HỘI
ĐỒNG CHÍNH PHỦ
*******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
*******
|
Số
: 236-CP
|
Hà
Nội, ngày 10 tháng 12 năm 1970
|
NGHỊ ĐỊNH
BAN HÀNH ĐIỀU LỆ TẠM THỜI PHÂN PHỐI LỢI NHUẬN XÍ NGHIỆP CÔNG
NGHIỆP QUỐC DOANH (*)
Căn cứ Quyết định số 140-CP
ngày 13-9-1968 của Hội đồng Chính phủ về việc thí điểm cải tiến chế độ thu và
chế độ phân phối lợi nhuận xí nghiệp quốc doanh.
Xét sự cần thiết phải cải tiến chế độ phân phối lợi nhuận xí nghiệp công nghiệp
quốc doanh để tăng cường quản lý kinh tế tài chính, nâng cao trình độ hạch toán
kinh tế, tăng tích lũy xã hội chủ nghĩa, làm cho xí nghiệp quan tâm đến kết quả
sản xuất, làm ăn có tính toán, sử dụng vật tư, lao động, tiền vốn có hiệu quả
kinh tế cao.
NGHỊ ĐỊNH:
Điều 1. - Nay ban hành Điều lệ tạm thời phân phối lợi nhuận
xí nghiệp công nghiệp quốc doanh kèm theo nghị định này.
Điều 2. - Điều lệ này được áp dụng kể từ năm 1970 cho những
xí nghiệp thuộc diện thí điểm cải tiến quản lý và từ năm 1971 trở đi hàng năm sẽ
được áp dụng rộng ra cho những xí nghiệp có đủ những điều kiện sau đây:
- Sản xuất
tương đối ổn định và có lãi.
- Có kế hoạch
sản xuất - kỹ thuật - tài chính được duyệt.
- Đã thực hiện
hạch toán kinh tế tương đối tốt, nhất là hạch toán giá thành, có giá bán buôn
xí nghiệp được cơ quan có thẩm quyền quy định.
- Đã thực hiện
nghiêm chỉnh chế độ hợp đồng kinh tế.
Hàng năm, xí
nghiệp nào được xét có đủ điều kiện để áp dụng chế độ phân phối lợi nhuận mới sẽ
do Bộ, Tổng cục chủ quản hoặc Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương quyết định.
Đối với các
xí nghiệp trong các công ty, sẽ tùy theo tính chất hạch toán kinh tế độc lập
hay không mà Bộ Tài chính cùng Bộ chủ quản hướng dẫn thêm.
Điều 3. - Đối với những xí nghiệp được chuyển sang áp dụng
chế độ phân phối lợi nhuận mới, thì các khoản tiền thuộc quỹ xí nghiệp cũ dành
chi cho phát triển sản xuất, phúc lợi tập thể, trợ cấp khó khăn đột xuất, khen
thưởng thi đua, còn lại đến cuối năm, trước khi chuyển sang chế độ phân phối lợi
nhuận mới (cuối năm 1970 đối với những xí nghiệp được xét duyệt cho chuyển từ
năm 1971) sẽ tùy theo mục đích sử dụng mà chuyển nhập vào các loại quỹ tương ứng
theo điều lệ này.
Điều 4. - Ông Bộ trưởng Bộ Tài chính có trách nhiệm bàn bạc
với các Bộ và Tổng cục chủ quản và ra thông tư quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành điều lệ này cho thích hợp với điều kiện sản xuất và kinh doanh của các
ngành.
|
T.M.
HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
KT. THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
PHÓ THỦ TƯỚNG
Lê Thanh Nghị
|
ĐIỀU LỆ TẠM THỜI
VỀ PHÂN PHỐI LỢI NHUẬN XÍ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP QUỐC DOANH
Điều 1. - Chế
độ phân phối lợi nhuận xí nghiệp quốc doanh là một bộ phận của chế độ quản lý
xí nghiệp của Nhà nước nhằm mục đích:
1. Tăng cường quản lý xí nghiệp,
quản lý chặt chẽ lao động, vật tư, kỹ thuật, tiền vốn, thực hành tiết kiệm,
nâng cao trình độ kế hoạch hóa và hạch toán kinh tế, thúc đẩy và tạo điều kiện
cho xí nghiệp chăm lo phát triển sản xuất, phấn đấu hoàn thành và hoàn thành vượt
mức kế hoạch Nhà nước.
2. Tăng tích lũy xã hội chủ nghĩa,
làm cho xí nghiệp quan tâm khai thác mọi năng lực sản xuất của mình, sử dụng
lao động, vật tư, tiền vốn với hiệu quả kinh tế cao, vừa góp phần tăng thu cho
ngân sách Nhà nước, vừa đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất, chăm lo phúc lợi của
cán bộ, công nhân, viên chức trong xí nghiệp.
Điều 2. - Chế
độ phân phối lợi nhuận xí nghiệp công nghiệp quốc doanh xuất phát từ những yêu
cầu cơ bản sau đây về quản lý xí nghiệp:
1. Quán triệt nguyên tắc tập
trung dân chủ, tăng cường sự lãnh đạo tập trung và quản lý thống nhất của Nhà
nước, trên cơ sở ấy, xác lập quyền làm chủ tập thể của xí nghiệp, mở rộng thêm
một bước nghĩa vụ và quyền hạn về kinh tế và tài chính của xí nghiệp.
2. Lấy kế hoạch làm công cụ chủ
yếu để quản lý xí nghiệp trên cơ sở đề cao nghĩa vụ của xí nghiệp bảo đảm hoàn
thành kế hoạch theo các chỉ tiêu pháp lệnh của Nhà nước mà phân phối có kế hoạch
thu nhập do xí nghiệp làm ra.
3. Tăng cường hạch toán kinh tế,
thúc đẩy tiết kiệm và khuyến khích xí nghiệp thường xuyên phấn đấu hạ giá thành
sản phẩm và tăng doanh lợi của xí nghiệp.
4. Kết hợp đúng đắn lợi ích của
Nhà nước với lợi ích xí nghiệp và lợi ích của công nhân viên chức, làm cho công
nhân, viên chức vừa quan tâm đến lợi ích của Nhà nước, vừa quan tâm đến lợi ích
của xí nghiệp và của bản thân mà chăm lo không ngừng phát triển sản xuất cải tiến
kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động, hoàn thành vượt mức kế hoạch Nhà nước.
MỤC I - LỢI
NHUẬN XÍ NGHIỆP
Điều 3. - Lợi
nhuận xí nghiệp gồm có:
- Lợi nhuận thu được do thực hiện
sản phẩm hàng hóa thuộc hoạt động kinh doanh cơ bản của xí nghiệp công nghiệp,
là số chênh lệch giữa giá bán buôn xí nghiệp và giá bán buôn xí nghiệp và giá
thành toàn bộ của sản phẩm hàng hóa.
- Lợi nhuận thu được về các hoạt
động ngoài kinh doanh cơ bản, về việc cung cấp lao vụ cho bên ngoài. Lợi nhuận
này là số chênh lệch giữa thu và chi về các hoạt động kinh doanh nói trên.
- Lợi nhuận do tiêu thụ hàng hóa
sản xuất bằng phế liệu.
- Lợi tức về tiền gửi Ngân hàng
và các lợi nhuận khác.
Điều 4. - Việc
phân phối lợi nhuận xí nghiệp căn cứ vào mức độ hoàn thành kế hoạch lợi nhuận
đã được duyệt của xí nghiệp. Xí nghiệp đạt kế hoạch lợi nhuận cao thì được
trích nhiều, đạt lợi nhuận thấp thì được trích ít, không có lợi nhuận thì không
được trích. Việc phân phối lợi nhuận xí nghiệp nhằm những mục tiêu sau đây:
- Khuyến khích việc phấn đấu đạt
mức doanh lợi cao, bằng cách trích lập cho xí nghiệp 3 quỹ: quỹ khuyến khích
phát triển sản xuất, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi theo tỷ lệ phần trăm (%) của
lợi nhuận thực hiện.
- Khuyến khích việc xây dựng kế
hoạch lợi nhuận một cách tích cực và phấn đấu thực hiện vượt mức kế hoạch đó, bằng
cách cho trích vào ba quỹ nói trên theo một tỷ lệ cao hơn, nếu xí nghiệp đăng
ký nhận chỉ tiêu lợi nhuận cao hơn số kiểm tra do Nhà nước giao xuống.
- Khuyến khích xí nghiệp tận dụng
phế liệu để sản xuất các mặt hàng phụ, bằng cách cho trích đại bộ phận lợi nhuận
thu được về việc này vào ba quỹ của xí nghiệp.
Điều 5 - Việc
đánh giá mức độ hoàn thành kế hoạch lợi nhuận của xí nghiệp được thực hiện bằng
cách đối chiếu, so sánh lợi nhuận kế hoạch với lợi nhuận thực tế của xí nghiệp.
Lợi nhuận kế hoạch của xí nghiệp
là lợi nhuận được cơ quan chủ quản duyệt và được ghi trong kế hoạch tài chính
hàng năm (có phân chia ra từng quý, từng tháng) của xí nghiệp.
Điều 6. - Lợi
nhuận kế hoạch của xí nghiệp gồm:
- Lợi nhuận dự kiến phải đạt được
về các hoạt động kinh doanh cơ bản, căn cứ vào các chỉ tiêu của kế hoạch Nhà nước.
- Lợi nhuận dự kiến phải đạt được
về các hoạt động ngoài kinh doanh cơ bản và về cung cấp lao vụ cho bên ngoài của
xí nghiệp và của các đơn vị phụ thuộc của xí nghiệp (như tổ chức thu mua, tổ chức
vận tải, v.v…) nằm trong bảng cân đối thu, chi của xí nghiệp, và các khoản lợi
nhuận về các hoạt động khác đã đi vào nền nếp thường xuyên, mà xí nghiệp có thể
kế hoạch hóa được và cơ quan chủ quản thấy cần phải ghi vào chỉ tiêu kế hoạch của
Bộ, Tổng cục giao xuống cho xí nghiệp.
Điều 7. - Lợi
nhuận thực tế của xí nghiệp là lợi nhuận được ghi trong báo cáo quyết toán hàng
tháng, hàng quý và hàng năm của xí nghiệp.
Nếu trong thời gian kế hoạch, do
giá cả thay đổi, mà số thu về lợi nhuận tăng lên, thì xí nghiệp phải nộp toàn bộ
số tiền thu thêm được do giá cả thay đổi vào ngân sách Nhà nước. Trong trường hợp
này, số lợi nhuận thực tế của xí nghiệp dùng để đánh giá mức độ hoàn thành kế
hoạch lợi nhuận của xí nghiệp cũng như để xác định mức trích lập các quỹ của xí
nghiệp sẽ phải trừ đi số tiền thu thêm được do yếu tố giá cả thay đổi đó.
Nếu trong thời gian kế hoạch,
cũng do yếu tố giá cả thay đổi mà số thu về lợi nhuận xí nghiệp giảm đi, thì lợi
nhuận kế hoạch của xí nghiệp được trừ đi số tiền giảm bớt đó.
Những khoản lợi nhuận khác phát
sinh trong quá trình thực hiện kế hoạch, không thể dự trù trong kế hoạch lợi
nhuận đầu năm hoặc trong kế hoạch điều chỉnh trong năm đều phải tách ra khỏi lợi
nhuận thực tế trong việc đánh giá mức độ hoàn thành kế hoạch lợi nhuận của xí
nghiệp. Số lợi nhuận này được gộp vào lợi nhuận vượt kế hoạch để phân phối,
theo quy định ở điều 12 dưới đây.
Những khoản lợi nhuận do xí nghiệp
đã khai thác mọi năng lực phụ mà đạt thêm được trong thời gian kế hoạch được
phân phối như lợi nhuận thu được về thực hiện hàng hóa sản xuất bằng phế liệu,
nói ở điều 13 dưới đây.
MỤC II - PHÂN
PHỐI LỢI NHUẬN XÍ NGHIỆP
Điều 8. - Nếu
xí nghiệp được công nhận là hoàn thành kế hoạch lợi nhuận, thì lợi nhuận phân
phối như sau:
a) Trích nộp vào ngân sách Nhà
nước một tỷ lệ phần trăm nhất định của lợi nhuận kế hoạch, tối thiểu là 10%.
b) Trích một tỷ lệ phần trăm của
số lợi nhuận đạt được đó vào quỹ khuyến khích phát triển sản xuất của xí nghiệp.
c) Trích lập quỹ khen thưởng và
quỹ phúc lợi theo các tiêu chuẩn quy định trong điều lệ này.
d) Phần còn lại, Nhà nước để cho
xí nghiệp góp vào vốn xây dựng cơ bản tập trung, bổ sung vốn lưu động nếu có kế
hoạch được Nhà nước duyệt. Nếu không có yêu cầu chi về những việc này hoặc chi
không hết, thì nộp vào ngân sách Nhà nước.
Điều 9.
- Nếu xí nghiệp không hoàn thành kế hoạch lợi nhuận thì lợi nhuận thực
tế được phân phối theo trật tự ưu tiên như sau:
1. Trước hết trích nộp vào ngân
sách Nhà nước đủ số phải nộp đã tính, căn cứ vào lợi nhuận kế hoạch, như nói ở
điều 8.
2. Đảm bảo số vốn cần thiết để
góp vốn xây dựng cơ bản tập trung hoặc bổ sung vốn lưu động nếu có kế hoạch được
Nhà nước duyệt. Nếu không có yêu cầu chi về những việc này hoặc chi không hết,
thì nộp phần lợi nhuận dành cho mục này vào ngân sách Nhà nước.
3. Trích lập quỹ khuyến khích
phát triển sản xuất theo tỷ lệ như quy định ở điều 8 và theo mức độ hoàn thành
kế hoạch.
4. Phần còn lại, nếu có, dùng để
trích lập quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi.
Điều 10. - Đối
với các xí nghiệp được duyệt là không có lãi, hoặc kế hoạch có lỗ, thì số hạ
giá thành kế hoạch so với giá thành thực tế năm trước được coi như lợi nhuận kế
hoạch.
Điều 11. - Kế
hoạch phân phối, sử dụng lợi nhuận đạt kế hoạch của xí nghiệp phải được ghi rõ
trong kế hoạch tài chính hàng năm (có chia ra từng quý, từng tháng) của xí nghiệp,
được cơ quan chủ quản duyệt. Trên cơ sở kế hoạch được duyệt này sẽ tiến hành việc
trích nộp lợi nhuận kế hoạch vào ngân sách Nhà nước, cũng như việc dự trù số vốn
cần thiết để bổ sung vốn lưu động hoặc góp vốn xây dựng cơ bản tập trung.
Điều 12. - Lợi
nhuận vượt kế hoạch của xí nghiệp là số chênh lệch cao hơn của lợi nhuận thực tế
(nói ở điều 7) So với lợi nhuận kế hoạch (nói ở điều 5 và điều 6).
Đối với các xí nghiệp được duyệt
là không có lãi hoặc có kế hoạch lỗ, thì số tiết kiệm do hạ giá thành thực tế
được nhiều hơn so với giá thành kế hoạch được coi như lợi nhuận vượt kế hoạch.
Lợi nhuận vượt kế hoạch của xí
nghiệp được phân phối như sau :
|
Nếu vượt kế hoạch căn cứ vào số
kiểm tra được giao
|
Nếu vượt kế hoạch đã đăng ký
phấn đấu cao hơn
|
- Nộp vào ngân sách Nhà nước
|
60%
|
30%
|
- Trích vào quỹ khuyến khích
phát triển sản xuất
|
20%
|
40%
|
- Trích vào quỹ khen thưởng
|
10%
|
15%
|
- Trích vào quỹ phúc lợi
|
10%
|
15%
|
Điều 13. - Xí
nghiệp nào tận dụng phế liệu để sản xuất thêm mặt hàng phụ, được tách riêng số lợi
nhuận thu được, do tiêu thụ hàng hóa sản xuất bằng phế liệu, ra khỏi tổng số lợi
nhuận của xí nghiệp và được phân phối số lợi nhuận đó như sau:
- Nộp vào ngân sách Nhà nước
20%.
- Trích vào quỹ khuyến khích
phát triển sản xuất 40%.
- Trích vào quỹ khen thưởng và
quỹ phúc lợi mỗi quỹ 20% để khuyến khích những tập thể và cá nhân công nhân,
viên chức xí nghiệp đã đóng góp nhiều công sức vào việc sản xuất hàng bằng phế
liệu.
Điều 14. - Căn
cứ vào những nguyên tắc trên đây, Bộ Tài chính và các Bộ, Tổng cục chủ quản
nghiên cứu và trình Thủ tướng Chính phủ xét duyệt mức trích vào lợi nhuận kế hoạch
áp dụng cho từng ngành sản xuất (công ty) và loại xí nghiệp cho phù hợp với
tính chất, điều kiện và vị trí sản xuất của ngành (công ty) và loại xí nghiệp đối
với nền kinh tế quốc dân.
Trong phạm vi mức chung ấn định
cho từng ngành (công ty) và loại xí nghiệp, Bộ, Tổng cục chủ quản ấn định mức
trích cụ thể cho từng xí nghiệp căn cứ vào mức doanh lợi, tình hình lao động,
thiết bị v.v… của từng xí nghiệp.
MỤC III - CHẾ
ĐỘ TRÍCH NỘP LỢI NHUẬN XÍ NGHIỆP VÀO NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
Điều 15. - Các
xí nghiệp quốc doanh trung ương và địa phương, vô luận có nộp thu nhập thuần
túy dưới hình thức thu quốc doanh hay không, đều có nhiệm vụ trích nộp lợi nhuận
vào ngân sách Nhà nước. Ngoài trường hợp có lý do khách quan được chấp nhận, nếu
xí nghiệp chưa nộp đủ số phải nộp trong năm kế hoạch, thì số còn thiếu phải ghi
thành nợ ngân sách Nhà nước để trích nộp bù trong các năm sau.
Điều 16. - Việc
trích nộp lợi nhuận tiến hành hàng tháng, dựa trên cơ sở lợi nhuận thực tế đạt
được, căn cứ vào quyết toán hoặc bảng cân đối tài khoản đã được cơ quan thu duyệt.
Trong khi chưa xác định được số
lợi nhuận thực tế đạt được, để đảm bảo thu kịp thời vào ngân sách và hạn chế việc
sử dụng ngoài kế hoạch những khoản tiền phải nộp vào ngân sách, xí nghiệp phải
trích nộp lợi nhuận vào ngân sách theo kế hoạch và thanh toán lại theo thực tế,
Bộ Tài chính ấn định số lần phải nộp lợi nhuận trong một tháng.
Điều 17. - Đến
hạn nộp, xí nghiệp phải chủ động tính và nộp lợi nhuận vào ngân sách, theo đúng
điều lệ của Nhà nước.
Ngân hàng Nhà nước phải trích
tài khoản của xí nghiệp chuyển nộp ngay cho ngân sách Nhà nước trong ngày kế tiếp
ngày nhận được giấy nộp tiền của xí nghiệp. Nếu tài khoản của xí nghiệp không
có tiền để nộp đủ số phải nộp thì ngân hàng căn cứ vào trật tự ưu tiên đã quy định
mà chuyển tiền nộp vào ngân sách, sau đó tiền vào tài khoản xí nghiệp đến đâu
thì tiệp tục trích nộp vào ngân sách đến đó cho đủ số.
Điều 18. - Các
xí nghiệp đến hạn trích nộp lợi nhuận vào ngân sách Nhà nước mà chưa nộp thì cứ
mỗi ngày chậm nộp, phải nộp một số tiền phạt bằng 0,1% số tiền chậm nộp.
Ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm
chuyển nộp đúng hạn và trích nộp lợi nhuận xí nghiệp vào ngân sách Nhà nước, nếu
chuyển nộp chậm làm cho xí nghiệp phải phạt thì ngân hàng phải bồi thường thiệt
hại cho xí nghiệp.
MỤC IV -
TRÍCH LẬP VÀ SỬ DỤNG QUỸ KHUYẾN KHÍCH PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT
Điều 19. - Quỹ
khuyến khích phát triển sản xuất được Nhà nước cho phép trích từ các khoản thu
nhập tài chính xí nghiệp sau khi đã hoàn thành kế hoạch và giao cho xí nghiệp sử
dụng vào những việc sau đây:
a) Cải tiến một phần máy móc thiết
bị, thay thế thiết bị cũ và mua thêm thiết bị lẻ, cải tiến nhỏ quy trình công
nghệ sản xuất, bố trí sắp xếp lại dây chuyền sản xuất theo yêu cầu cải tiến kỹ
thuật, và hợp lý hóa sản xuất, nâng cao công suất máy móc, thiết bị hoặc tăng
thêm hiệu suất sử dụng máy.
b) Xây dựng cơ bản nhỏ và dưới hạn
ngạch các công trình trực tiếp phục vụ sản xuất như mở rộng, củng cố, hoàn thiện,
làm thêm nhà cửa sản xuất, kho tàng và các vật kiến trúc, điều chỉnh và tu sửa
mặt bằng xí nghiệp để mở rộng sản xuất.
c) Mua sắm, chế tạo, thay đổi một
bộ phận máy móc thiết bị nhằm chế thử sản phẩm mới hoặc để sản xuất các mặt hàng
phụ bằng phế liệu.
d) Mua sắm, chế tạo những thiết
bị hoặc bộ phận thiết bị nhằm cải thiện điều kiện lao động, đảm bảo vệ sinh
công nghiệp, bảo vệ an toàn lao động của công nhân sản xuất, xây dựng bổ sung
các công trình bảo vệ an toàn cho máy móc thiết bị và công nhân.
Điều 20. - Nếu
trong năm, xí nghiệp không sử dụng hết quỹ khuyến khích phát triển sản xuất,
thì được giữ lại chuyển sang năm sau.
Điều 21. - Khi
hoàn thành sử dụng quỹ khuyến khích phát triển sản xuất, xí nghiệp phải ghi
tăng giá trị tài sản cố định theo số chi phí đã bỏ ra và phải tính khấu hao (khấu
hao cơ bản và khấu hao sửa chữa lớn) theo chế độ.
Điều 22. - Nguồn
vốn và cơ sở trích quỹ khuyến khích phát triển sản xuất hàng năm được quy định
như sau.
a) Trích từ số khấu hao cơ bản: theo
tỷ lệ phần trăm của số đã trích khấu hao cơ bản (Mỗi Bộ sẽ căn cứ vào tình trạng
trang bị kỹ thuật, nhu cầu về cải tiến kỹ thuật và hợp lý hóa sản xuất, phương
hướng phát triển của từng ngành công nghiệp để nghiên cứu, quy định và lập danh
sách đăng ký tỷ lệ trích với cơ quan tài chính cho từng nhóm, từng loại xí nghiệp
khác nhau. Mức phân phối xuống các xí nghiệp là từ 20% đến 50% tổng số thực thu
về khấu hao cơ bản của các xí nghiệp đó).
b) Toàn bộ số thu về nhượng bán
tài sản cố định cũ và không cần dùng, đã được cấp trên cho phép sau khi đã được
cơ quan tài chính thỏa thuận.
c) Trích từ lợi nhuận kế hoạch,
lợi nhuận vượt kế hoạch, lợi nhuận do thực hiện hàng hóa tự sản xuất bằng phế
liệu, theo những mức quy định ở các điều 12, 13 và 14 của điều lệ này.
Điều 23. - Qũy
khuyến khích phát triển sản xuất được trính hàng tháng sau khi đã có báo cáo
quyết toán của xí nghiệp.
Mức trích hàng tháng phải phù hợp
với các chỉ tiêu nguồn thu và cơ sở trích trong tháng đó.
Điều 24. - Số
được trích và thanh toán lại từ lợi nhuận được quy định như sau:
a) Trường hợp xí nghiệp không đạt
được kế hoạch lợi nhuận thì chỉ được trích theo tỷ lệ phần trăm mức đã đạt kế
hoạch.
b) Trường hợp xí nghiệp có kế hoạch
lợi nhuận, nhưng khi thực hiện lại không có lợi nhuận, hoặc bị lỗ thì không được
phép trích vì chưa có nguồn trích.
Trong cả 2 trường hợp a và b nói
trên, nếu cần xí nghiệp được phép vay vốn ở ngân hàng Nhà nước để chi cho kế hoạch
phát triển sản xuất và sẽ dùng quỹ khuyến khích phát triển sản xuất của các năm
sau để trả.
c) Trường hợp xí nghiệp có điều
kiện hoàn thành kế hoạch trích quỹ khuyến khích phát triển sản xuất, nhưng cần
vốn để sử dụng trước, thì được phép vay vốn ở ngân hàng Nhà nước và dùng quỹ
khuyến khích phát triển sản xuất để trả, khi đã được trích đủ theo chế độ.
d) Trường hợp xí nghiệp không có
lợi nhuận, hoặc có lỗ theo kế hoạch thì ngân sách Nhà nước cấp phát hoặc cho bổ
sung bằng vốn khấu hao cơ bản nộp cấp trên (công ty hoặc Bộ). Trong trường hợp
này Bộ chủ quản lập dự toán riêng để Bộ Tài chính trình Thủ tướng Chính phủ xét
duyệt.
Điều 25. - Qũy
khuyến khích phát triển sản xuất được trích lập phải gửi vào một tài khoản
riêng tại Ngân hàng Nhà nước để ngân hàng Nhà nước giám đốc việc sử dụng.
Điều 26. - Quỹ
khuyến khích phát triển sản xuất được trích lập và thanh toán theo kết quả thu
nhập tài chính của từng xí nghiệp, cơ quan chủ quản cấp trên không được tự ý điều
hòa từ xí nghiệp này sang xí nghiệp khác về nguồn vốn để trích cũng như số quỹ
đã được trích. Trường hợp cơ quan chủ quản xét cần phải huy động quỹ này để sử
dụng chung cho việc tổ chức hợp tác cải tiến kỹ thuật và hợp lý hóa sản xuất giữa
các xí nghiệp trong cùng một ngành sản xuất, thì phải bàn bạc, thỏa thuận với
xí nghiệp, và mức huy động không được quý 10% số quỹ của mỗi xí nghiệp.
Điều 27. - Hàng
năm, khi lập kế hoạch sản xuất - kỹ thuật - tài chính, xí nghiệp phải đồng thời
lập kế hoạch và dự toán sử dụng qũy khuyến khích phát triển sản xuất (có ghi rõ
công việc làm, chi phí từng việc, thời hạn hoàn thành, dự kiến hiệu quả kinh tế
và kết quả tăng thu về tài chính).
Kế hoạch và dự toán đó phải được
đăng ký với các cơ quan ngân hàng Nhà nước và cơ quan tài chính có liên quan,
nhằm bố trí kế hoạch rút quỹ hoặc cho vay thêm vốn và giám đốc việc thực hiện.
Điều 28. -
Cuối mỗi quý năm, xí nghiệp và công ty phải lập báo cáo thanh toán trích và quyết
toán sử dụng quỹ khuyến khích phát triển sản xuất trình Bộ, Tổng cục chủ quản
xét duyệt.
Điều 29. -
Các cơ quan tài chính và ngân hàng Nhà nước sẽ từ chối không thanh toán và
không cho rút quỹ khuyến khích phát triển sản xuất trong trường hợp xí nghiệp sử
dụng quỹ hoặc chi tiêu trái với điều lệ này và chế độ tài chính của Nhà nước.
MỤC V - TRÍCH
LẬP VÀ SỬ DỤNG QUỸ KHEN THƯỞNG VÀ QUỸ PHÚC LỢI
Điều 30.
- Quỹ khen thưởng dùng để tạo điều kiện cho xí nghiệp
thực hiện đầy đủ chính sách khen thưởng của Nhà nước, và có thể mở rộng diện
khen thưởng đối với những cá nhân và tập thể trong xí nghiệp đã góp phần trội
hơn vào việc quản lý và sản xuất, kinh doanh, làm tăng doanh lợi của xí nghiệp.
Cụ thể là để:
a) Khen thưởng cuối năm do công
nhân, viên chức, kể cả giám đốc xí nghiệp, có thành tích trong năm đối với việc
hoàn thành kế hoạch.
b) Khen thưởng đột xuất trong
năm những công nhân, viên chức có thành tích xuất sắc trong các cuộc vận động
thi đua hoặc trong từng quá trình sản xuất nhất định, những điển hình tốt về cải
tiến sản xuất và quản lý làm lợi cho xí nghiệp.
c) Chi tặng phẩm thi đua.
Điều 31. - Quỹ
phúc lợi dùng để:
a) Xây dựng thêm, mở rộng, sửa
chữa nhà ở, câu lạc bộ, nhà nghỉ, trại điều dưỡng, vườn trẻ, nhà ăn, căn tin,
các công trình thể dục, thể thao, giếng nước, bếp ăn… và làm những công việc
khác phục vụ cho đời sống cán bộ, công nhân xí nghiệp.
b) Cải thiện điều kiện sinh hoạt
văn hóa và chăm lo sức khỏe cho cán bộ, công nhân xí nghiệp, mua sắm thêm dụng
cụ y tế, thuốc men cho cơ sở điều trị của xí nghiệp (bệnh xá hoặc trạm xá)
trang bị dụng cụ cho nhà ăn, căn tin, cho cơ sở điều trị, cho câu lạc bộ, cho
vườn trẻ, mua sắm dụng cụ phương tiện thể dục thể thao, chi phí về nghỉ, về điều
dưỡng.
c) Cho vay làm vốn tăng gia sản
xuất nhằm cải thiện sinh hoạt cho công nhân, viên chức.
d) Chi phí thêm về bổ túc văn
hóa và học tập nghiệp vụ kỹ thuật ở xí nghiệp.
e) Trợ cấp khó khăn đột xuất.
Điều 32. - Để
xác định mức trích lập quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi, sau khi đã tính
toán như quy định ở các điều 12, 13 và 14, còn phải đối chiếu với ba tiêu chuẩn
sau đây:
- Giá trị sản lượng thương phẩm.
- Chỉ tiêu quỹ tiền lương.
- Chỉ tiêu về sản phẩm chủ yếu.
Nếu xí nghiệp không đạt ba tiêu
chuẩn đó, thì sẽ trừ số được trích một tỷ lệ phần trăm hợp lý, tùy theo mức độ
vi phạm tiêu chuẩn đối với từng quý: Bộ Tài chính sẽ hướng dẫn cụ thể.
Điều 33. - Nguồn
trích lập quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi là lợi nhuận xí nghiệp.
Đối với xí nghiệp có kế hoạch lỗ
hoặc không có kế hoạch lãi thì quỹ này do Ngân sách cấp. Trên cơ sở mức độ hoàn
thành kế hoạch giá thành cơ quan chủ quản sẽ cùng với cơ quan tài chính xác định
số tiền cấp phát cho xí nghiệp.
Điều 34. - Quỹ
khen thưởng và quỹ phúc lợi là hai quỹ riêng biệt không được điều hòa.
Điều 35. - Giám
đốc xí nghiệp có trách nhiệm cùng với Ban chấp hành công đoàn xí nghiệp quản lý
quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi bàn bạc cách sử dụng và giám sát việc sử dụng.
Giám đốc xí nghiệp chịu trách nhiệm đề ra kế hoạch và hướng dẫn việc sử dụng quỹ
khen thưởng, có sự tham gia của Ban chấp hành công đoàn.
Ban chấp hành công đoàn đề ra
phương hướng và kế hoạch sử dụng quỹ phúc lợi và đưa ra đại hội công nhân, viên
chức của xí nghiệp thảo luận và quyết định.
Điều 36. - Quỹ
khen thưởng và quỹ phúc lợi được tạm trích trước hàng quý. Căn cứ vào kết quả
công tác từng quý, xí nghiệp lập bảng trích quỹ phúc lợi và quỹ khen thưởng và
bảng báo cáo quyết toán (tổng kết tài sản) quý gửi lên Bộ chủ quản xí nghiệp.
Sau khi được duyệt, thì tạm trích trước 50% quỹ phúc lợi và quỹ khen thưởng được
trích của quý.
Hết năm, căn cứ vào mức quỹ
trích phúc lợi và quỹ khen thưởng cả năm, xí nghiệp phải thanh toán số quỹ đã tạm
trích trong các quý, còn thiếu thì trích thêm, nếu trích thừa thì nộp trả vào
công quỹ.
Điều 37. - Việc
xét duyệt quỹ phúc lợi và quỹ khen thưởng quy định như sau:
- Bộ chủ quản xét duyệt cho các
xí nghiệp thuộc trung ương quản lý, sau khi bàn với Bộ Tài chính.
- Ủy ban hành chính tỉnh, thành
phố xét duyệt cho các xí nghiệp thuộc địa phương quản lý, sau khi bàn với Sở,
Ty tài chính.
Điều 38.- Căn
cứ vào mức quỹ đã được xét duyệt hàng quý và cả năm, giám đốc xí nghiệp trích lập
các quỹ nói trên theo đúng chế độ của Nhà nước. Cơ quan chủ quản xí nghiệp, cơ
quan tài chính, cơ quan lao động và Tổng công đoàn có nhiệm vụ kiểm tra việc
trích lập và sử dụng các quỹ này.
Điều 39. - Giám
đốc xí nghiệp có nhiệm vụ tổ chức hạch toán quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi
theo đúng chế độ kế toán của Nhà nước, lập quyết toán và báo cáo 6 tháng và
hàng năm với đại hội công nhân, viên chức xí nghiệp và với cơ quan cấp trên. Kế
toán trưởng có trách nhiệm giúp giám đốc xí nghiệp hạch toán và báo cáo chính
xác các việc nói trên.
Điều 40. - Trong
các báo cáo hàng quý, hàng năm của xí nghiệp, phải ghi rõ số tiền quỹ khen thưởng
và quỹ phúc lợi được trích và số tiền đã chi dùng theo từng khoản.
MỤC VI - GÓP
VỐN XÂY DỰNG CƠ BẢN TẬP TRUNG VÀ BỔ SUNG VỐN LƯU ĐỘNG THEO KẾ HOẠCH
Điều 41. - Để
phát huy tính chủ động, tích cực của xí nghiệp, xí nghiệp nào có kế hoạch xây dựng
cơ bản (ngoài phần do quỹ khuyến khích phát triển sản xuất gánh chịu) hoặc có
yêu cầu tăng thêm vốn lưu động theo kế hoạch được Nhà nước duyệt thì được dùng
phần lợi nhuận còn lại (sau khi đã trích nộp vào Ngân sách Nhà nước và trích lập
ba quỹ theo chế độ) để chi vào hai việc nói trên. Nếu số tiền còn lại không đủ
thì ngân sách Nhà nước cấp thêm.
Hàng năm đi đôi với việc lập kế
hoạch phân phối, sử dụng lợi nhuận, xí nghiệp phải lập kế hoạch vốn xây dựng cơ
bản và kế hoạch vốn lưu động, kế hoạch này được duyệt thì mới được trích hoặc
được cấp phát thêm nếu thiếu. Nếu không có kế hoạch sử dụng số vốn đó, thì phải
nộp nốt phần lợi nhuận còn lại vào ngân sách Nhà nước. Nếu được trích rồi nhưng
cuối năm sử dụng không hết thì số còn lại cũng nộp vào ngân sách Nhà nước.
Điều lệ này được ban hành kèm
theo Nghị định số 236-CP ngày 10-12-1970 của Hội đồng Chính phủ.