HỘI
ĐỒNG BỘ TRƯỞNG
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
195-HĐBT
|
Hà
Nội, ngày 02 tháng 12 năm 1989
|
QUYẾT ĐỊNH
VỀ VIỆC BAN HÀNH NHỮNG QUY ĐỊNH BỔ SUNG QUYẾT ĐỊNH SỐ
217-HĐBT NGÀY 14-11-1987 CỦA HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG
HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG
Căn cứ Nghị quyết 3-NQ/HNTƯ của
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 3 (khoá VI);
Xét tình hình từ khi ban hành đến nay, Quyết định số 217-HĐBT ngày 14-11-1987 của
Hội đồng Bộ trưởng đã cụ thể hoá tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần
thứ 3 (khoá VI) để đưa vào hoạt động của các Xí nghiệp quốc doanh; đánh dấu một
bước ngoặt quan trọng chuyển hoạt động của các đơn vị cơ sở quốc doanh từ cơ chế
quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế hạch toán kinh doanh xã hội chủ
nghĩa; góp phần tháo gỡ những khó khăn, thực sự trao quyền tự chủ trong sản xuất,
kinh doanh cho các xí nghiệp, thúc đẩy sản xuất phát triển;
Xét việc sau khi ban hành Quyết định số 217-HĐBT, Hội đồng Nhà nước, Hội đồng Bộ
trưởng đã tiếp tục ban hành các văn bản pháp quy có tính pháp lý cao hơn về từng
lĩnh vực của cơ chế quản lý, trong đó đã điều chỉnh một số nội dung trong Quyết
định số 217-HĐBT như:
- Pháp lệnh về kế toán, thống kê
công bố theo Lệnh của Chủ tịch Hội đồng Nhà nước số 6-LCT/HĐNN8 ngày 20-5-1988.
- Pháp lệnh về hợp đồng kinh tế
công bố theo Lệnh của Chủ tịch Hội đồng Nhà nước số 24-LCT/HĐNN8 ngày
29-9-1989.
- Nghị định số 50-HĐBT của Hội đồng
Bộ trưởng ban hành Điều lệ xí nghiệp công nghiệp quốc doanh ngày 22-3-1988.
- Nghị định số 98-HĐBT của Hội đồng
Bộ trưởng ban hành quy định về quyền làm chủ của tập thể công nhân viên chức tại
các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh ngày 2-6-1988.
- Nghị định số 64-HĐBT của Hội đồng
Bộ trưởng ban hành quy định về chế độ và tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh
xuất nhập khẩu ngày 10-6-1989.
- Quyết định số 93-HĐBT của Hội
đồng Bộ trưởng về việc sửa đổi chế độ nộp khấu hao cơ bản của các xí nghiệp quốc
doanh ngày 24-7-1989.
- Quyết định số 38-HĐBT của Hội
đồng Bộ trưởng về việc liên kết kinh tế trong sản xuất, lưu thông, dịch vụ ngày
10-4-1989.
Để tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản
lý sản xuất, kinh doanh đối với các xí nghiệp quốc doanh,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1.
Nay bổ sung và sửa đổi Quyết định số 217-HĐBT ngày
14-11-1987 như sau:
1. Bổ sung vào đầu điểm 2 của điều
2 câu:
"Trên cơ sở kiểm kê, đánh
giá lại toàn bộ tài sản hiện có ở xí nghiệp theo giá trị sử dụng còn lại và
theo giá hiện hành, cơ quan Nhà nước cấp trên trực tiếp làm thủ tục giao quyền
quản lý và sử dụng số tài sản đó cho xí nghiệp...".
2. Điều 8, phần II "Vật tư
kỹ thuật" được thay bằng điều 8 mới sau đây:
"Từ nay bỏ chế độ cấp phát
vật tư, giao nộp sản phẩm; thực hiện chế độ mua vật tư, bán sản phẩm theo hợp đồng
kinh tế.
Về vật tư để sản xuất sản phẩm
thuộc kế hoạch pháp lệnh hoặc đơn hàng Nhà nước, các xí nghiệp có quyền mua đủ
số lượng, chủng loại và đúng chất lượng thông qua hợp đồng kinh tế với các đơn
vị cung ứng; các đơn vị cung ứng vật tư có trách nhiệm thực hiện tốt hợp đồng
ký kết với các xí nghiệp.
Xí nghiệp được quyền tự tổ chức
khai thác hoặc thông qua liên doanh, liên kết với các cơ sở sản xuất, kinh
doanh vật tư để huy động mọi nguồn vật tư tiềm tàng vào sản xuất trên cơ sở giá
thoả thuận và hợp đồng kinh tế.
Nghiêm cấm mọi hành động đầu cơ
trục lợi vật tư. Các tổ chức không có đăng ký kinh doanh không được quyền mua
bán vật tư".
3. Điều 20, phần thứ IV
"Tài chính - kế toán" được thay bằng điều 20 mới như sau:
"Cơ quan tài chính và cơ quan
quản lý Nhà nước cấp trên trực tiếp quy định tỷ lệ khấu hao, thời hạn khấu hao
đối với các loại tài sản cố định do Nhà nước cấp vốn đầu tư. Đối với tài sản cố
định thuộc nguồn vốn tự có của mình, xí nghiệp được tự xác định tỷ lệ khấu hao
và sử dụng số tiền trích khấu hao đó để đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất.
Sau khi hoàn thành nghĩa vụ
trích nộp khấu hao cơ bản hoặc thuế vốn vào Ngân sách Nhà nước, xí nghiệp gửi
tiền trích khấu hao cơ bản của số tài sản do Nhà nước cấp vốn vào Ngân hàng đầu
tư xây dựng cơ bản và được hưởng lãi xuất theo quy định, khi có nhu cầu mua sắm
lại máy móc, thiết bị, nhà xưởng... theo luận chứng kinh tế - kỹ thuật, được cơ
quan quản lý Nhà nước cấp trên trực tiếp xét duyệt, thì xí nghiệp được sử dụng
quỹ khấu hao cơ bản của mình để thực hiện.
Toàn bộ tiền trích khấu hao sửa
chữa lớn được để lại xí nghiệp".
4. Bổ sung thêm vào đầu điều 24,
phần IV "Tài chính - kế toán" câu:
"Xí nghiệp phải thực hiện
các khoản nộp ngân sách trước khi trích lập các quỹ của mình. Xoá bỏ chế độ
"trừ lùi thu quốc doanh và khấu hao cơ bản khi sản phẩm bán ra không đủ bù
đắp chi phí hợp lý hoặc giảm bớt tỷ lệ khấu hao cơ bản so với mức quy định của
Nhà nước..."
5. Điều 50, phần VII "Lao động,
tiền lương và xã hội" được thay đổi bằng điều 50 mới như sau:
"Mọi người lao động được
thu nhập theo kết quả lao động của mình.
Xí nghiệp căn cứ tháng lương, bảng
lương và chế độ phụ cấp do Nhà nước quy định để tính đơn giá tiền lương sản phẩm
theo các định mức kinh tế - kỹ thuật đã được xác định hợp lý và chặt chẽ. Đơn
giá đó được điều chỉnh theo tình hình giá cả biến động từng thời kỳ. Quỹ lương
của xí nghiệp hình thành tuỳ thuộc vào khối lượng sản phẩm hàng hoá (dịch vụ)
thực hiện và đơn giá tiền lương được duyệt.
Xí nghiệp được chủ động lựa chọn
hình thức và chế độ trả lương, trả thưởng phù hợp với điều kiện sản xuất, kinh
doanh của xí nghiệp và quán triệt nguyên tắc phân phối theo lao động; được xếp
lương, nâng bậc lương cho công nhân, viên chức theo chế độ chính sách tiền
lương của Nhà nước.
Thu nhập của người lao động
trong xí nghiệp theo hiệu quả sản xuất, kinh doanh của xí nghiệp và năng suất
lao động của từng người lao động. Nhịp độ tăng trưởng của quỹ tiền lương phải
luôn luôn thấp hơn nhịp độ tăng trưởng của năng suất lao động. Nhà nước có
chính sách điều tiết thích hợp đối với các xí nghiệp có thu nhập thực tế quá
cao so với điều kiện chung.
Bộ Lao động - Thương binh và xã
hội cùng Bộ Tài chính và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam nghiên cứu xác định mức
thu nhập hợp lý trong từng ngành nghề và xác định tỷ lệ điều tiết mức thu nhập
hợp lý trên cơ sở thực hiện tốt chế độ thanh tra và kiểm tra Nhà nước về chi
tiêu quỹ tiền lương và mức thu nhập của người lao động ở các xí nghiệp, để sớm
trình Hội đồng Bộ trưởng xem xét, quyết định".
Điều 2.
Bộ trưởng các Bộ, Chủ nhiệm các Uỷ ban Nhà nước, Thủ
trưởng các cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các
tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Quyết
định này.