HỘI
ĐỒNG NHÂN DÂN
TỈNH BẾN TRE
--------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 24/NQ-HĐND
|
Bến Tre, ngày
05 tháng 12 năm 2017
|
NGHỊ QUYẾT
VỀ KẾT QUẢ GIÁM SÁT
VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI TRONG CÁC LOẠI HÌNH DOANH
NGHIỆP
HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH BẾN TRE
KHÓA IX - KỲ HỌP THỨ 6
Căn cứ Luật
tổ
chức chính quyền địa phương ngày 19
tháng 6 năm 2015;
Căn cứ Luật
hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân ngày 20 tháng 11 năm 2015;
Sau khi xem xét Báo cáo số 603/BC-HĐND ngày 05
tháng 10 năm 2017 của Đoàn giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh về kết quả giám sát việc thực hiện chính sách pháp
luật về bảo hiểm xã hội trong các loại hình doanh nghiệp; Tờ trình số 663/TTr-HĐND
ngày 31 tháng 10 năm 2017 của Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh về việc thông
qua Nghị quyết về kết quả giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo
hiểm xã hội trong các loại hình doanh nghiệp; ý kiến
thảo luận của đại biểu Hội đồng
nhân dân tỉnh,
QUYẾT NGHỊ:
Điều 1. Thống nhất
nội dung Báo cáo của Đoàn giám sát Hội đồng nhân dân tỉnh về kết quả giám sát
việc việc thực hiện chính sách pháp luật về bảo hiểm xã hội trong các loại hình
doanh nghiệp với những nội dung như
sau:
1. Kết quả đạt được
Nhìn chung, chính sách pháp luật về
bảo hiểm xã hội được các cơ quan quản lý nhà nước tích cực triển khai thực hiện
trên địa bàn tỉnh. Số người lao động tham gia bảo hiểm xã hội và số tiền thu
bảo hiểm xã hội năm sau luôn cao hơn năm trước. Tính đến cuối tháng 7 năm 2017,
trên địa bàn tỉnh có 1.672 doanh nghiệp, số doanh nghiệp tham gia đóng bảo hiểm
xã hội cho người lao động là 758 doanh nghiệp, tỉ lệ 45,33%. Tính đến hết tháng
6 năm 2017, tổng số thu bảo hiểm xã hội của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh
là 314,538 tỷ đồng. Cơ quan Bảo hiểm xã hội tỉnh và các ngành có liên quan đã
có nhiều nỗ lực trong thực hiện công tác tuyên truyền, thanh tra, kiểm tra, đôn
đốc việc đóng bảo hiểm xã hội của các doanh nghiệp cũng như cải cách thủ tục
hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin để đẩy nhanh việc giải quyết chế độ,
chính sách cho người lao động khi có yêu cầu.
2. Những hạn chế, bất cập
- Tỉ lệ doanh nghiệp tham gia bảo
hiểm xã hội trên địa bàn tỉnh còn thấp, còn 914 doanh nghiệp đủ điều
kiện tham gia bảo hiểm xã hội theo quy định nhưng chưa
tham gia, chiếm tỉ lệ 54,66%. Nhiều doanh nghiệp có tham
gia bảo hiểm xã hội nhưng tham gia không đầy đủ số lao
động hiện có, kết quả là còn nhiều người lao động vẫn chưa
được tham gia và hưởng chính sách bảo hiểm xã hội theo quy
định.
- Tình trạng nợ bảo hiểm xã
hội kéo dài của một số doanh nghiệp đã ảnh
hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của người lao động về
ốm đau, thai sản, hưu trí… nhưng công tác thanh tra, kiểm tra, xử
phạt vẫn còn nhiều khó khăn, bất cập, chỉ có 1/4 doanh nghiệp chấp hành
quyết định xử phạt vi phạm hành chính của Uỷ ban nhân dân tỉnh.
- Việc thực hiện các biện pháp bảo
vệ quyền lợi của người lao động chưa nghiêm, chưa hiệu quả. Việc khởi kiện
ra tòa đối với hành vi chiếm dụng tiền bảo hiểm xã hội của doanh nghiệp được
giao cho tổ chức Công đoàn cơ sở tiến hành khởi kiện theo quy định tại khoản 8
Điều 10 của Luật công đoàn năm 2012 nhưng trên thực tế thực hiện rất khó khăn
do cán bộ Công đoàn ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh không dám đứng ra khởi
kiện chủ doanh nghiệp.
- Công tác tuyên truyền hiệu quả chưa
cao, chưa làm thay đổi được nhận thức của một bộ phận người lao động cũng như
chủ doanh nghiệp.
3. Nguyên nhân của hạn chế, bất
cập:
a) Nguyên nhân khách quan:
- Tình hình sản
xuất kinh doanh của đơn vị gặp nhiều khó khăn, doanh nghiệp làm ăn thua
lỗ, phần lãi chậm nộp bảo hiểm xã hội tăng lên khi thời gian nợ kéo dài dẫn đến
tình trạng nợ chồng nợ.
- Hệ thống pháp luật hiện nay chưa đảm bảo sự công
bằng giữa người thực hiện tốt chính sách pháp luật về bảo hiểm xã hội với những
người không thực hiện. Các doanh nghiệp tham gia bảo hiểm xã hội khi chậm nộp
thì cơ quan Bảo hiểm xã hội đến thanh tra nhắc nhở thu hồi nợ, trong khi các
doanh nghiệp khác không tham gia thì chưa có chế tài xử phạt nghiêm.
- Trên địa bàn tỉnh có nhiều
doanh nghiệp quy mô nhỏ, sử dụng lao động là thành viên trong gia
đình, không ký kết hợp đồng lao động, không tham gia bảo
hiểm xã hội.
- Chức năng thanh tra, kiểm tra được giao cho cơ
quan Bảo hiểm xã hội và ngành Lao động, Thương binh và Xã hội nhưng lực lượng, phương
tiện, công cụ để thực hiện chức năng này còn thiếu, chế tài xử phạt chưa đủ sức
răn đe. Ngoài ra, việc thanh tra, kiểm tra phải tuân thủ quy định tại Chỉ thị
số 20/CT-TTg ngày 17 tháng 5 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc chấn
chỉnh hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với doanh nghiệp.
b) Nguyên nhân chủ quan
- Về phía người lao động, một bộ phận
người lao động phổ thông nhận thức về quyền lợi bảo hiểm chưa thông suốt,
chỉ muốn hưởng nguyên lương, không muốn tham
gia bảo hiểm xã hội. Về phía người sử dụng lao động, nhiều chủ
doanh nghiệp ý thức chấp hành pháp luật và trách nhiệm đối với người lao
động chưa cao, lợi dụng sự thiếu hiểu biết của người lao động để
chiếm dụng tiền bảo hiểm xã hội sử dụng vào mục đích khác.
- Công đoàn trong các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh chưa thể hiện được vai trò đại diện bảo vệ quyền lợi chính
đáng của người lao động do phải lệ thuộc vào chủ doanh nghiệp, có những doanh
nghiệp chưa thành lập được tổ chức Công đoàn.
Điều 2. Trách nhiệm của Ủy ban nhân
dân tỉnh trong việc khắc phục các hạn chế, bất cập
Trên cơ sở kết quả giám sát, Hội đồng
nhân dân tỉnh giao Ủy ban nhân dân tỉnh tập trung thực hiện một số giải pháp
sau:
1. Chỉ đạo các cơ quan chức năng phối
hợp rà soát, thẩm định, phân loại khả năng trả nợ của các doanh nghiệp nợ bảo hiểm
xã hội kéo dài. Đến tháng 6 năm 2018, Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ đạo các cơ quan
chức năng hoàn thành việc thẩm định khả năng trả nợ bảo hiểm xã hội của các
doanh nghiệp này. Trên cơ sở kết quả thẩm định:
a) Đối với các doanh nghiệp không còn
khả năng trả nợ, Ủy ban nhân dân tỉnh có giải pháp khoanh nợ, tập trung giải
quyết chế độ cho người lao động.
b) Đối với doanh nghiệp có khả năng
trả nợ, buộc các doanh nghiệp phải đưa ra lộ trình cam kết trả nợ cụ thể, khả
thi, giao các cơ quan chức năng giám sát chặt chẽ việc thực hiện lộ trình, đảm
bảo đến cuối năm 2018 doanh nghiệp trả được ít nhất 70% tổng số nợ. Nếu doanh
nghiệp vẫn không thực hiện, đề nghị áp dụng quy định tại Điều 23 của Luật Bảo
hiểm Xã hội cho phép thông tin rộng rãi việc vi phạm của doanh nghiệp trên báo,
đài cũng như kiên quyết tiến hành các bước xử lý tiếp theo theo đúng quy định
của pháp luật để bảo vệ quyền lợi của người lao động.
2. Tiếp tục thực hiện tốt hơn công
tác tuyên truyền, về phía người lao động cần nói rõ mục đích, ý nghĩa của chính
sách bảo hiểm xã hội, quyền lợi mà người lao động được hưởng; đồng thời tập
trung vào đối tượng người sử dụng lao động, thực hiện phổ biến, tuyên truyền về
chính sách, pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp
cho chủ doanh nghiệp trước khi thành lập doanh nghiệp.
3. Phối hợp ngành Bảo hiểm xã hội hướng
dẫn cho các doanh nghiệp làm tốt việc chốt sổ, giải quyết chế độ cho những
người lao động đã nghỉ việc hoặc nghỉ hưu ở các doanh nghiệp nợ bảo hiểm xã hội.
Điều 3. Tổ chức thực hiện
1. Ủy ban nhân dân tỉnh tổ chức triển khai việc thực hiện Nghị quyết, báo cáo kết quả thực hiện vào Kỳ họp Hội
đồng nhân dân tỉnh cuối năm 2018.
2. Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh
có trách nhiệm theo dõi các kiến nghị mà Đoàn giám sát của Hội đồng nhân dân
tỉnh đã gửi đến các cơ quan ở Trung ương về các khó khăn, vướng mắc trong thực
hiện chính sách, pháp luật về bảo hiểm xã hội, kịp thời thông tin cho đại biểu
Hội đồng nhân dân tỉnh được biết.
3. Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh, các Ban Hội đồng nhân dân tỉnh và đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh giám sát việc thực hiện Nghị quyết.
Nghị quyết này đã được Hội đồng nhân dân tỉnh, Khóa IX - Kỳ họp thứ 6
thông qua ngày 05 tháng 12 năm 2017 và có hiệu lực thi hành kể
từ ngày được Hội đồng nhân dân tỉnh thông qua./.