơ quan chuyên doanh của Nhà nước. Cấm nhập khẩu và buôn bán lậu
các loại thuốc lá của nước ngoài.
III. TĂNG CƯỜNG
LÃNH ĐẠO, CHỈ ĐẠO TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Trên cơ sở quy hoạch các vùng
tập trung chuyên canh đối với mỗi cây công nghiệp thực phẩm và vận dụng tốt
phương châm thuốc lá và nhân dân cùng làm, trung ương và địa phương cùng làm Bộ
Công nghiệp thực phẩm cần nghiên cứu, kiến nghị các chính sách về:
- Đầu tư ban đầu cho khai hoang,
trồng mới các vùng tập trung chuyên canh (vốn, giống, lương thực, lao động,
phân bón, xăng dầu, thuỷ lợi, giao thông, điện).
- Thâm canh tăng năng suất, mở rộng
diện tích và thu mua sản phẩm hàng năm theo chủ trương, chính sách và kế hoạch
Nhà nước (giá cả, bảo đảm hàng đối lưu về lương thực, vật tư nông nghiệp, hàng
tiêu dùng thiết yếu... thưởng cho địa phương và người trồng cây công nghiệp
giao nộp sản phẩm vượt kế hoạch...).
Các hình thức tổ chức liên kết
và cơ chế giải quyết các mối quan hệ kinh tế giữa xí nghiệp quốc doanh với nông
dân tập thể.
2. Về tổ chức, cần thành lập các
Liên hiệp xí nghiệp công - nông nghiệp quản lý từ trồng trọt đến khâu chế biến
ra sản phẩm cuối cùng và giao nộp sản phẩm theo chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước.
- Các liên hiệp xí nghiệp có khối
lượng sản phẩm xuất khẩu lớn cần tổ chức các công ty xuất nhập khẩu chuyên lo
việc sản xuất các mặt hàng phù hợp với thị hiếu thị trường thế giới, tham gia
các hội chợ triển lãm quốc tế để giới thiệu mặt hàng và tiếp cận với thị trường
và nghiên cứu kỹ thuật sản xuất tiên tiến, tìm nguồn nhập khẩu nguyên liệu, vật
tư, thiết bị chuyên dùng cho ngành sản xuất của mình.
- Ở Bộ có tổng công ty xuất nhập
khẩu bao gồm các thành viên là công ty xuất nhập khẩu của các liên hiệp xí nghiệp,
có trách nhiệm quản lý chung việc xuất nhập khẩu của toàn ngành công nghiệp thực
phẩm.
- Ở các tỉnh có sản lượng lớn về
các cây công nghiệp nói trên, có thể tổ chức hoặc liên hiệp xí nghiệp hoặc công
ty chuyên doanh (mía, đường, dầu thực vật, chè) trực thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh.
- Để đi sâu vào khoa học - kỹ
thuật chuyên ngành, ở mỗi liên hiệp xí nghiệp lớn cần tổ chức một số cơ sở
nghiên cứu, thí nghiệm với nhiệm vụ tạo giống cây trồng có năng suất, chất lượng
cao, hướng dẫn kỹ thuật trồng, chăm sóc, thu hái cho nông trường, hợp tác xã,
và cải tiến công nghệ, thiết bị, chế biến tạo ra nhiều mặt hàng mới, có giá trị
dinh dưỡng và kinh tế cao, nghiên cứu các nguyên vật liệu thay thế hàng nhập khẩu,
v v...
Phấn đấu để mỗi ngành sản xuất tự
trang trải được các nhu cầu cơ bản cho sản xuất, và có phần đóng góp ngày càng
cao vào ngân sách Nhà nước. Nếu phải nhập nguyên liệu, vật tư thì chủ yếu là để
tạo điều kiện vật chất đẩy mạnh xuất khẩu với hiệu quả lớn hơn.
- Để nâng cao hiệu quả kinh tế của
sản xuất và tăng cường quản lý kỹ thuật theo hướng trên đây, cần sắp xếp lại một
số cơ sở sản xuất từ sản phẩm nông nghiệp, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp
thực phẩm, và kinh doanh của ngoại thương cho hợp lý theo nguyên tắc quản lý chuyên
ngành kinh tế kỹ thuật.
3. Về tổ chức chỉ đạo thực hiện.
Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành
phố, đặc khu có trách nhiệm chỉ đạo toàn diện công tác cải tạo và xây dựng các
ngành công thương nghiệp gắn với cải tạo và phát triển nông nghiệp và công nghiệp
thực phẩm ở địa phương.
Sau khi tiến hành điều tra cơ bản
cần phân loại các hộ tư sản, tiểu chủ, tiểu thương, trên cơ sở đó lập phương án
cải tạo cụ thể đối với từng loại đối tượng trong từng ngành.
Cần hết sức coi trọng kết hợp cải
tạo với sắp xếp lại sản xuất, nhằm phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh
tế. Tập trung lực lượng tiến hành trước các vùng có quy mô sản xuất lớn và tập
trung. Cần tiến hành gọn đối với từng ngành.
Bộ Công nghiệp thực phẩm chịu
trách nhiệm xây dựng những tiêu chuẩn hợp lý về phẩm chất sản phẩm, định mức
kinh tế kỹ thuật và hướng dẫn các địa phương tổ chức quản lý sản xuất và kinh
doanh.
Các liên hiệp xí nghiệp, xí nghiệp
liên hợp được phân công phụ trách từng khu vực có trách nhiệm cùng với địa
phương tiến hành điều tra cơ bản tình hình và xây dựng phương án tiến hành cải
tạo xã hội chủ nghĩa đối với các cơ sở tư nhân sản xuất kinh doanh mía đường, dầu
thực vật, thuốc lá.
Các Bộ Công nghiệp thực phẩm, Cơ
khí và luyện kim, Nội thương, Ngoại thương, Nông nghiệp, Lương thực, Nội vụ,
Tài chính, Ngân hàng nhà nước, Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước, Uỷ ban Vật giá Nhà nước
và Uỷ ban nhân dân các tỉnh và thành phố chịu trách nhiệm thi hành quyết định
này.
Quyết định 51-HĐBT năm 1984 về sắp xếp lại sản xuất, cải tạo và xây dựng một số ngành công nghiệp thực phẩm do Hội đồng Bộ trưởng ban hành
Văn bản này chưa cập nhật nội dung Tiếng Anh
Quyết định 51-HĐBT ngày 22/03/1984 về sắp xếp lại sản xuất, cải tạo và xây dựng một số ngành công nghiệp thực phẩm do Hội đồng Bộ trưởng ban hành
4.206
|
NỘI DUNG SỬA ĐỔI, HƯỚNG DẪN
Văn bản bị thay thế
Văn bản thay thế
Chú thích
Chú thích:
Rà chuột vào nội dụng văn bản để sử dụng.
<Nội dung> = Nội dung hai
văn bản đều có;
<Nội dung> =
Nội dung văn bản cũ có, văn bản mới không có;
<Nội dung> = Nội dung văn
bản cũ không có, văn bản mới có;
<Nội dung> = Nội dung được sửa đổi, bổ
sung.
Click trái để xem cụ thể từng nội dung cần so sánh
và cố định bảng so sánh.
Click phải để xem những nội dung sửa đổi, bổ sung.
Double click để xem tất cả nội dung không có thay
thế tương ứng.
Tắt so sánh [X] để
trở về trạng thái rà chuột ban đầu.
FILE ĐƯỢC ĐÍNH KÈM THEO VĂN BẢN
FILE ATTACHED TO DOCUMENT
|
|
|
Địa chỉ:
|
17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q.3, TP.HCM
|
Điện thoại:
|
(028) 3930 3279 (06 lines)
|
E-mail:
|
inf[email protected]
|
Mã số thuế:
|
0315459414
|
|
|
TP. HCM, ngày 31/05/2021
Thưa Quý khách,
Đúng 14 tháng trước, ngày 31/3/2020, THƯ VIỆN PHÁP LUẬT đã bật Thông báo này, và nay 31/5/2021 xin bật lại.
Hơn 1 năm qua, dù nhiều khó khăn, chúng ta cũng đã đánh thắng Covid 19 trong 3 trận đầu. Trận 4 này, với chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, chắc chắn chúng ta lại thắng.
Là sản phẩm online, nên 250 nhân sự chúng tôi vừa làm việc tại trụ sở, vừa làm việc từ xa qua Internet ngay từ đầu tháng 5/2021.
Sứ mệnh của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT là:
sử dụng công nghệ cao để tổ chức lại hệ thống văn bản pháp luật,
và kết nối cộng đồng Dân Luật Việt Nam,
nhằm:
Giúp công chúng “…loại rủi ro pháp lý, nắm cơ hội làm giàu…”,
và cùng công chúng xây dựng, thụ hưởng một xã hội pháp quyền trong tương lai gần;
Chúng tôi cam kết dịch vụ sẽ được cung ứng bình thường trong mọi tình huống.
THÔNG BÁO
về Lưu trữ, Sử dụng Thông tin Khách hàng
Kính gửi: Quý Thành viên,
Nghị định 13/2023/NĐ-CP về Bảo vệ dữ liệu cá nhân (hiệu lực từ ngày 01/07/2023) yêu cầu xác nhận sự đồng ý của thành viên khi thu thập, lưu trữ, sử dụng thông tin mà quý khách đã cung cấp trong quá trình đăng ký, sử dụng sản phẩm, dịch vụ của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT.
Quý Thành viên xác nhận giúp THƯ VIỆN PHÁP LUẬT được tiếp tục lưu trữ, sử dụng những thông tin mà Quý Thành viên đã, đang và sẽ cung cấp khi tiếp tục sử dụng dịch vụ.
Thực hiện Nghị định 13/2023/NĐ-CP, chúng tôi cập nhật Quy chế và Thỏa thuận Bảo về Dữ liệu cá nhân bên dưới.
Trân trọng cảm ơn Quý Thành viên.
Tôi đã đọc và đồng ý Quy chế và Thỏa thuận Bảo vệ Dữ liệu cá nhân
Tiếp tục sử dụng

Cảm ơn đã dùng ThuVienPhapLuat.vn
- Bạn vừa bị Đăng xuất khỏi Tài khoản .
-
Hiện tại có đủ người dùng cùng lúc,
nên khi người thứ vào thì bạn bị Đăng xuất.
- Có phải do Tài khoản của bạn bị lộ mật khẩu
nên nhiều người khác vào dùng?
- Hỗ trợ: (028) 3930.3279 _ 0906.229966
- Xin lỗi Quý khách vì sự bất tiện này!
Tài khoản hiện đã đủ người
dùng cùng thời điểm.
Quý khách Đăng nhập vào thì sẽ
có 1 người khác bị Đăng xuất.
Tài khoản của Quý Khách đẵ đăng nhập quá nhiều lần trên nhiều thiết bị khác nhau, Quý Khách có thể vào đây để xem chi tiết lịch sử đăng nhập
Có thể tài khoản của bạn đã bị rò rỉ mật khẩu và mất bảo mật, xin vui lòng đổi mật khẩu tại đây để tiếp tục sử dụng
|
|