HỘI
ĐỒNG BỘ TRƯỞNG
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
146-HĐBT
|
Hà
Nội, ngày 25 tháng 8 năm 1982
|
QUYẾT ĐỊNH
CỦA HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG SỐ 146-HĐBT NGÀY 25 THÁNG 8 NĂM 1982 VỀ
VIỆC SỬA ĐỔI VÀ BỔ SUNG QUYẾT ĐỊNH SỐ 25-CP NGÀY 21-1-1981 CỦA HỘI ĐỒNG CHÍNH
PHỦ
Quyết định số 25-CP được ban
hành hơn một năm qua đã mang lại nhiều kết quả tích cực; phát huy một bước tính
chủ động sáng tạo của xí nghiệp trong việc khai thác tiềm năng lao động thiết bị,
vật tư để làm thêm sản phẩm , duy trì và thúc đẩy được sản xuất công nghiệp
trong điều kiện nền kinh tế còn nhiều mất cân đối, góp phần ổn định đời sống
người lao động và ổn định đội ngũ công nhân, bảo đảm và tăng thu cho ngân sách
Nhà nước. Ở một số ngành và địa phương , do nhận thức rõ tinh thần cơ bản và
tích cực thực hiện Quyết định số 25-CP nên đã tạo ra những chuyển biến mạnh
trong sản xuất công nghiệp. Tuy nhiên bên cạnh các kết quả tích cực là chủ yếu,
trong quá trình thực hiện cũng bộc lộ nhiều thiếu sót, lệch lạc.
Căn cứ vào những điều kiện sản
xuất và sinh hoạt (giá cả, tiền lương, các chế độ trợ cấp, phụ cấp, v.v...) đã
có những thay đổi.
Để phát huy tốt hơn nữa tác dụng
tích cực của quyết định số 25-CP và uốn nắn những lệch lạc đã phát sinh trong
việc thi hành nhằm:
1. Cải tiến công tác kế hoạch
hoá phù hợp với điều kiện thực tế hiện nay, phát huy đầy đủ tính chủ động, sáng
tạo của xí nghiệp, để thúc đẩy mạnh mẽ sản xuất và tập trung được nguồn hàng
vào tay Nhà nước.
2. Chấn chỉnh việc mua vật tư,
nguyên liệu và việc tiêu thụ sản phẩm, cũng như công tác hạch toán và giá cả của
xí nghiệp, khắc phục tình trạng sản xuất, kinh doanh theo cơ chế thị trường
không có tổ chức.
3. Phân phối lợi nhuận bảo đảm
nguồn thu tài chính của Nhà nước, đồng thời khuyến khích thoả đáng xí nghiệp và
người lao động giảm bớt sự chênh lệch quá đáng về thu nhập giữa các xí nghiệp
và các ngành.
Hội đồng Bộ trưởng quyết định:
1) Xác định
lại phương hướng và nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh của xí nghiệp công nghiệp quốc
doanh cho sát với điều kiện cụ thể hiện nay.
Trên cơ sở khả năng cân đối hiện
thực về năng lượng vật tư, nguyên liệu, phụ tùng, Uỷ ban kế hoạch Nhà nước cùng
với các Bộ, Tổng cục, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố, các liên hiệp xí
nghiệp tiến hành việc sắp xếp lại sản xuất, phân loại xí nghiệp, xác định đúng
đắn nhiệm vụ và chỉ tiêu kế hoạch sản xuất của các đơn vị cơ sở cho phù hợp với
điều kiện hiện tại.
a) Các xí nghiệp có vị trí quan trọng
trong nền kinh tế quốc dân được Nhà nước ưu tiên bảo đảm cung cấp đủ những
phương tiện và vật tư, nguyên liệu chủ yếu để sản xuất được ổn định.
b) Các xí nghiệp không được Nhà
nước cung ứng đủ vật tư chủ yếu thì được quyền chủ động tìm thêm vật tư, nguyên
liệu từ các nguồn khác nhau, kể cả vay ngoại tệ của Ngân hàng Nhà nước để nhập
nguyên liệu, phụ tùng.
c) Các xí
nghiệp không có khả năng tiếp tục hoạt động hoặc hoạt động không có hiệu quả
kinh tế thì cho phép được chuyển hướng sản xuất hoặc tạm ngừng sản xuất.
Việc chuyển hướng sản xuất hoặc
tạm ngừng sản xuất của từng xí nghiệp do Bộ trưởng Bộ chủ quản (nếu là xí nghiệp
quốc doanh trung ương) hoặc do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố (nếu là
xí nghiệp quốc doanh địa phương) xem xét và quyết định.
Trường hợp cần tạm ngừng sản xuất,
Bộ trưởng Bộ chủ quản hoặc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố phải có những
biện pháp để bảo quản tốt nhà xưởng, thiết bị, tìm cách giải quyết việc làm cho
công nhân, duy trì đội ngũ công nhân và cán bộ kỹ thuật chủ chốt.
2. Công tác
kế hoạch của xí nghiệp.
Ngoài lượng vật tư chủ yếu do
Nhà nước cung ứng, các xí nghiệp đều được chủ động tìm kiếm thêm vật tư từ các
nguồn khác nhau (vật tư ứ đọng của các xí nghiệp quốc doanh, vật tư là nông,
lâm, hải sản của các đơn vị quốc doanh, đơn vị tập thể và những người sản xuất
cá thể đã hoàn thành nghĩa vụ giao nộp cho Nhà nước còn thừa, vật tư do địa
phương và xí nghiệp được phép nhập khẩu) để xây dựng kế hoạch sản xuất. Đồng thời
xí nghiệp phải tận dụng khả năng hiện có để tổ chức sản xuất sản phẩm phụ như
lâu nay vẫn làm.
Như vậy, tuỳ điều kiện cụ thể về
khả năng của Nhà nước trong việc cân đối và cung ứng vật tư chủ yếu cho xí nghiệp,
kế hoạch của xí nghiệp có thể có phần do Nhà nước giao được cân đối vật tư chủ
yếu và phần do xí nghiệp chủ động tự tìm kiếm vật tư để sản xuất.
a) Trường hợp
xí nghiệp được Nhà nước cung ứng đủ vật tư chủ yếu, xí nghiệp phải xây dựng
và thực hiện kế hoạch theo đúng chế độ hiện hành.
Vật tư chủ yếu Nhà nước giao cho
xí nghiệp là những vật tư do các tổ chức cung ứng vật tư của Nhà nước, các xí
nghiệp quốc doanh, hợp tác xã, nông trường, lâm trường... cung ứng cho xí nghiệp
theo chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước và theo giá chỉ đạo của Nhà nước.
b) Trường hợp
không được Nhà nước cung ứng đủ vật tư chủ yếu thì ngoài phần chỉ tiêu kế
hoạch Nhà nước giao, xí nghiệp được xây dựng thêm phần kế hoạch bổ sung trên cơ
sở tự tìm kiếm vật tư để sản xuất ra những sản phẩm chính hoặc sản phẩm do
khách hàng gia công đặt hàng hoặc mở rộng thêm các công việc có tính chất công
nghiệp.
Nếu mua thêm vật tư chủ yếu ở
trong nước, xí nghiệp phải chấp hành đúng các chế độ quản lý vật tư và quản lý
giá cả của Nhà nước, cụ thể là:
Những vật tư còn thừa chưa dùng
đến, xí nghiệp được nhượng lại cho nhau trên tinh thần hợp tác tương trợ thì được
tính theo giá bán buôn vật tư của Nhà nước cộng với chi phí bảo quản và vận tải
hợp lý do hai bên thoả thuận.
Những vật tư kỹ thuật được cơ
quan chủ quản của đơn vị có vật tư chấp nhận là thuộc diện thanh lý, thì xí
nghiệp được mua theo giá chỉ đạo đối với vật tư thanh lý theo những nguyên tắc
do Bộ Tài chính cùng Uỷ ban Vật giá Nhà nước và Bộ Vật tư quy định.
Những nguyên liệu thiết yếu là
nông, lâm, hải sản thuộc diện vật tư Nhà nước thống nhất quản lý, xí nghiệp phải
mua theo khung giá chỉ đạo của Nhà nước do cơ quan được phân cấp quản lý giá
quy định, và được áp dụng cho từng vùng và từng thời gian.
Những nguyên liệu không thuộc diện
Nhà nước thống nhất quản lý, xí nghiệp được mua theo giá thoả thuận.
Nghiêm cấm xí nghiệp mua trên thị
trường tự do những vật tư do Nhà nước độc quyền phân phối. Xí nghiệp phải góp
phần phát hiện và kiến nghị biện pháp xử lý những hiện tượng mua, bán trái phép
vật tư của Nhà nước.
Đối với những vật tư không phải
của Nhà nước, xí nghiệp có thể mua trên thị trường tự do nhưng phải chấp hành
đúng các quy định và hướng dẫn của Ủy ban nhân dân tỉnh và thành phố sở tại.
Nếu cần vay ngoại tệ để nhập vật
tư, phụ tùng cho sản xuất, xí nghiệp phải lập phương án sản xuất kinh doanh cụ
thể, kể cả việc tiêu thụ, xuất khẩu và thanh toán ngoại tệ trình Bộ trưởng Bộ
chủ quản hoặc Chủ tịch uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố duyệt và giao chỉ tiêu kế
hoạch pháp lệnh.
Trong việc vay và sử dụng ngoại
tệ, xí nghiệp phải theo các chế độ của Nhà nước về quản lý ngoại tệ, về tín dụng
Ngân hàng và xuất nhập khẩu; xí nghiệp phải bảo đảm sản xuất và kinh doanh có
lãi bằng ngoại tệ, thanh toán được số ngoại tệ đã vay (cả gốc lẫn lãi) và nộp
tích luỹ bằng ngoại tệ cho Nhà nước. Trường hợp bị lỗ, Bộ trưởng Bộ chủ quản hoặc
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh và thành phố phải chịu trách nhiệm trước chủ tịch
Hội đồng Bộ trưởng và phải tìm biện pháp điều tiết trong nội bộ của ngành hoặc
địa phương để hoàn lại số ngoại tệ đã vay, kể cả lãi cho Ngân hàng.
c) Sản xuất
phụ của xí nghiệp.
Sản xuất phụ
là bộ phận sản xuất do xí nghiệp tổ chức làm thêm trên cơ sở tận dụng phế liệu,
phế phẩm của sản xuất chính và những nguyên liệu, vật liệu phụ do xí nghiệp mua
thêm. Sản xuất phụ làm ra những sản phẩm không nằm trong diện mặt hàng sản xuất
chính của xí nghiệp. Xí nghiệp không được tổ chức sản xuất phụ bằng cách giữ lại
số phế liệu, phế phẩm mà Nhà nước đã có kế hoạch điều cho các cơ sở sản xuất
khác. Xí nghiệp muốn tổ chức sản xuất phụ phải đăng ký mặt hàng và giá thành,
giá bán sản phẩm với cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp của xí nghiệp.
Kế hoạch (bao gồm cả sản xuất
chính và sản xuất phụ) của xí nghiệp phải gắn với kế hoạch mua vật tư, kế hoạch
tiêu thụ sản phẩm và kế hoạch tài vụ và do cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp của
xí nghiệp duyệt.
Trong quá trình thực hiện, nếu cần
bổ sung thêm kế hoạch, xí nghiệp phải báo cáo để cơ quan quản lý cấp trên duyệt
tiếp; nếu việc bổ sung kế hoạch không đòi hỏi cấp thêm vật tư hoặc vốn đầu tư
xây dựng cơ bản mới thì xí nghiệp có thể vừa báo cáo, vừa tổ chức sản xuất.
Khi kiểm tra thực hiện kế hoạch
của xí nghiệp, phải xem xét đầy đủ các quyết toán chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước
giao được cung ứng đủ vật tư chủ yếu, và các chỉ tiêu kế hoạch do xí nghiệp xây
dựng thêm, xem xét việc thi hành đúng đắn các chính sách và chế độ của Nhà nước
về quản lý vật tư, tài chính, ngoại tệ, tiền mặt, thị trường, giá cả.
3. Tiêu thụ
sản phẩm.
Về nguyên tắc,
toàn bộ sản phẩm do xí nghiệp làm ra đều phải bán cho các cơ quan thương nghiệp
quốc doanh và các đơn vị kinh tế của Nhà nước theo kế hoạch phân phối sản phẩm
đã được cơ quan giao kế hoạch sản xuất duyệt. Các cơ quan nói trên có trách nhiệm
ký và thực hiện đầy đủ hợp đồng tiêu thụ sản phẩm cho xí nghiệp theo chế độ hợp
đồng kinh tế hiện hành. Trọng tài kinh tế Nhà nước sẽ hướng dẫn cụ thể việc ký
kết và thực hiện hợp đồng.
Đối với hàng tiêu dùng thuộc sản
phẩm phụ mà các tổ chức thương nghiệp quốc doanh không nhận tiêu thụ thì xí
nghiệp được tự tổ chức tiêu thụ theo giá đã đăng ký và được duyệt, nhưng phải nộp
thuế cho Nhà nước theo sự hướng dẫn của Bộ Tài chính.
Nếu cần một phần sản phẩm của phần
tự lo vật tư và của phần sản xuất phụ để đổi lấy vật tư tiếp tục sản xuất, xí
nghiệp phải lập dự trù trước để cơ quan cấp trên trực tiếp duyệt cùng với kế hoạch
sản xuất. Trường hợp cần trao đổi đột xuất không định trước trong kế hoạch, xí
nghiệp cũng phải báo cáo ngay cho cơ quan quản lý cấp trên xét duyệt.
Xí nghiệp không được giữ lại sản
phẩm để phân phối nội bộ theo giá thành sản xuất; chỉ được mua lại một số sản phẩm
phụ theo giá bán buôn công nghiệp để bán thưởng cho cán bộ, công nhân, viên chức
trong xí nghiệp sử dụng; Bộ trưởng Bộ chủ quản và Chủ tịch uỷ ban nhân dân tỉnh
và thành phố quy định tỷ lệ và mức cụ thể đối với từng sản phẩm phụ mà xí nghiệp
trực thuộc được mua lại để bán thưởng; tránh tình trạng quá chênh lệch về tỷ lệ
và mức bán thưởng cho công nhân, viên chức giữa các xí nghiệp trong cùng ngành
và trên cùng một địa phương.
4. Hạch toán
giá thành, giá bán buôn xí nghiệp và giá bán buôn công nghiệp.
a) Hạch
toán giá thành.
- Đối với sản
phẩm làm bằng vật tư chủ yếu do Nhà nước cung ứng, xí nghiệp phải tiến hành hạch
toán kinh tế và tính toán giá thành theo đúng chế độ hiện hành.
- Đối với sản
phẩm làm bằng vật tư tự tìm kiếm mà giá mua cao hoặc thấp hơn giá Nhà nước cung
ứng thì xí nghiệp phải hạch toán riêng.
Xí nghiệp phải lập chứng từ, sổ
sách, ghi chép chính xác những số liệu ban đầu cần thiết để có cơ sở tính toán,
bảo đảm các yêu cầu quản lý tài vụ của Nhà nước.
b) Giá bán
buôn xí nghiệp giá bán buôn xí nghiệp của sản phẩm làm bằng vật tư Nhà nước
cung ứng tính theo chế độ hiện hành.
- Giá bán
buôn xí nghiệp của sản phẩm làm bằng vật tư do xí nghiệp tự tìm kiếm được tính
bằng giá thành thực tế, hợp lý, cộng với định mức lợi nhuận tính theo số tuyệt
đối đã quy định cho sản phẩm cùng loại được sản xuất bằng vật tư do Nhà nước
cung ứng.
c) Giá bán
buôn công nghiệp của sản phẩm làm bằng vật tư chủ yếu do Nhà nước cung ứng
và của sản phẩm làm bằng vật tư chủ yếu do xí nghiệp tự tìm kiếm được tính bằng
nhau. Trường hợp do giá mua vật tư cao hơn (phần vật tư xí nghiệp tự lo) mà giá
thành và giá bán buôn xí nghiệp tăng lên thì xí nghiệp vẫn tiêu thụ sản phẩm
theo giá bán buôn công nghiệp đã quy định và được cơ quan thu quốc doanh giảm bớt
mức nộp tương ứng với mức tăng giá mua vật tư. Nếu giá bán buôn xí nghiệp tăng
lên đến mức Nhà nước không còn thu quốc doanh, xí nghiệp phải báo cáo ngay để
cơ quan quản lý cấp trên xem xét và giải quyết.
Đối với những sản phẩm không thuộc
diện thiết yếu, nếu giá bán buôn xí nghiệp cao hơn giá bán buôn công nghiệp ,
nhưng trên thực tế xã hội vẫn có nhu cầu và xét thấy thương nghiệp quốc doanh
có thể tiêu thụ được với giá cao hơn thì xí nghiệp được đề nghị các cơ quan có
thẩm quyền điều chỉnh giá bán buôn xí nghiệp và giá bán buôn công nghiệp để tiếp
tục sản xuất.
Việc hạch toán của xí nghiệp vay
ngoại tệ để nhập vật tư cho sản xuất được tiến hành theo sự hướng dẫn của Bộ
Tài chính.
Đối với sản phẩm phụ, giá thành, giá bán buôn xí nghiệp và
giá bán buôn công nghiệp vẫn phải được hạch toán rõ ràng.
5. Phân phối
lợi nhuận.
a) Nếu hoàn thành các chỉ
tiêu kế hoạch Nhà nước thuộc phần được cân đối vật tư chủ yếu thì ngoài việc
trích lập quỹ phát triển sản xuất theo chế độ hiện hành, xí nghiệp được trích lợi
nhuận để lập quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi theo tỷ lệ sau đây:
- Xí nghiệp thuộc các ngành công
nghiệp nặng, khai thác gỗ, đánh cá biển, xây dựng, vận tải, được trích lập quỹ
khen thưởng và quỹ phúc lợi (cả hai quỹ công lại) bằng 24% quỹ lương thực hiện
cả năm của phần kế hoạch đó.
- Xí nghiệp thuộc các ngành công
nghiệp nhẹ và công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm được trích lập hai quỹ
bằng 20% quỹ lương thực hiện cả năm của phần kế hoạch đó.
Tỷ lệ phân phối giữa quỹ khen
thưởng và quỹ phúc lợi là 70% cho quỹ khen thưởng và 30% cho quỹ phúc lợi.
b) Nếu hoàn thành vượt mức
các chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước thuộc phần được cân đối vật tư chủ yếu, xí
nghiệp thuộc các ngành công nghiệp nặng, xây dựng, vận tải , khai thác gỗ, đánh
cá biển được hưởng không quá 60% và xí nghiệp thuộc các ngành công nghiệp nhẹ
và công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm được hưởng không quá 50% số lợi
nhuận thực hiện tính theo định mức của phần vượt kế hoạch đó để bổ sung cho các
quỹ theo tỷ lệ:
- 60% cho quỹ khen thưởng
- 20% cho quỹ phúc lợi
- 20% cho quỹ phát triển sản xuất.
Số lợi nhuận còn lại, xí nghiệp
phải nộp vào ngân sách Nhà nước.
c) Nếu có kế hoạch bổ sung
trên cơ sở tự tìm kiếm vật tư thì xí nghiệp thuộc các ngành công nghiệp nặng,
xây dựng, vận tải, khai thác gỗ đánh cá biển được hưởng không quá 60% và xí
nghiệp thuộc các ngành công nghiệp nhẹ và công nghiệp chế biến lương thực, thực
phẩm được hưởng không quá 50% lợi nhuận thực hiện tính theo định mức hiện hành
của phần kế hoạch đó. Xí nghiệp dùng số lợi nhuận này bổ sung các quỹ theo tỷ lệ:
- 60% cho quỹ khen thưởng
- 20% cho quỹ phúc lợi
- 20% cho quỹ phát triển sản xuất.
Số lợi nhuận còn lại, xí nghiệp
phải nộp vào ngân sách Nhà nước.
Xí nghiệp vay ngoại tệ để sản xuất
, sau khi đã trả nợ và lãi vay ngân hàng bằng ngoại tệ, thì xí nghiệp thuộc các
ngành công nghiệp nặng, xây dựng, vận tải, khai thác gỗ, đánh cá biển được hưởng
không quá 60% và xí nghiệp thuộc các ngành công nghiệp nhẹ và công nghiệp chế
biến lương thực, thực phẩm được hưởng không quá 50% lợi nhuận thực hiện tính
theo định mức hiện hành. Xí nghiệp dùng số lợi nhuận này bổ sung các quỹ theo tỷ
lệ:
- 60% cho quỹ khen thưởng
- 20% cho quỹ phúc lợi
- 20% cho quỹ phát triển sản xuất.
Quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi được
lập trên cơ sở tính quy đổi số lợi nhuận bằng ngoại tệ sang tiền Việt Nam theo
tỷ lệ giá hối đoái do Nhà nước quy định. Xí nghiệp không được sử dụng ngoại tệ
vào hai quỹ này.
Số lợi nhuận còn lại xí nghiệp
phải nộp vào ngân sách Nhà nước.
d) Đối với lợi nhuận của phần sản
xuất phụ, xí nghiệp thuộc tất cả các ngành được hưởng không quá 70% để bổ sung
cho các quỹ theo tỷ lệ:
- 60% cho quỹ khen thưởng
- 20% cho quỹ phúc lợi
- 20% cho quỹ phát triển sản xuất.
Số lợi nhuận còn lại xí nghiệp
phải nộp vào ngân sách Nhà nước.
6. Mức khống
chế tương đối với quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi.
Nếu quỹ khen thưởng và quỹ phúc
lợi trong cả năm của xí nghiệp được trích từ các nguồn khác nhau (sản xuất
chính, sản xuất phụ) cộng lại mà mỗi quỹ vượt 6 (sáu) tháng lương thực hiện thì
xí nghiệp phải trích phần vượt để nộp vào ngân sách Nhà nước theo tỷ lệ luỹ tiến
từng phần theo hướng dẫn của Bộ Tài chính.
Đối với các xí nghiệp hoàn thành
nhiệm vụ xuất khẩu thỉ số tiền thưởng không phải tính vào mức trích và mức
không chế tương đối, và được trích bổ sung cho ba quỹ theo tỷ lệ.
- 60% cho quỹ khen thưởng,
- 20% cho quỹ phúc lợi
- 20% cho quỹ phát triển sản xuất.
7. Phạm vi
áp dụng và nhiệm vụ của các cơ quan Nhà nước đối với quyết định này.
a) Quyết định này chỉ áp dụng đối
với các xí nghiệp sản xuất công nghiệp quốc doanh thuộc tất cả các ngành, trừ
các xí nghiệp sản xuất công nghiệp quốc doanh được Hội đồng bộ trưởng cho phép
làm thử về cải tiến quản lý; không áp dụng đối với các đơn vị phân phối lưu
thông, dịch vụ, văn hoá, y tế, giáo dục và các cơ quan hành chính sự nghiệp.
Đối với các xí nghiệp xây dựng
và vận tải, khai thác gỗ, đánh cá biển, Bộ trưởng các Bộ chủ quản cần vận dụng
tinh thần văn bản này để đề ra những quy định phù hợp với điều kiện cụ thể của
ngành và trình thường vụ Hội đồng Bộ trưởng xét duyệt khi ban hành.
b) Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước, Uỷ
ban Vật giá Nhà nước, các Bộ Nội thương, Vật tư, Tài chính, Lao động, Tổng cục
thống kê, Ngân hàng nhà nước, Trọng tài kinh tế Nhà nước có trách nhiệm ban
hành ngay các văn bản sửa đổi, bổ sung những quy định cũ không còn phù hợp để
các xí nghiệp thực hiện Quyết định số 25-CP đúng với tinh thần và nội dung của
Quyết định này.
c) Các Bộ trưởng, thủ trưởng các
ngành ở Trung ương, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh và thành phố trực thuộc
Trung ương có trách nhiệm hướng dẫn và kiểm tra các xí nghiệp thực hiện nghiêm
túc quyết định này.
d) Viện nghiên cứu quản lý kinh
tế chịu trách nhiệm tiếp tục theo dõi việc thực hiện, sơ kết tình hình và kiến
nghị những điểm bổ sung cần thiết.
đ) Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng,
chịu trách nhiệm giúp Hội đồng Bộ trưởng:
- Đôn đốc các cơ quan tổng hợp
ban hành kịp thời và đồng bộ các chế độ, chính sách cụ thể phù hợp với Quyết định
này.
- Theo dõi và báo cáo kịp thời với
Hội đồng Bộ trưởng tình hình thực hiện quyết định này tại các ngành, các cấp.